Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

SÁNG TẠO, DÁM NGHĨ, DÁM LÀM TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

 Tết đến, xuân về, trong cái rạo rực của đất trời, của lòng người vào thời khắc thiêng liêng đón chào một năm mới với biết bao niềm tin và vận hội mới, cả dân tộc ta lại hân hoan mừng Đảng và mừng xuân.

Mùa xuân mới này, Đảng ta trải qua 95 mùa xuân lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Một Đảng được tôi luyện và trưởng thành trong muôn vàn thách thức gian lao và ngày nay vẫn tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và tự chỉnh đốn mình để luôn là một Đảng của trí tuệ, Đảng của đạo đức và gắn bó máu thịt với Nhân dân. Luôn xứng đáng với sứ mệnh lãnh đạo nhân dân ta xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh dân chủ công bằng văn minh, một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc - mùa xuân tươi đẹp nhất của dân tộc ta!

 

Mừng Đảng, mừng Xuân, mừng đất nước đổi mới, chúng ta lại bày tỏ lòng biết ơn đối với Bác Hồ kính yêu và khắc ghi lời Bác dặn. Theo Người, để lãnh đạo được nhân dân, đưa cách mạng đi đến thắng lợi, thì Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết và “thanh khiết từ to đến nhỏ”. “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” (Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-1945). “Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám làm”. (Trong thư gửi đồng bào và cán bộ xã Nam Liên ngày 13-2-1962).

 

“Dám nghĩ”, “Dám làm” là phẩm chất đặc biệt, được Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh trong chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay. Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị Khóa XIII về chủ trương “Khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung” đã khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng của phẩm chất “dám nghĩ”, “dám làm”, thể hiện sự tiếp tục kế thừa và phát triển mới trong tư duy của Đảng ta về cán bộ, tạo động lực to lớn giúp cán bộ có thêm bản lĩnh dấn thân, mạnh dạn trong tư duy sáng tạo và đổi mới, kịp thời tháo gỡ những điểm nghẽn có tính cấp bách để đảm bảo mục tiêu phục vụ Nhân dân.

 

“Dám nghĩ”, “dám làm” cũng là quan điểm đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dũng khí, bản lĩnh của người cán bộ, là yêu cầu đặc biệt, ở tầm cao về phẩm chất, nhân cách của người cán bộ trong mối quan hệ với công việc. Phẩm chất này giúp người cán bộ có đủ dũng khí, “có gan” đứng ra đảm nhận, phụ trách công việc, dám dấn thân vì lợi ích chung của tập thể, cơ quan, đơn vị, địa phương và Nhân dân.

 

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn cán bộ làm được việc, phải khiến cho họ yên tâm làm việc, vui thú làm việc, khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”. Theo Người, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền “phải sáng suốt”, khi thấy rõ phẩm chất, năng lực của cán bộ, thì phải tin tưởng và giao việc cho họ, tạo điều kiện, cơ hội để khuyến khích họ phát huy năng lực và tinh thần trách nhiệm.

 

Bác nhấn mạnh: “Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra tài nhỏ”; lãnh đạo phải khuyến khích cán bộ thể hiện tinh thần “dám” bứt phá, đổi mới sáng tạo, mạnh dạn “chống lại những gì đã cũ kỹ để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, “dám” vứt bỏ những gì của ngày hôm qua đã không hợp thời nữa.

 

Thấm nhuần tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng, thời gian qua, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã ban hành nhiều Nghị quyết về công tác cán bộ. Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý, vun trồng những “gốc rễ” vững mạnh, Đảng bộ tỉnh chú trọng thực hiện điều động, luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác, phát huy năng lực, sở trường của cán bộ; từ đó đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao trong bối cảnh hội nhập và phát triển.

