Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

Luận điệu xuyên tạc, hạ uy tín khi Việt Nam tiếp tục ứng cử Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2026 – 2028.

 Ngày 12/12, phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc (LHQ) đã tổ chức lễ công bố Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028.

    Sự kiện được tổ chức vào dịp kỷ niệm Ngày Nhân quyền quốc tế đã thu hút sự quan tâm, tham dự của đông đảo đại sứ, đại diện các phái đoàn thường trực và quan sát viên tại LHQ. Việc tiếp tục ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026 – 2028 khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam đối với quốc tế, cũng như sự ghi nhận đối với thành tựu và đóng góp của Việt Nam trong đảm bảo quyền con người.

    Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo

    Tuy nhiên, ngay sau tuyên bố của đại diện Việt Nam, các phương tiện truyền thông, mạng xã hội của các tổ chức thù địch, phản động lưu vong đã tung ra nhiều bài viết công kích, xuyên tạc, vu cáo tình hình nhân quyền Việt Nam. Đồng thời, họ kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế nhằm gây sức ép, cản trở Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028.

     

    Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt phát biểu tại Lễ công bố. Ảnh: BNG

    Nếu như đọc qua bài viết trên trang RFA Tiếng Việt với tiêu đề “Nhiều tổ chức nhân quyền phản đối Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ”, nhiều người sẽ lầm tưởng về việc có nhiều tổ chức quốc tế lên tiếng đối với vấn đề này. Tuy nhiên, trong nội dung bài viết chỉ nêu ý kiến của duy nhất một thành viên thuộc tổ chức Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (Civicus) với vài thông tin sơ sài cũng như thêm thắt một số thông tin xuyên tạc có chủ đích nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam. Tổ chức Civicus cũng là cái tên quen thuộc thường xuyên có hoạt động xuyên tạc, vu cáo Việt Nam về tình hình nhân quyền. Như vậy, không hề có chuyện “nhiều tổ chức nhân quyền phản đối” mà chỉ là một số tổ chức, nhóm cá nhân có hoạt động chống phá Việt Nam đã lợi dụng việc này để “té nước theo mưa”.

    Ngoài ra, VOA Tiếng Việt dẫn nguồn tin từ tổ chức Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) về việc tổ chức này “bày tỏ quan ngại trước sự gia tăng đàn áp của chính quyền Việt Nam đối với các nhóm tôn giáo độc lập”. Tuy nhiên, nội dung bài viết đều là những thông tin, căn cứ mơ hồ, nội dung phản ánh sai trái như cho rằng Việt Nam có phân biệt đối xử của xã hội đối với người dân tộc thiểu số, vu cáo chính quyền hành hung người dân tộc thiểu số theo tôn giáo ở Tây Nguyên và Tây Bắc, bày tỏ quan ngại về việc người dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành ở Tây Nguyên bị hạn chế hoạt động, áp dụng luật pháp không nhất quán dẫn tới nhiều khó khăn trong việc đăng ký với chính quyền cấp tỉnh của các giáo xứ vùng sâu, vùng xa. Điều đáng nói là những thông tin trên lại xuất phát từ một số phần tử chống đối trong nước tích cực tham gia hội luận trực tuyến do bên ngoài tổ chức, số này xuyên tạc rằng “chính quyền Việt Nam cướp đất của người Khmer, đàn áp người dân tộc”… Những thông tin bịa đặt như vậy nhưng lại được đưa vào báo cáo nhân quyền, tạo cớ chống Đảng, Nhà nước Việt Nam.

    Tổ chức khủng bố Việt Tân thì rêu rao về các cuộc biểu tình của người Việt tại một số quốc gia như Na Uy, Đức, Úc, Canada… để vu cáo Việt Nam “đàn áp nhân quyền”. Các đối tượng lồng ghép những biểu ngữ sai sự thật về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, vu cáo “dưới chế độ độc tài, người dân Việt Nam không có dân chủ, tự do” và cho rằng chính quyền Việt Nam đang thực hiện những hành vi đàn áp đối với những người bất đồng chính kiến; miệt thị, xuyên tạc Việt Nam “bịt miệng” quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên, nhìn những hình ảnh được chính tổ chức này lan truyền trên mạng xã hội, không khó để thấy những cuộc biểu tình trên thực chất chỉ là sự tập trung của một nhóm nhỏ với những gương mặt chống đối quen thuộc, hoàn toàn không có chuyện “biểu tình rầm rộ” như thông tin họ đưa ra.

    Có thể thấy, dựa vào các thông tin sai lệch về tình hình tự do tôn giáo, dân tộc và tình hình nhân quyền do một số phần tử phản động ở trong nước, một số tổ chức phi chính phủ không thiện chí với Việt Nam, tổ chức phản động lưu vong chống phá Việt Nam như Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (Civicus); Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), Mạng lưới nhân quyền Việt Nam (VHRN)…, trong đó có nhiều thông tin phiến diện, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Dựa vào đó, các thế lực thù địch kêu gọi sự can thiệp của các quốc gia phương Tây nhằm đòi Chính phủ Việt Nam phải trả tự do cho tất cả những phạm nhân mà họ tự gọi là “tù nhân lương tâm”…

    Đây không phải chiêu trò gì mới khi các tổ chức trên đưa những thông tin xuyên tạc, vu cáo về tình hình nhân quyền cũng như kêu gọi sự can thiệp của quốc tế nhằm chống phá Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ. Khi Việt Nam tuyên bố ứng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025, các thành phần chống phá Việt Nam cũng đã dùng mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, hạ uy tín, cản trở Việt Nam. Dưới chiêu bài bảo vệ dân chủ, nhân quyền, các tổ chức này ra sức vận động nhằm gây sức ép lên Chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC), sau đó Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo (SWL). Với chiêu trò này, họ tìm cách hạ uy tín, vị thế của Việt Nam đối với quốc tế cũng như khuếch trương thanh thế và kích động số chống đối ở trong nước tiến hành các hoạt động tụ tập, gây rối, bạo loạn lật đổ.

    Chiêu trò vu cáo không thể phủ mờ thành tựu, vị thế của Việt Nam

    Nhân quyền là vấn đề mang tính phổ quát của toàn cầu. Tuy nhiên, với mỗi quốc gia, dân tộc, tuỳ theo đặc điểm văn hoá, lịch sử đều có những tiêu chuẩn, quy định riêng. Việc áp đặt tiêu chí của nước này vào nước khác là không phù hợp và đó cũng là hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, không đúng với quy định của LHQ. Trên thực tế, Việt Nam đã thể hiện bằng những hành động cụ thể thực thi quyền con người theo những Công ước mà Việt Nam đã ký kết. Cụ thể như: Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục bỏ án tử hình ở 8 tội danh; không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội. Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của LHQ về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế. So với nhiều nước, Việt Nam không thua kém về số lượng các công ước đã ký kết.

    Từ khi Hội đồng Nhân quyền LHQ được thành lập (năm 2006), Việt Nam hai lần trúng cử vào Hội đồng này: Năm 2013, lần đầu tiên trúng cử nhiệm kỳ 2014-2016; năm 2022 trúng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025 và đang tái ứng cử nhiệm kỳ 2026-2028 để tiếp nối những đóng góp và cam kết. Đồng thời, Việt Nam là thành viên tích cực của các thể chế nhân quyền LHQ và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con người. Với tư cách là quốc gia thành viên, Việt Nam đã nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia; rà soát kết quả thực hiện và báo cáo định kỳ nghiêm túc với Hội đồng Nhân quyền LHQ.

    Trong nhiệm kỳ 2023-2025, Việt Nam cùng 13 quốc gia khác đảm nhiệm vị trí thành viên của Hội đồng Nhân quyền. Trong vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ thông qua các hoạt động thực chất. Tại các diễn đàn quốc tế, Việt Nam tích cực tham gia đối thoại, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong việc bảo đảm quyền con người. Chẳng hạn, Việt Nam đã nhiều lần phát biểu và góp ý về các vấn đề toàn cầu như bảo vệ quyền trẻ em, thúc đẩy bình đẳng giới và ứng phó với biến đổi khí hậu – những lĩnh vực có tác động trực tiếp đến quyền sống và phát triển của con người. Không chỉ dừng lại ở các diễn đàn quốc tế, trong nước, Việt Nam cũng triển khai nhiều chương trình, chính sách nhằm hiện thực hóa các cam kết về quyền con người. Đồng thời, Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận khi có cách tiếp cận xây dựng trong thúc đẩy đối thoại trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền giữa các nước liên quan, các tổ chức khu vực và các cơ chế của LHQ về quyền con người nhằm giải quyết những quan tâm cụ thể về các vấn đề liên quan đến nhân quyền, nhân đạo; gắn với việc phối hợp với các nước đang phát triển đấu tranh để bảo đảm Hội đồng Nhân quyền hoạt động đúng nguyên tắc, thủ tục, không chính trị hóa, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước.