 

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã giao việc đột phá, đổi mới cho các đồng chí cán bộ, lãnh đạo thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý. Các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị cũng giao các nhiệm vụ đột phá cho cán bộ, công chức, viên chức. Thông qua đó tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ, đảng viên phát huy tinh thần tiền phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, phát huy năng lực trong công tác lãnh đạo, điều hành, nhất là đối với người đứng đầu.

 

Ở nhiều địa phương đã cụ thể hóa tinh thần “7 dám” bằng những mô hình, cách làm sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cơ sở. Trong đó, có việc tích cực triển khai xây dựng mô hình “Chính quyền thân thiện” nhằm thúc đẩy phong cách làm việc “Chuyên nghiệp, văn minh, thân thiện”, lấy người dân làm đối tượng phục vụ. Qua đó, góp phần tạo ra tình cảm thân thiện giữa cán bộ với người dân, thu hẹp khoảng cách giữa chính quyền và nhân dân...

 

Bằng nhiều việc làm thiết thực, cụ thể mỗi cán bộ, đảng viên, người dân trong tỉnh đang nỗ lực đóng góp công sức, trí tuệ cho sự phát triển của tỉnh, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh hơn và ghi nên những dấu son về đổi mới sáng tạo trên trường quốc tế. Một mùa xuân mới nữa lại về với bao vận hội và tương lai mới khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang chuẩn bị tâm thế, khí thế, quyết tâm mới bước vào Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, kỷ nguyên phồn vinh, hạnh phúc, ấm no./.

St

TỈNH TÁO TRƯỚC SỰ XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ VỀ CÔNG TÁC NHÂN SỰ TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP

 “Công tác nhân sự là công việc rất quan trọng của mỗi kỳ đại hội Đảng. Công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng, quyết định sự thành bại của cách mạng. Do đó, công tác nhân sự phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, thận trọng”. Đó là kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc họp Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng mới đây.

 

Dựng chuyện, xuyên tạc - câu chuyện "bình cũ rượu mới"

 

Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 sẽ được tổ chức trong năm 2025. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt là yếu tố, tiền đề hết sức quan trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng (dự kiến được tổ chức vào tháng 1-2026). 

 

Trước thềm đại hội đảng các cấp, sự chống phá của các thế lực thù địch càng quyết liệt. Chúng tập trung xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sự lãnh đạo của Đảng và đặc biệt là về công tác nhân sự đại hội... Đây sẽ là “điểm mấu chốt” để các thế lực thù địch, phần tử phản động câu kết chống phá trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên không gian mạng. Chúng triệt để lợi dụng những vấn đề nóng, bức xúc trong xã hội để xuyên tạc, bóp méo nhằm công kích sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong một bộ phận quần chúng nhân dân, tập trung ở những nơi từng gây ra mất an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Tất cả sự chống phá nêu trên đều nhằm tới mục tiêu xuyên tạc, bôi nhọ danh dự, uy tín cán bộ, nhất là cán bộ có khả năng là ứng viên cho cấp ủy khóa mới của các cấp; hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng của Đảng và Nhà nước Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguy hại hơn là đã có không ít cán bộ, người dân tin vào những thông tin và luận điệu xuyên tạc ấy.

 

Trên internet, mạng xã hội và một số diễn đàn, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội cố tình đưa nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc về đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là tuyên truyền xuyên tạc về công tác chuẩn bị đại hội. Các phần tử xấu tiếp tục dựng chuyện và quy chụp rằng “việc chuẩn bị đại hội như là hoạt động thay cho đại hội, xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; rằng công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ cốt cán cho Đại hội XIV là Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội XIV”. Đặc biệt, về vấn đề nhân sự, họ tự dựng lên danh sách lãnh đạo cấp cao... Họ tung hô, ngụy tạo rằng, đại biểu dự Đại hội XIV của Đảng chỉ còn việc “giơ tay biểu quyết” đồng ý mà không thể có ý kiến gì khác...