    Tại khu vực, uy tín của Việt Nam được thể hiện qua vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 2020, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR).

    Năm 2024, một trong những thành tựu nổi bật là các chính sách an sinh xã hội được thực hiện một cách hiệu quả, đặc biệt hướng đến các nhóm yếu thế. Các chương trình hỗ trợ sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số tại vùng sâu, vùng xa đã góp phần giảm nghèo bền vững, trong khi các sáng kiến thúc đẩy giáo dục hòa nhập dành cho trẻ em khuyết tật được triển khai rộng rãi. Ngoài ra, việc cải cách Luật Lao động nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động trong các ngành công nghiệp đã giúp Việt Nam cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao mức sống cho hàng triệu người lao động. Theo Báo cáo Phát triển con người của UNDP, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2024 tăng 8 bậc so với kỳ trước, từ 115 lên vị trí 107/193 quốc gia. Theo xếp hạng của LHQ, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143; chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 tăng 1 bậc so với năm 2023, xếp thứ 54/166. Việt Nam hiện là thành viên và tích cực tham gia các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền LHQ, nhiệm kỳ 2023-2025. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia tiến nhanh nhất trên thế giới về tăng Chỉ số phát triển con người (HDI). Chỉ trong vòng 1 thập kỷ, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng 46%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới. Theo các tổ chức và chuyên gia quốc tế, đây là minh chứng cho thấy Việt Nam luôn đặt con người là mục tiêu, động lực cho sự phát triển.

    Việc tái ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028 là cơ hội lớn để Việt Nam tiếp tục đóng góp tích cực vào những nỗ lực chung của LHQ cũng như của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ và thúc đẩy những giá trị phổ quát về quyền con người, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội. Các chiêu trò vu cáo không thể phủ mờ thành tựu, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

    Công ước Hà Nội khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người trên không gian mạng.

     Ngày 24/12/2024 (giờ địa phương), tại New York, Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) đã thông qua Công ước LHQ về chống tội phạm mạng, đánh dấu một cột mốc lịch sử trong nỗ lực toàn cầu nhằm đối phó với tội phạm trong thời đại số.

      Đặc biệt, theo Điều 64 của Công ước, văn kiện này sẽ được mở ký tại Thủ đô Hà Nội trong năm 2025 và mang tên gọi "Công ước Hà Nội". Đây là sự kiện không chỉ thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế mà còn khẳng định vai trò ngày càng nổi bật, quan trọng cũng như uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời là bằng chứng sinh động tiếp tục bác bỏ luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động vu cáo Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền.

      Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động thúc đẩy hoà bình, an ninh và phát triển của toàn cầu

      Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập LHQ, đây là một mốc son lịch sử đánh dấu sự ghi nhận của tổ chức toàn cầu lớn nhất hành tinh và cộng đồng quốc tế đối với một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do và dân chủ. Trong suốt chặng đường 48 năm là thành viên của LHQ, Việt Nam từ một nước nhỏ vừa thoát khỏi chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ mà LHQ đề ra; mối quan hệ giữa Việt Nam với LHQ không ngừng được củng cố, phát triển và Việt Nam luôn nỗ lực là một thành viên tin cậy, chủ động, có trách nhiệm của LHQ, nổi bật là những đóng góp to lớn vì mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.


       

      Đại diện Phái đoàn Việt Nam phát biểu tại sự kiện thông qua Công ước Hà Nội.


      Ngay sau khi gia nhập LHQ, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của các nước thành viên, các tổ chức quốc tế, viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và Việt Nam đã sớm trở thành một trong những quốc gia hoàn thành các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) của LHQ.

      Bên cạnh đó, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia một cách có trách nhiệm nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của LHQ, trong đó nổi bật là việc đóng góp, xây dựng mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh quốc tế của LHQ: Việt Nam tích cực tham gia đàm phán và là một trong những nước đầu tiên ký Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT), tham gia và trở thành thành viên của Hội nghị Giải trừ quân bị (CD), Việt Nam tích cực thương lượng và trở thành thành viên chính thức của Công ước cấm vũ khí hóa học (CWC).

      Ngoài ra, Việt Nam đã phê chuẩn và thực thi nhiều công ước quốc tế về nhân quyền như Công ước chống tra tấn (CAT) và Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR); đồng thời chủ động đưa ra các kiến nghị về việc cải thiện cơ chế giám sát và xử lý tội ác chống lại loài người. Những cải tiến này không chỉ dừng lại ở cấp quốc tế mà còn được Việt Nam áp dụng vào hệ thống pháp luật trong nước, như việc sửa đổi Bộ luật Hình sự để phù hợp với các chuẩn mực quốc tế…

      Là một quốc gia từng chịu nhiều tổn thất nặng nề từ chiến tranh, Việt Nam hiểu rõ hơn ai hết giá trị của hòa bình và nhân quyền. Từ kinh nghiệm lịch sử, Việt Nam đã biến đau thương thành động lực để đóng góp tích cực vào các nỗ lực quốc tế nhằm đấu tranh chống lại các tội ác chống lại loài người.

      Vai trò của Việt Nam không chỉ giới hạn ở việc tham gia, mà còn chủ động thúc đẩy hợp tác, sáng kiến và cải tiến các cơ chế pháp lý toàn cầu. Đặc biệt, Việt Nam đã hai lần được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy các nỗ lực ngoại giao, đối thoại, tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các xung đột quốc tế. Với vai trò này, Việt Nam đã đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng như việc thúc đẩy các nghị quyết về bảo vệ dân thường trong xung đột, ứng phó với hậu quả của chiến tranh và biến đổi khí hậu.

      Bên cạnh đó, Việt Nam còn được bầu vào Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) và nhiều cơ chế quan trọng khác của LHQ. Những đóng góp tích cực của Việt Nam vào các cơ chế này đã giúp nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế, đồng thời khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy các giá trị nhân quyền, bình đẳng giới, và phát triển bền vững.

      Từ khi Hội đồng Nhân quyền LHQ được thành lập (năm 2006), Việt Nam hai lần trúng cử vào Hội đồng này: Năm 2013, lần đầu tiên trúng cử nhiệm kỳ 2014-2016; năm 2022 trúng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025 và đang tái ứng cử nhiệm kỳ 2026-2028 để tiếp nối những đóng góp và cam kết. Đồng thời, Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận khi có cách tiếp cận xây dựng trong thúc đẩy đối thoại trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền giữa các nước liên quan, các tổ chức khu vực và các cơ chế của LHQ về quyền con người nhằm giải quyết những quan tâm cụ thể về các vấn đề liên quan đến nhân quyền, nhân đạo; gắn với việc phối hợp với các nước đang phát triển đấu tranh để bảo đảm Hội đồng Nhân quyền hoạt động đúng nguyên tắc, thủ tục, không chính trị hóa, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước.

      Với những đóng góp của mình, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào nhiều vị trí, cơ quan quan trọng của LHQ và ghi được nhiều "dấu ấn" Việt Nam tại các cơ quan như: thành viên Hội đồng Thống đốc cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) 2021-2023, Hội đồng khai thác Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) nhiệm kỳ 2022-2025, Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ Khóa 77 (9/2022-9/2023); các cơ quan điều hành và chuyên môn của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) như: Hội đồng Chấp hành UNESCO 2021-2025, Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ và phát huy sự đa dạng của biểu đạt văn hóa 2021-2025, Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể 2022-2026; Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) 2023-2027; Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025; Ủy ban pháp lý và kỹ thuật của Cơ quan quyền lực đáy đại dương (LTC) nhiệm kỳ 2023-2027.

      Với những thành tựu nổi bật và đóng góp tích cực trong suốt 48 năm qua, Việt Nam đã khẳng định vai trò của mình là một thành viên trách nhiệm và tích cực của LHQ. Hiện tại và tương lai, Việt Nam sẽ tiếp tục đóng góp vào việc giải quyết các thách thức mới nổi lên như tội phạm mạng và bảo đảm quyền con người trên không gian mạng. Qua đó, thúc đẩy hoà bình, an ninh và phát triển của toàn cầu.

      Công ước Hà Nội khẳng định vị thế và vai trò của Việt Nam trong đảm bảo quyền con người trên không gian mạng

      Với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, không gian mạng đang trở thành môi trường thuận lợi cho các băng nhóm tội phạm móc nối với nhau, tạo thành những mạng lưới tội phạm lớn, hoạt động xuyên quốc gia. Chúng triệt để lợi dụng tính ẩn danh, tạo lập, sử dụng các trang mạng có máy chủ ở nước ngoài, nhất là các mạng xã hội có sự phát triển nhanh, bảo mật hơn như Telegram, Viber, TikTok, Instagram, Twitter...; sử dụng các tài khoản cá nhân nặc danh, ẩn danh, chiếm đoạt được của người khác, tài khoản giả mạo, lập các trang, nhóm mạng xã hội ẩn thông tin quản trị để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

      Tội phạm xuyên quốc gia, nhất là tội phạm mạng hiện nay đang là vấn đề chung của quốc tế và không một quốc gia đơn lẻ nào có thể tự mình giải quyết được vấn đề này. Do đó, hợp tác giữa các nước trong phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia đóng vai trò hết sức quan trọng. Với nguyên tắc "không đi sau tội phạm, không để tội phạm lộng hành", Việt Nam đã và đang nỗ lực, kiên quyết, kiên trì, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, nhất là tội phạm mạng trong thời đại số hiện nay.

      Sự ra đời của Công ước Hà Nội đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hơn hai thập niên, khi lần đầu tiên một văn kiện quốc tế về tội phạm xuyên quốc gia được thông qua. Văn kiện này không chỉ thể hiện quyết tâm của cộng đồng quốc tế trong việc đối phó với những thách thức ngày càng phức tạp từ không gian mạng mà còn khẳng định, sự đoàn kết và hợp tác là chìa khóa để đảm bảo an ninh mạng toàn cầu. Công ước gồm 9 chương, 71 điều là kết quả của gần 4 năm thương lượng liên tục và kéo dài (2021-2024) giữa các quốc gia thành viên nhằm xây dựng một khuôn khổ pháp lý đa phương toàn diện để đấu tranh với loại tội phạm nguy hiểm này. Đánh giá về vai trò của Công ước Hà Nội, nhất là trong đảm bảo quyền con người trên không gian mạng, Chủ tịch Đại hội đồng LHQ Philémon Yang coi đây là một công cụ mới để bảo vệ con người trong một thế giới nơi công nghệ thông tin và không gian số cho thấy tiềm năng to lớn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối đe dọa.

      Bà Ghada Waly, Giám đốc điều hành Văn phòng LHQ về chống ma túy và tội phạm (UNODC) đánh giá, việc thông qua Công ước Hà Nội là một chiến thắng hết sức ý nghĩa của chủ nghĩa đa phương, đồng thời là bước tiến quan trọng trong nỗ lực của cộng đồng quốc tế hướng tới việc xử lý các hành vi phạm tội trên không gian mạng như lạm dụng tình dục trẻ em, lừa đảo trực tuyến hay rửa tiền… Cùng ngày, Tổ chức Cảnh sát quốc tế (Interpol) cũng đánh giá cao việc Đại hội đồng LHQ thông qua Công ước Hà Nội là một dấu mốc quan trọng trong cuộc chiến chống lại các mối đe dọa từ tội phạm mạng.

      Sự kiện Việt Nam đăng cai Lễ ký Công ước tại Thủ đô Hà Nội tới đây khẳng định cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, nâng cao nhận thức và năng lực phòng ngừa của người dân đối với tội phạm mạng, cũng như góp phần đảm bảo quyền con người trên không quan mạng, xây dựng môi trường kinh doanh ổn định, an toàn, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, cho thấy lập trường nhất quán của Việt Nam là đề cao luật pháp quốc tế, chủ trương chủ động tham gia, đóng góp tích cực vào công việc chung của LHQ để giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu, trong đó, tội phạm luôn là mối đe dọa đối với an ninh, kinh tế và ổn định xã hội của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

      Trong bối cảnh thế giới đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về nhân quyền và công lý quốc tế, nhu cầu cấp bách về một hiệp ước toàn cầu mới để ngăn chặn tội phạm mạng, bảo vệ quyền con người trên không gian mạng chưa bao giờ rõ ràng hơn. Với kinh nghiệm lịch sử và trách nhiệm quốc tế, Việt Nam không chỉ góp phần xây dựng nền hòa bình bền vững mà còn trở thành điểm sáng trong nỗ lực bảo vệ nhân quyền và đấu tranh chống tội phạm mạng toàn cầu. Công ước Hà Nội một lần nữa thể hiện cam kết mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng một không gian mạng an toàn, lành mạnh. Đây không chỉ là công cụ pháp lý quan trọng, mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết và hợp tác toàn cầu trước những thách thức mới của thời đại số.

      Việc các quốc gia cùng nhau tham gia và thực hiện Công ước sẽ góp phần bảo vệ lợi ích chung, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững trong kỷ nguyên công nghệ 4.0. Đồng thời đây cũng là cơ hội lớn để Việt Nam tiếp tục đóng góp tích cực vào những nỗ lực chung của LHQ cũng như của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ và thúc đẩy những giá trị phổ quát về quyền con người, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội. Qua đó, tiếp tục khẳng định thành tựu, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và các chiêu trò vu cáo Việt Nam trong vấn đề dân chủ, nhân quyền.

      VIỆT NAM TÔN TRỌNG, ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ

      Những thành tựu to lớn trong thực hiện chính sách dân tộc đã chứng minh Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số (DTTS). 

      Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 53 DTTS. Đa số đồng bào DTTS sinh sống ở vùng miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn. Năm 1982, Việt Nam tham gia Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD). Đảng và Nhà nước ta luôn xác định việc đảm bảo các quyền cho người DTTS chính là biểu hiện cao nhất của thực thi Công ước CERD; đồng thời kết quả thực hiện các quyền cho người DTTS chính là chỉ báo của một xã hội văn minh, tiến bộ, phát triển.

       

      Thể hiện quyết tâm trong thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, Việt Nam đã tích cực nội luật hóa các quy định, nguyên tắc về quyền con người trong các công ước quốc tế mà Việt Nam là quốc gia thành viên, phù hợp với điều kiện về chính trị, kinh tế, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc. Mục tiêu của việc nội luật hóa là đảm bảo sự tiến bộ thực sự về nhân quyền cho người DTTS, không phân biệt chủng tộc, dân tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, chính kiến, nguồn gốc xuất thân...

       

      Hiện nay, từ 30 văn bản thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước đã thể chế thành hệ thống chính sách dân tộc bao phủ hầu hết các lĩnh vực đời sống của đồng bào DTTS. Hơn 10 năm qua, Quốc hội Việt Nam đã ban hành 125 luật, trong đó có 352 điều khoản luật trực tiếp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các DTTS. Trong đó, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Nguyên tắc trên được quán triệt trong toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, là nguyên tắc cơ bản của chính sách đảm bảo quyền cho các DTTS. Các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.

       

      Đồng thời, Nhà nước Việt Nam còn khẳng định ưu tiên hỗ trợ và tăng cường đoàn kết giúp đỡ, tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực vươn lên hội nhập với sự phát triển chung được thể hiện tại Điều 5 Khoản 4 của Hiến pháp 2013: “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Đây là nguyên tắc và là biểu hiện đặc trưng cơ bản trong chính sách dân tộc của Việt Nam và phù hợp với Khoản 4 Điều 1 Công ước CERD.

       

      Pháp luật Việt Nam còn có những quy định cụ thể về cấm phân biệt đối xử tại Hiến pháp năm 2013 (Điều 16, 26, 35), khẳng định lập trường kiên quyết phản đối và chống chia rẽ, kích động hận thù giữa các dân tộc. Những hành vi phân biệt chủng tộc hoặc hỗ trợ các hoạt động gây chia rẽ, kỳ thị và phân biệt chủng tộc đều bị pháp luật Việt Nam nghiêm cấm, trừng trị nghiêm khắc.

       

      Trong các giai đoạn lịch sử của cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn ưu tiên hỗ trợ các DTTS phát triển về mọi mặt. Nhờ đó, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở vùng đồng bào DTTS đã đạt được những thành tựu to lớn. Trước hết, bình đẳng về chính trị của các DTTS được thực hiện ngày càng hiệu quả. Từ năm 1946 đến nay, kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội nào cũng có đại diện của từ 28-32 dân tộc. Nếu như Khóa I mới chỉ có 10,2% đại biểu người DTTS thì Quốc hội Khóa XV nhiệm kỳ 2021 - 2026, đã có 89/499 đại biểu là người DTTS, chiếm tỷ lệ 17,84%, cao nhất trong các khóa và tiệm cận rất sát tới mục tiêu đảm bảo ít nhất 18% đại biểu Quốc hội là người DTTS. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS ở cấp xã, về cơ bản đạt mục tiêu theo Quyết định số 402/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Nhiều tỉnh biên giới đạt cao trên 30% như: Cao Bằng 87,9%, Lạng Sơn 75,2%, Hà Giang 56%, Sơn La 53%, Điện Biên 46,4%, Lào Cai 37,5%...

       

      Bên cạnh đó, những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng Việt Nam đã ưu tiên bố trí ngân sách để đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi. Giai đoạn 2016 - 2020 là 998 nghìn tỷ đồng. Giai đoạn 2021 - 2025, lần đầu tiên, Việt Nam có Chương trình mục tiêu quốc gia dành riêng cho vùng đồng bào vùng DTTS và miền núi, thể hiện sự quan tâm đặc biệt, là quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao vị thế và đảm bảo quyền phát triển cho đồng bào DTTS. Giai đoạn này, Quốc hội phê duyệt chủ trương bố trí trên 137 nghìn tỷ đồng để thực hiện chương trình.

       

      Dưới tác động của hệ thống chính sách dân tộc, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hàng năm. Bình quân toàn vùng DTTS và miền núi giảm 4%/năm; các xã đặc biệt khó khăn giảm trên 4%/năm trở lên; các huyện nghèo giảm 5 - 6%/năm trở lên, trong khi cả nước tốc độ giảm chỉ là 2%/năm. Hơn 1,4 triệu hộ DTTS đang được thụ hưởng các chương trình tín dụng ưu đãi. Thông qua vốn tín dụng chính sách, đồng bào DTTS có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm bệnh tật, giảm thất học và tệ nạn xã hội, thêm tự tin, tăng dần vị thế trong xã hội. Mạng lưới y tế vùng DTTS và miền núi không ngừng phát triển. Đồng bào DTTS, phụ nữ, trẻ em dưới 6 tuổi, người dân vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo ngày càng có nhiều cơ hội được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản. Bệnh sốt rét, bướu cổ cơ bản được khống chế; tuổi thọ trung bình của 53 DTTS đạt 70,7 tuổi, tăng 0,8 tuổi so với năm 2015, tiến khá gần tới mức chung của cả nước (73,6 tuổi). Quy mô, mạng lưới trường, lớp vùng DTTS và miền núi được củng cố, phát triển từ mầm non, phổ thông đến cao đẳng, đại học. Công tác phổ cập giáo dục là thành tựu nổi bật của Việt Nam được ghi nhận tại nhiều diễn đàn quốc tế. Chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội truyền thống, giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các DTTS được thực hiện hiệu quả.

       

      Trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình Việt Nam, ông Surya Deva, báo cáo viên đặc biệt Liên hợp quốc về quyền phát triển nhận xét: “Rõ ràng có rất nhiều thay đổi trong đời sống người DTTS Việt Nam. Các cấp chính quyền cũng rất nhanh chóng trong việc khắc phục những vấn đề liên quan. Có rất nhiều chương trình, dự án để đảm bảo không một người DTTS nào bị bỏ lại phía sau”.

       

      Tiếng nói của người có thẩm quyền thuộc cơ quan Liên hợp quốc cùng thành tựu thực hiện chính sách dân tộc đã khẳng định Việt Nam luôn tuân thủ các điều ước, công ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Chính vì vậy, Việt Nam mới có thể bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia lần thứ 5 về quyền của người DTTS trước Ủy ban Công ước CERD vào cuối năm ngoái. Việt Nam hiện đang là thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023 - 2025, cơ quan có vai trò quan trọng hàng đầu trong hệ thống Liên hợp quốc trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với các chính sách, những nỗ lực và thành tựu của nước ta trong đảm bảo quyền của người dân nói chung, người DTTS nói riêng trên mọi lĩnh vực./.

      St

      Cuộc xâm lăng tĩnh lặng - Bài 2: Cam go mặt trận không tiếng súng.

       Ngoài sự tấn công có chủ đích của các thế lực từ bên ngoài, còn có nguyên nhân từ sự buông lỏng trách nhiệm trong giáo dục từ gia đình, nhà trường, xã hội và các cơ quan chức năng, cộng thêm sự buông thả của các cá nhân. Như vậy, không cần tốn một viên đạn, các cường quốc đã xâm lăng văn hóa thành công, từng bước thực hiện cuộc thôn tính mềm, bành trướng văn hóa, bá chủ văn hóa.

        Văn hóa độc hại, sùng ngoại, lai căng

        Đánh giá đúng tầm mức sự nguy hại của làn sóng xâm lăng văn hóa, thể hiện rõ quyết tâm ngăn chặn làn sóng này, ngày 27-7-2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW “Về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”.

        Chỉ thị đã đưa ra cảnh báo về nguy cơ, tác hại của các sản phẩm văn hóa độc hại và sự sùng ngoại, lai căng đã “tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên; làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc; có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận công chúng; dẫn đến khuynh hướng “tự diễn biến” về chính trị, tư tưởng, tác hại lâu dài đến các thế hệ mai sau”.

        Làn sóng xâm lăng văn hóa thể hiện rõ ở chỗ các nước phát triển, các nước lớn có âm mưu sẽ xây dựng chiến lược để lặng lẽ đưa các giá trị chuẩn mực, đạo đức xã hội, tư tưởng chính trị, phương pháp kinh tế... của họ dần áp đặt vào các nước đang phát triển thông qua giao tiếp giữa các nước. Từ phân tích trên, chúng ta có thể hiểu sự xâm lăng văn hóa là chiến lược được các cường quốc tính toán nhằm thực hiện tham vọng bá chủ thế giới. Không giống như các dạng truyền thống của quyền lực quốc gia, xâm lăng văn hóa thể hiện quyền lực mềm của một cường quốc.

         

        Các hộ gia đình ở huyện đảo Trường Sa thường xuyên tham gia các hoạt động văn hóa. Ảnh: Hoa Huyền

        Nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, văn hóa luôn là đối tượng mà các thế lực thù địch tập trung hướng đến thông qua nhiều cách thức, thủ đoạn, trong đó trắng trợn nhất là dùng văn hóa để xâm lược; tấn công bằng văn hóa để áp đặt các giá trị văn hóa và lối sống của phương Tây; phá hoại bản sắc văn hóa của dân tộc, từ lĩnh vực văn hóa chuyển hóa dần sang lĩnh vực chính trị; hình thành ý thức chống đối về chính trị, phản bội lại Đảng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa; đi ngược lại với nền văn hóa của dân tộc.

        Dùng văn hóa để phá hoại sự ổn định xã hội

        Các chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa, an ninh mạng đã phân tích và chia sẻ một số thủ đoạn mà các thế lực thù địch thường dùng, đó là: Sản xuất các sản phẩm văn hóa mang hơi hướng thời đại, đánh mạnh vào tập tính thói quen của giới trẻ, những người yếu thế, tiểu thương, những người về hưu, người ít tiếp cận với thông tin chính thống từ cơ quan quản lý nhà nước. Với nhóm đối tượng này, chúng khuyến khích những nhu cầu văn hóa, tinh thần không lành mạnh, tạo ra các mâu thuẫn không có thật thông qua các tin giả được tán phát tinh vi, từ đó tạo ra khuynh hướng văn hóa đối lập với chính trị, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa.

        Tiếp đó, chúng thông qua các hoạt động trực tiếp và gián tiếp để lôi kéo nghệ sĩ, những người có ảnh hưởng đi theo trào lưu hưởng thụ xa hoa, các trào lưu sáng tác tự do, dân chủ kiểu phương Tây; lấy số ít người có ảnh hưởng làm “ngọn cờ”, từ đó tuyên truyền làm tha hóa thế hệ trẻ; từng bước làm cho thế hệ trẻ quên đi gốc văn hóa dân tộc, đua đòi ăn chơi, hưởng thụ, không quan tâm tới vận mệnh đất nước...

        Bước tiếp theo tinh vi hơn, các thế lực thù địch thông qua các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để sản xuất, truyền bá các sản phẩm văn hóa xấu độc, lai căng với ý đồ rõ rệt là tạo thói quen xấu, nhân lên những hành vi phản nhân văn, phi tiến bộ, từng bước tác động vào tâm lý, sở thích, kích thích lối nghĩ, lối sống cá nhân ích kỷ, bạo lực, những ham muốn vật chất tầm thường.

        Từng bước làm thay đổi các thang giá trị xã hội, đạo đức, lối sống, làm cho một bộ phận người dân trong xã hội sao nhãng nghĩa vụ, trách nhiệm với cộng đồng, đất nước. Kích thích lối sống hưởng thụ, ca ngợi dục vọng, lạc thú bản năng thấp hèn, chỉ lo cho mình mà quên đạo nghĩa, quay lưng lại với truyền thống và những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

        “Dạo” một vòng trên các trang mạng xã hội, chúng ta có thể thấy rõ, nhiều trang mạng xã hội, các tờ báo điện tử của phương Tây có phiên bản tiếng Việt vẫn ngày đêm thêu dệt, đơm đặt những câu chuyện không có thật về các đồng chí lãnh đạo cấp cao; lợi dụng thông tin xử lý cán bộ để bôi nhọ, công kích Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

        Chúng ra sức xuyên tạc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; phủ nhận giá trị của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược trước đây và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của dân tộc hiện nay; đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa; làm lẫn lộn vai trò của những chiến sĩ cách mạng chân chính với những kẻ cướp nước, bán nước. Chúng ra sức quảng bá, tuyên truyền các giá trị văn hóa phương Tây; đề cao chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng; sử dụng tiêu chuẩn kép trong vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”...

        Chúng cũng đầu tư không ít tiền bạc để quảng bá các sản phẩm văn hóa như phim, ảnh, video tuyên truyền, văn hóa phẩm, sách báo, văn học... với ý đồ thao túng rõ rệt nhằm phá hoại nền văn hóa của dân tộc ta; phá hoại sự ổn định xã hội.

        Bằng các cuộc tiếp xúc trực tiếp, thông qua con đường du học, hội thảo, du lịch... những lời hứa hão, các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu ly gián về tư tưởng, chia rẽ về tổ chức, lôi kéo những người có ảnh hưởng cổ xúy cho các trào lưu tư tưởng văn hóa phương Tây, gây nhiễu loạn tư tưởng nhân dân, đặc biệt là giới trẻ.

        Mục đích của chúng là từng bước làm cho người dân phai mờ những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam; từng bước xa rời sự lãnh đạo của Đảng trong công tác văn hóa, tiến tới phủ nhận tính giai cấp, tính Đảng trong văn hóa; tách lĩnh vực này ra khỏi đời sống chính trị-xã hội của đất nước, phá hoại bản sắc văn hóa của dân tộc, từ lĩnh vực văn hóa chuyển hóa dần sang lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại với nền văn hóa của dân tộc... Đây là mưu đồ rất thâm độc của các thế lực thù địch khi chúng quyết tâm từng bước xâm lăng văn hóa đối với nước ta.

        Ngăn chặn từ sớm hành vi mở rộng xâm lăng văn hóa

        Những bước đi của cuộc xâm lăng văn hóa đang dần mở rộng ở các cấp độ và phạm vi khác nhau trong tổng thể chiến lược thôn tính văn hóa, nhất là trong bối cảnh nước ta tham gia hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Việc chúng ta tham gia tích cực vào một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; đón đầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cùng sự bùng nổ các thiết bị thông minh kết nối mạng, mọi biến đổi, tác động từ bên ngoài dù nhỏ nhất cũng gây ra ảnh hưởng, theo chiều hướng ngày càng rộng và đa dạng.

        Các nước phương Tây hiểu rõ điều này và cũng quyết tăng cường sử dụng “sức mạnh mềm văn hóa” kết hợp cùng sự phát triển vượt bậc của công nghệ, làm cho quá trình xâm lăng văn hóa diễn ra mạnh hơn. Các nước phương Tây và các cường quốc dựa vào công nghệ cao kiểm soát phương thức phổ biến thông tin, từ đó chủ động tạo định hướng dư luận với tốc độ chóng mặt.

        Cùng với đó, quá trình toàn cầu hóa, đa dạng hóa văn hóa thế giới chính là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch công khai lợi dụng hội nhập văn hóa của các nước đang phát triển mà ra sức truyền bá các sản phẩm văn hóa độc hại, truyền bá giá trị tư bản chủ nghĩa, với mục đích cuối cùng là nô dịch văn hóa và đạt được các mục tiêu chính trị.

        Mặt khác, chúng ra sức công kích Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; phủ nhận giá trị của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược trước đây và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của dân tộc hiện nay; đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa, làm lẫn lộn vai trò của những chiến sĩ cách mạng chân chính với những kẻ cướp nước, bán nước, để rồi dần theo thời gian, các tầng lớp trong xã hội chấp nhận các giá trị phương Tây, quên đi lịch sử, văn hóa dân tộc, từng bước bị đồng hóa với văn hóa nước ngoài một cách “êm dịu”, không phản kháng.

        Đây cũng là đặc điểm thay đổi lớn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà phương Tây đang áp dụng.

        Văn hóa cũng là trận chiến không khoan nhượng

        Hiểu rõ ý đồ của các thế lực, các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng có sự đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng. Đánh giá về tầm quan trọng của nền tảng văn hóa đối với một quốc gia, PGS, TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng: “Văn hóa không chỉ là yếu tố truyền tải giá trị tinh thần mà còn là công cụ định hướng, quản lý sự thay đổi trong xã hội. Đối với các quốc gia đang phát triển như chúng ta, văn hóa có thể là chìa khóa để xây dựng nền tảng vững chắc, bảo đảm sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa các lĩnh vực và nâng cao đời sống của nhân dân.

        Trong kỷ nguyên mới, khi chúng ta đối mặt với những thay đổi nhanh chóng về công nghệ, môi trường và lối sống, văn hóa cần được coi trọng hơn bao giờ hết. Văn hóa không chỉ là sự phản ánh quá khứ mà còn là sự dẫn dắt, định hướng cho tương lai như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Một quốc gia có nền văn hóa vững chắc là một quốc gia có khả năng vượt qua mọi thử thách, duy trì sự ổn định và đồng lòng để tiến bước trong bối cảnh toàn cầu hóa đầy cạnh tranh. Văn hóa là sức mạnh vô hình nhưng bền vững, là nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội thịnh vượng cả về vật chất lẫn tinh thần”.

        Vì thế, tăng cường giáo dục, bồi đắp hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới, như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên” vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp hết sức quan trọng để ngăn ngừa tác động của những âm mưu, thủ đoạn xâm lăng văn hóa; tạo sức đề kháng, sự miễn dịch trong các tầng lớp nhân dân trước mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch.

        Cuộc xâm lăng tĩnh lặng - Bài 1: “Vũ khí văn hóa”.

         Một cuộc xâm lăng âm thầm, có vẻ tĩnh lặng đang diễn ra nhanh chóng, quyết liệt trên lĩnh vực văn hóa. Nhiều quốc gia “giật mình” bởi sức tàn phá từ các loại “vũ khí văn hóa” đối với an ninh quốc gia, tương lai dân tộc.

          Trong bối cảnh hiện nay, câu tuyên ngôn bất hủ của đại văn hào Nga M. Gorki: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi: Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!” chưa mất tính thời sự, là lời cảnh tỉnh, nhắc nhở mỗi quốc gia trước mối họa “xâm lăng văn hóa”.

          Cảnh báo về nguy cơ xâm lăng văn hóa, nhà sử học người Israel-Yuval Noah Harari cho rằng, các sản phẩm văn hóa thông qua nhiều con đường khác nhau, nhất là internet, mạng xã hội, đang “là một vùng đất tự do và vô luật làm xói mòn chủ quyền quốc gia, phớt lờ các biên giới, phá hủy quyền riêng tư và đem lại mối đe dọa an ninh toàn cầu có thể nói là đáng sợ nhất”. Các sản phẩm văn hóa một khi trở thành vũ khí trong tay các thế lực muốn xâm lăng thì sự nguy hiểm tăng lên gấp bội.

          Lấy văn hóa nước khác để tự đồng hóa mình

          Trong kỷ nguyên số, khi sự giao lưu và trao đổi văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa kéo theo sự giao thoa, trao đổi, tương tác rất mạnh, văn hóa được xem là vũ khí hữu hiệu khi nó trở thành công cụ, vũ khí mềm, là “củ cà rốt” mà những nước lớn, các thế lực thù địch sử dụng để tiến hành cuộc xâm lăng mềm, xâm lăng bằng văn hóa, nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Với mục tiêu đạt tới là đồng hóa văn hóa, tiến tới nô dịch văn hóa và bước cuối cùng là thay đổi văn hóa, suy nghĩ, hành động tại các nước đối tượng mà họ hướng tới.

          Nhiều bạn trẻ cho rằng, làm gì có cuộc xâm lăng văn hóa nào, làm gì có chuyện giới trẻ bị đồng hóa văn hóa. Chúng tôi giải trí với trò chơi, phim ảnh, sách báo, mạng xã hội của nước ngoài đều đã được cấp phép; chúng tôi ăn uống các loại bánh trái, hoa quả, thực phẩm của nước ngoài cũng đều được sự cho phép của cơ quan chức năng; quần áo, kiểu tóc của chúng tôi, muốn học theo ai là do sở thích cá nhân... Chúng tôi theo chân các thần tượng nước ngoài là tôi muốn học hỏi để được thành công như họ...

           

          Trẻ em tỉnh Hòa Bình được gia đình giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa từ những bộ trang phục. Ảnh: Hoa Huyền

           

          Giải thích về “lý sự” của một số bạn trẻ đang mang suy nghĩ trên, TS Nguyễn Ánh Hồng, nguyên Trưởng khoa Văn hóa và Phát triển, Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho biết: Các bạn trẻ Việt Nam đang sống trong thời đại công nghệ số với tâm lý thích khám phá, thích thể hiện cái tôi cá nhân của mình, thích cái mới và thích sự thay đổi, nhưng lại chưa có đủ độ chín chắn, chưa đủ trải nghiệm, chưa đủ bản lĩnh để có thể phân biệt được đâu là những giá trị tích cực, đâu là giá trị tiêu cực từ bên ngoài đưa vào Việt Nam. Thế nên, một cách vô thức bị tác động, ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa ngoại lai. Các thế lực thù địch đã triệt để khai thác tác động tiêu cực của mạng xã hội, sử dụng nó trở thành một phương tiện thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ.

          Thử hỏi, với một quốc gia hơn 100 triệu dân, nếu ai cũng sùng ngoại, sính ngoại như vậy, cũng hành xử như vậy, quốc gia ấy có phải bản sao của một nước khác không? Trong khi tại chính các nước phương Tây, như Mỹ đã đưa ra cảnh báo đỏ sẽ cấm hoạt động đối với mạng xã hội TikTok do nghi ngại vấn đề an ninh quốc gia. Ở Pháp cũng cấm trẻ em dưới 16 tuổi không được tiếp cận mạng xã hội. Một số nước khác thì ban hành những quy định nghiêm khắc đối với việc sử dụng mạng xã hội nếu vi phạm, truyền tải nội dung thông tin không đúng đắn, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, xúc phạm tôn giáo chính thống, kêu gọi biểu tình, lập hội nhóm bất hợp pháp, trò chơi bạo lực; xuyên tạc lịch sử thông qua các sản phẩm phim ảnh, văn học, sách giáo dục...

          Ngẫm lại ở ta, đi đâu cũng gặp cảnh từ anh bán cơm tới chị bán hàng, từ nhà chờ xe buýt cho tới góc khuất một công sở... tay cầm điện thoại mà trên loa phát ra tràn ngập các phim ngắn về tổng tài, kiều nữ, anh hùng; các đoạn video, bài viết dạy dỗ, hướng dẫn “nuôi con kiểu Nhật”, “dạy con theo cách của người Do Thái”, “phong cách thời trang Hàn Quốc”, “truyện tranh Nhật Bản”... hình ảnh khoe tiền, khoe của, ăn uống vô độ, ứng xử bất kính... Rồi cứ đến dịp các ngày lễ của nước ngoài, như Halloween-lễ hội hóa trang; Valentine-ngày lễ tình nhân, lễ Giáng sinh... thì các nam thanh nữ tú lại xúng xính váy áo cũn cỡn, lố lăng, phản cảm “check in”, chờ dịp để khoe mẽ lối sống ảo.

          Trong lĩnh vực truyền thông, khán giả truyền hình và những người tham dự các sự kiện mấy năm gần đây, đặc biệt là trên các kênh truyền hình cấp tỉnh chỉ biết thở dài ngao ngán khi chứng kiến tên không ít chương trình giải trí cũng nửa tiếng Việt, nửa tiếng Anh, rồi diễn viên, người dẫn chương trình thì khoe mẽ trình độ ngoại ngữ “nửa Tây, nửa ta” khiến bao người ngao ngán... Thật buồn, khó chịu và cám cảnh, lo ngại cho sự quý giá của tiếng Việt và văn hóa dân tộc.

          Sự lai căng đã tới mức phải báo động

          Trong cuốn “Internet và sự tác động đến văn hóa Việt Nam”, TS Từ Thị Loan chỉ ra: Sự lai căng văn hóa đang có những tác động tiêu cực đến quan niệm về đạo đức, ý thức đạo đức. Tác động nổi bật nhất về vấn đề này là tư tưởng đề cao các giá trị vật chất trước các giá trị tinh thần, giá trị đạo đức. Những cảnh sống xa hoa, giàu sang trong các bộ phim và MV ca nhạc, những thông tin về cung cách tiêu xài khủng của các đại gia, phong cách ăn mặc sang chảnh của các “sao”, thói ăn chơi thời thượng, “chịu chơi” và “chịu chi” của những người nổi tiếng ở nước ngoài đã tác động không nhỏ đến nhận thức, tư tưởng của cộng đồng cư dân mạng, đặc biệt là giới trẻ. Từ đó hình thành ở họ tư tưởng coi trọng vật chất, coi nhẹ đạo đức, đề cao hình thức, biểu hiện bề ngoài mà không chú trọng đúng mức đến phẩm chất đạo đức, cái đẹp bên trong”.

          TS Từ Thị Loan nhận định, những tác động tiêu cực của truyền thông mới cũng góp phần cổ xúy các hành vi vô văn hóa, phản đạo đức, vi phạm các chuẩn mực xã hội, như: Kích động dâm ô, đồi trụy, những biểu hiện suy đồi...

          PGS, TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội thì nhận định: Tâm lý sùng ngoại, muốn chứng minh mình tiên phong trong xu hướng khiến giới trẻ Việt Nam tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách dễ dãi. Hơn nữa, sự phát triển và phổ biến các phương tiện truyền thông mới đã khiến cho hiện tượng lai căng văn hóa lan truyền nhanh chóng mà không bị kiểm soát, kích thích và thu hút sự tò mò của giới trẻ. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh cụ thể, một số bạn đã có những biểu hiện lệch lạc trong suy nghĩ, hành vi và lối sống. Việc bắt chước những trào lưu như thần tượng thái quá các ngôi sao; sử dụng ngôn ngữ nước ngoài vô tội vạ... đã gây ra những hậu quả hết sức tai hại, hình thành nên những nhận thức mới, thói quen mới, tạo ra những định hướng giá trị xa lạ với văn hóa truyền thống, có nguy cơ trở thành những bản sao của văn hóa nước ngoài. Điều đó khiến giới trẻ mất phương hướng trong việc xây dựng và hình thành nhân cách con người Việt Nam, không có sự tự tin để hội nhập quốc tế. Nguy hiểm hơn, lai căng văn hóa sẽ khiến văn hóa đất nước nói chung dễ bị phai nhạt, mất sức sống, ảnh hưởng đến sức mạnh chung của quốc gia.

          Cuộc xâm lăng mềm xuyên biên giới, xuyên quốc gia

          Phải khẳng định, trong thời đại số, mỗi một phút, một giờ lại có hàng vạn thông tin được chia sẻ thông qua mạng xã hội và các kênh giao tiếp văn hóa phi chính thức khác nhau, cho thấy mức độ nhập khẩu văn hóa không kiểm soát lớn như thế nào.

          Không phải tự nhiên chỉ một thời gian ngắn mạng xã hội phát triển ở nước ta, không ít người giờ đây chỉ yêu thích các sản phẩm văn hóa từ nước ngoài, biến họ trở nên khác hẳn, sùng ngoại, “đặc sệt” phương Tây, với đặc trưng là thích quan tâm tới bản thân hơn là chia sẻ với cộng đồng; thích kiểu ăn mặc khác lạ, lối sống thực dụng chứ không thích lối sống gia đình theo nếp nhà truyền thống với các giá trị gia đình; tinh thần chia sẻ với xóm làng, cộng đồng. Nguy hại hơn, họ xa rời trách nhiệm với Tổ quốc, họ trốn tránh nghĩa vụ công dân, chỉ biết đòi hỏi quyền lợi, đòi hỏi tự do dân chủ một cách vô độ, tuyệt đối, muốn làm gì thì làm theo kiểu phương Tây.

           

          Văn hóa lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên được các đội cồng chiêng của các thôn, xã tại Gia Lai thường xuyên luyện tập, biểu diễn. Ảnh: Hoa Huyền

           

          Những biểu hiện nguy hiểm ấy đang bào mòn chất văn hóa Việt, khiến họ dần quên đi những giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc, quên đi mình là ai. Thật nguy hiểm khi hàng triệu người đang dùng mạng xã hội hay các sản phẩm văn hóa độc hại đang không nhận ra mình dần bị đồng hóa văn hóa theo “kế hoạch” đã được tính toán của các nước lớn; các nước phương Tây thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” và làn sóng xâm lăng văn hóa êm dịu, tĩnh lặng, bất bạo lực.

          Không khó để nhận ra, “kế hoạch” của các thế lực này đã thành công một phần nào đó. Nhìn các sản phẩm văn hóa trên các trang mạng xã hội, hay một số trang điện tử, báo điện tử với nội dung đánh vào tâm lý người Việt trẻ, như scandal của văn nghệ sĩ; những cuộc đấu khẩu, chửi rủa, bạo lực; cuộc sống của các ca sĩ, ban nhạc nước ngoài, video clip bói toán, dạy nấu ăn, dạy làm giàu, dạy ứng xử mà cốt truyện, những nhân vật đều thuộc về một quốc gia khác... Tóm lại, từ việc nhỏ nhất cho đến việc lớn, đều bị văn hóa ngoại chi phối.

          Các nhà nghiên cứu đã cảnh báo: Không ít giá trị văn hóa Việt Nam đã và đang bị thay đổi trong đời sống hằng ngày ở từng con người, mỗi gia đình. Trong xu thế toàn cầu hóa, nhiều người đã đón nhận những yếu tố văn hóa ngoại lai một cách không chọn lọc, không biết nhận diện, phân tích và bỏ đi những cái xấu, cái không phù hợp. Nhiều người khác thì dễ dãi tiếp thu, vay mượn vốn văn hóa của nước ngoài để giúp mình tưởng như đã đạt tới cột mốc là công dân văn minh toàn cầu; chăm chăm mượn cái của nước khác, người khác mà tưởng rằng đó là tiêu chuẩn của giá trị. Họ không hiểu thế nào là tiếp thu những mặt tích cực; thế nào là bị đồng hóa, bị nô dịch văn hóa.

          Như vậy, nhiều người đang tự mình tan ra, dần mất bản sắc văn hóa dân tộc, bị đồng hóa văn hóa từ chính những biểu hiện trong lối sống, lối ứng xử, trong cách tiếp nhận và thay đổi quan niệm về giá trị vật chất, tinh thần họ đang học theo. Nếu “căn bệnh” sùng bái văn hóa ngoại lây lan từ cá nhân sang gia đình, rồi ra cộng đồng và các tầng lớp xã hội thì lúc đó, xã hội đã thực sự bị xâm lăng văn hóa. Nỗi lo xâm lăng văn hóa càng được nhân lên khi internet, mạng xã hội dưới sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn... ngày càng trở nên phổ biến.

          TĂNG CƯỜNG HƠN NỮA MỐI QUAN HỆ MẬT THIẾT GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN

           Tình hình trong nước và thế giới hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

           

          Bối cảnh mới yêu cầu phải tiếp tục coi trọng tăng cường và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, “gắn bó mật thiết với nhân dân là nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, một trong những nhiệm vụ, giải pháp cần được thực hiện đó là: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng”.

           

          Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

           

          Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự tiên phong, có tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, gần dân, tôn trọng dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chăm lo lợi ích chính đáng, thiết thực của nhân dân, không thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn của nhân dân. Người giữ chức vụ càng cao, giữ trọng trách càng lớn, càng phải gương mẫu đi đầu hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; kiên quyết chống các biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa dân.

           

          Chăm lo xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do nhân dân, vì nhân dân; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực trong đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Phải dựa vào dân để xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và sự tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.

           

          Chăm lo nâng cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân; khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Nghiêm túc tiếp thu các ý kiến đóng góp, kiến nghị của nhân dân, đổi mới hình thức tiếp xúc, đối thoại của lãnh đạo các cấp với nhân dân. Thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, kịp thời biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, cùng phát triển; quan tâm vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn./.

          St

          Phản bác luận điệu xuyên tạc công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

           Nhằm tiếp tục đẩy mạnh triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Chỉ thị 45/CT-TW tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới...


            Đoàn công tác của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài
            và đại biểu kiều bào tại thị trấn Trường Sa năm 2024. (Ảnh PHAN HẢI)

            Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1334/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” (Quyết định 1334). Có thể nói, đây là chương trình hành động quan trọng, qua đó tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong thực hiện chính sách với người Việt Nam ở nước ngoài.

            Thực tiễn triển khai cho thấy, Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” đã đem lại nhiều hiệu quả và kết quả tích cực, được kiều bào ta đón nhận và ủng hộ nhiệt thành. Thế nhưng với âm mưu đen tối, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động không ngừng các thủ đoạn chống phá, thường xuyên khai thác phương tiện thông tin đại chúng, trang web, mạng xã hội ở nước ngoài... để đăng tải nhiều bài viết, video, thậm chí tổ chức Hội thảo với mục đích xuyên tạc Quyết định 1334.

            Nổi lên có thể kể đến loạt bài kêu gọi: “Vô hiệu hóa Quyết định 1334: Cần hành động có sách lược và có phối hợp”; “Đối phó Quyết định 1334, cần hành động thiết thực và hiệu quả”; “Cộng đồng người Việt ở nước ngoài hãy đề cao cảnh giác với chiêu trò của Đảng Cộng sản Việt Nam”; “Bản lên tiếng về chủ trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm khai thác người Việt tại hải ngoại”; Hay tổ chức Hội thảo “Vô hiệu hóa Quyết định 1334 của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam”, Hội luận chính trị chống Quyết định 1334 của cộng sản Việt Nam...

            Qua “chiến dịch” chống phá nêu trên có thể thấy các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đang ra sức xuyên tạc, tìm cách đánh tráo khái niệm, đổi trắng thay đen bản chất sự việc, tập trung vào hai nội dung cơ bản.

            Một là, xuyên tạc và vu cáo Quyết định 1334 lợi dụng người Việt ở nước ngoài.

            Hai là, xuyên tạc và vu cáo Quyết định 1334 là để kiểm soát người Việt hải ngoại. Các đối tượng ra sức rêu rao “việc lãnh đạo Việt Nam ra nước ngoài thường tuyên truyền sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất cho người Việt hải ngoại chỉ là lời nói sáo rỗng, không tưởng”, mà thực chất là để “hợp thức hóa âm mưu của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc kiểm soát hành động và sự ảnh hưởng của người Việt ở hải ngoại”; là để “lấn sâu vào sân sau của cộng đồng người Việt hải ngoại”;

            Hay, việc ra Quyết định này với danh nghĩa là “phát huy nguồn lực” nhưng nhằm “đánh phá các cộng đồng người Việt hải ngoại, dẹp “đám” phản động từ sớm, từ xa để giảm thiểu sự chống đối, tố cáo, phơi trần những sai trái, vi phạm các nguyên tắc dân chủ trong xã hội” và để lợi dụng, vừa tạo thêm sự mất đoàn kết trong các hội đoàn người Việt ở nước ngoài; “triệt tiêu tận gốc mọi hình thái phản kháng và bất tuân dân sự đối với những trường hợp “nằm vùng” trong các hội đoàn của người Việt Nam ở nước ngoài”,...

            Không khó nhận diện những luận điệu mà các thế lực thù địch, phản động đưa ra nhằm mục đích xuyên tạc quan điểm, chủ trương, chính sách về người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng và Nhà nước ta; phủ nhận những nỗ lực trong việc phát huy vai trò, củng cố sức mạnh, tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước và những nỗ lực nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam ở cả trong nước và ngoài nước của Đảng và Nhà nước. Mục đích cuối cùng của chúng là chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chế độ, cản trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

            Quyết định 1334 tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết 36 ngày 26/3/2004 về người Việt Nam ở nước ngoài, Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, đồng thời thể hiện rõ chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về huy động mọi nguồn lực, tiềm năng để xây dựng và phát triển đất nước và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.

            Quyết định 1334 cùng với nhiều chủ trương, chính sách khác liên quan đến vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục tạo những điều kiện thuận lợi, mở rộng quyền cho bà con ta có cơ hội làm ăn, đầu tư... ở trong nước. Những chủ trương, chính sách này không chỉ tháo gỡ những rào cản pháp lý, rào cản thủ tục hành chính trước đây, mà có nhiều thay đổi thuận lợi về mặt pháp lý, tạo ra khuôn khổ, cơ chế bền vững cho sự bình đẳng giữa người dân trong nước và kiều bào khi tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh, khoa học-công nghệ, văn hóa thể thao, nhân đạo. Đồng thời, mở ra cơ chế khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước trên các lĩnh vực.

            Việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, khoa học-công nghệ, xuất nhập cảnh, quốc tịch, sở hữu nhà, bất động sản..., thiết thực hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, Quyết định 1334 không phải là những “lời nói suông”, sáo rỗng, “mị dân” như các thế lực thù địch xuyên tạc mà đó thật sự là cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa những mục tiêu mà Đảng, Nhà nước ta đã đặt ra.

            Có thể thấy, đại đa số đồng bào ta ở nước ngoài là những người có lòng yêu nước, luôn hướng về cội nguồn và mong muốn được trở về đóng góp cho quê hương, đất nước khi có cơ hội. Phần đông kiều bào luôn ý thức và quan tâm nắm bắt, tìm hiểu, ủng hộ sự chuyển mình trên mọi mặt của đất nước, những thành tựu và vị thế của đất nước trên trường quốc tế, sự ổn định chính trị, những thay đổi tích cực về cơ chế pháp lý, thủ tục hành chính,... Khi có điều kiện đều sẵn sàng quay trở về đóng góp một phần công sức cũng như của cải vật chất để phát triển đất nước.

            Kiều bào ta cũng tỉnh táo nhận diện được những thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động nên có ý thức đề cao cảnh giác, không để các thế lực phản động, thù địch có cơ hội để lôi kéo, kích động.

            Trước những sự kiện quan trọng của đất nước, người Việt Nam ở nước ngoài luôn thể hiện rõ tấm lòng hướng về quê hương, đất nước, thể hiện sự ủng hộ đối với chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

            Nhiều người Việt Nam ở nước ngoài đã tham gia đầu tư vào các dự án trong nước; phát huy tinh thần tương thân tương ái, tham gia quyên góp, ủng hộ, hỗ trợ người dân trong nước khi gặp thiên tai, bệnh dịch...; tham gia hợp tác khoa học, công nghệ, giáo dục; tham gia đầu tư bất động sản, nhà ở để kinh doanh hay làm nơi ở.

            Thậm chí, trước những đổi thay nhanh chóng của đất nước, tác động tích cực của công tác người Việt Nam ở nước ngoài, không ít những người vốn từng là lực lượng đối lập, chống đối Đảng, Nhà nước Việt Nam, quay lưng lại với Tổ quốc... cũng đã thay đổi nhận thức, quan điểm, mong muốn được trở về quê hương để định cư và làm ăn sinh sống. Nhiều kiều bào trước đây từng có mặc cảm, định kiến với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa thì nay cũng có những thay đổi về suy nghĩ, có những đánh giá tích cực về đường lối, chính sách cũng như những thành tựu của đất nước; thẳng thắn phê phán luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động lưu vong.

            Từ minh chứng sinh động trong thực tiễn cho thấy nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta trong xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách và đã được cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đón nhận và ủng hộ. Như mới đây, ngày 22/8, tại Hà Nội, Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ IV và Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài năm 2024 đã diễn ra với sự tham gia của đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và 400 kiều bào từ hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hội nghị lựa chọn chủ đề “Người Việt Nam ở nước ngoài chung tay hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước” với nhiều điểm mới.

            Lần đầu tiên trong khuôn khổ hội nghị, Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Diễn đàn Trí thức và chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài. Qua ba lần tổ chức, Hội nghị đã tạo diễn đàn trao đổi chuyên sâu giữa kiều bào với trong nước về những vấn đề mang tính chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và các nội dung liên quan cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, thật sự trở thành “Hội nghị Diên Hồng” của người Việt Nam ở nước ngoài. Kiều bào thật sự trở thành nguồn lực quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong vòng hơn 30 năm qua, tổng lượng kiều hối chuyển về trong nước đạt hơn 200 tỷ USD, tương đương với lượng giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cùng kỳ.

            Trước thực tế này, sự xuyên tạc, bóp méo đối với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta nói chung, Quyết định 1334 nói riêng của các thế lực thù địch càng trở nên lố bịch, không có giá trị. Ngay chính trong số các bài viết lên tiếng kêu gọi “vô hiệu hóa Quyết định 1334” của các thế lực thù địch, phản động lưu vong, hoàn toàn không có những luận cứ khoa học hay cơ sở thực tiễn để phản biện, mà chủ yếu chỉ đưa ra lời kêu gọi chống phá với những luận điệu cũ rích với âm mưu kêu gọi lật đổ chính quyền, làm chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,...

            Lực lượng, hội, nhóm chống phá ở hải ngoại hiện ngày càng suy giảm và chỉ là thiểu số trong cộng đồng người Việt Nam ta ở nước ngoài. Các mục tiêu, âm mưu chống phá của chúng đang tỏ ra lạc lõng so với xu thế phát triển chung là hòa bình, hợp tác trên thế giới hiện nay. Cùng với sự phát triển ngày càng vững mạnh của đất nước, những thay đổi tích cực trong chủ trương, chính sách cho người Việt Nam ở nước ngoài, mới nhất là Quyết định 1334 đã cho thấy ý nghĩa tốt đẹp và chính sách cởi mở của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong hỗ trợ, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người Việt Nam ở nước ngoài; trong thu hút nguồn vốn, nguồn lực từ bên ngoài cũng như gắn kết thêm kiều bào Việt Nam với Tổ quốc, vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc ở cả trong nước và ngoài nước.

            Tinh gọn bộ máy tạo đà thúc đẩy chuyển đổi số.

             Trong bài viết “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới. Đây là chỉ đạo mới, thiết thực, phù hợp với xu thế thời đại.

                

              Cán bộ VNPT giới thiệu các dịch vụ và nền tảng chuyển đổi số. (Ảnh: BÁO NHÂN DÂN)

              Thời gian vừa qua, chúng ta đã tích cực trong triển khai ứng dụng công nghệ số vào các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, cải cách hành chính... Trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn và điện toán đám mây đang dần trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành nghề. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, công nghiệp công nghệ số hiện là lõi của kinh tế số và đang chiếm gần 60% tổng giá trị của kinh tế số, góp phần quan trọng vào việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước.

              Trong bài viết về chuyển đổi số, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng có đánh giá: Bước sang thế kỷ 21, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế-xã hội. Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt 5,7-5,9%/năm, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực và thế giới; quy mô nền kinh tế tăng 1,45 lần, ước đạt 500 tỷ USD vào năm 2025. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 3.400 USD đến khoảng 4.650 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025.

              Tuy nhiên, so sánh với tốc độ chuyển đổi số của nhiều nước trên thế giới thì chúng ta còn chậm. Nguyên nhân là do tổ chức bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, hoạt động kém hiệu quả. Trước hết có thể thấy rõ việc phải dành đến 70% ngân sách để trả lương nuôi bộ máy đã khiến các nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó có hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ chuyển đổi số còn yếu, chưa đồng bộ. Bộ máy cồng kềnh nhiều tầng nấc trung gian cũng gây khó khăn cho triển khai các dự án công nghệ số, tốn kém kinh phí.

              Trong khi đó, phát triển hạ tầng số quốc gia luôn phải đi trước một bước để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số…, đây là lý do vì sao Chính phủ đầu tư khá lớn vào triển khai các công trình, dự án chuyển đổi số quốc gia nhưng kết quả chưa như kỳ vọng.

              Sơ kết 6 tháng đầu năm 2024 về chuyển đổi số quốc gia, báo cáo cho thấy, về hạ tầng công nghệ còn 9/22 bộ, ngành chưa hoàn thành việc nâng cấp, hoàn thiện hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh.

              Về dữ liệu, ở địa phương mới đạt 10,23% và ở bộ, ngành đạt 1,17% số lượng hồ sơ thủ tục hành chính có tái sử dụng thông tin, dữ liệu đã được số hóa. Nguy cơ, năm 2025 sẽ không hoàn thành mục tiêu cắt giảm 50% các thủ tục hành chính, giấy tờ liên quan đến dữ liệu dân cư...

              Một điểm nghẽn quan trọng là từ tổ chức, bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian dẫn đến cơ chế xin cho, làm nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Một số cán bộ, nhất là những người nắm giữ quyền lực và vị trí then chốt trong các cơ quan, đơn vị, địa phương, vì lợi ích cá nhân, chưa thật sự muốn đẩy mạnh chuyển đổi số. Nhiều cán bộ, công chức cũng chưa mặn mà với chuyển đổi số vì sợ mất việc làm do bị công nghệ thay thế…

              Một điểm nghẽn quan trọng là từ tổ chức, bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian dẫn đến cơ chế xin cho, làm nảy sinh tiêu cực, tham nhũng.

              Do vậy, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, Tổng Bí thư Tô Lâm đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ: Cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương.

              Đây là giải pháp quan trọng giúp cuộc cách mạng về chuyển đổi số của chúng ta bứt phá phát triển, đồng thời quay trở lại giúp tổ chức, bộ máy tinh gọn, giảm chi phí, hoạt động hiệu năng, hiệu quả. Để làm tốt nhiệm vụ này, Trung ương đã có những chỉ đạo, định hướng quan trọng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, các cấp, ngành, địa phương cũng đang khẩn trương tiến hành công tác sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy.

              Đây là nhiệm vụ cấp bách, được Trung ương xác định phải tiến hành khẩn trương cho nên rất cần sự thống nhất, đồng thuận của cả hệ thống chính trị. Trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần gương mẫu, chủ động, với quyết tâm cao nhất, hành động quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao; xác định những nội dung, công việc ưu tiên và phối hợp nhịp nhàng trong triển khai thực hiện, quyết tâm hoàn thành việc tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo đúng mục tiêu, yêu cầu và tiến độ đề ra.