 

Tỉnh táo, ngăn chặn sự xuyên tạc, bịa đặt

 

Để phòng, chống thông tin giả, tin đồn thất thiệt về công tác nhân sự trước đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng có hiệu quả, phải thực hiện tổng hợp nhiều hình thức, biện pháp bao gồm cả phòng và chống trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau ở tất các các cấp, các ngành, từ Trung ương đến các địa phương, trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.

 

Trong bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng diễn ra tại Hà Nội vào ngày 13-3-2024, nói về nội dung “Trách nhiệm của chúng ta”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: Phải xác định công tác chuẩn bị nhân sự là nhiệm vụ quan trọng, là nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển vững mạnh của đất nước; phải bằng mọi biện pháp dứt khoát không đưa vào cơ quan lãnh đạo những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người đã vi phạm hoặc sa sút về phẩm chất, đạo đức, vướng vào tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hống hách, gia trưởng, nịnh trên nạt dưới; bao che cho tội phạm, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Để những người đó lọt được vào cương vị lãnh đạo là tai họa cho Đảng, là điều kiện cho họ càng hại nước, hại dân nhiều hơn.

 

Đến nay, công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng đã và đang được thực hiện tích cực, trách nhiệm, bảo đảm tiến độ ở đảng bộ các cấp, cả về nội dung các báo cáo và công tác nhân sự. Đặc biệt, ngày 14-6-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng (Chỉ thị 35). Đây là văn bản hết sức quan trọng, định hướng rõ những quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu, yêu cầu và những nội dung cơ bản chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp để các cấp ủy, tổ chức đảng quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện ở cấp mình; bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.

 

Chỉ thị 35 đặt ra 7 yêu cầu đối với công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, trong đó bổ sung mới 1 yêu cầu nêu rõ chỉ đạo của Bộ Chính trị cần tiếp tục chấn chỉnh, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, công tác chuẩn bị nhân sự. Theo đó, công tác nhân sự cần bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo và phát triển; bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, cấp ủy các cấp, đề cao vai trò, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu theo quy định; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao, thận trọng từng bước, làm đến đâu chắc đến đó; cần có cơ chế, tiêu chí sàng lọc hiệu quả để không bỏ sót những người thật sự có đức, có tài. Quá trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc, đúng quy trình, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong công tác lựa chọn, giới thiệu và bầu cấp ủy các cấp. Cấp ủy nhiệm kỳ 2025-2030 phải đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng.

 

Cụ thể về tiêu chuẩn cấp ủy viên nhiệm kỳ 2025-2030, Chỉ thị 35 và Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh: Một là, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, Nhà nước và của nhân dân; kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Hai là, có phẩm chất đạo đức, lối sống gương mẫu, trong sáng; thực hiện nghiêm quy định của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, giữ gìn sự đoàn kết nội bộ; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kê khai tài sản, thu nhập trung thực, minh bạch; không cơ hội, tham vọng quyền lực, cục bộ, bè phái, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”... Không để vợ hoặc chồng, con, người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Ba là, có năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có tư duy đổi mới, tầm nhìn, phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả; nói đi đôi với làm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có thành tích, kết quả công tác và “sản phẩm” cụ thể trong địa bàn, lĩnh vực công tác được giao.

 

Công tác chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng đang được tiến hành một cách khẩn trương nhưng cũng rất chặt chẽ, chu đáo, công phu, bài bản, đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục... được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, đánh giá cao. Trong đó, thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác nhân sự đại hội và quản lý đội ngũ cán bộ... Việc chủ động nhận diện, đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch về công tác nhân sự trước thềm đại hội đảng các cấp là yêu cầu khách quan, là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần vào sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng./.

St

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


         

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Tuy nhiên, thời gian gần đây, các thế lực thù địch, chống phá đã tăng cường thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và cách mạng nước ta với tần suất ngày càng nhiều, mức độ ngày càng cao, biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây ra những tác động tiêu cực và hậu quả khó lường, làm tổn hại đến tiến trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó có hoạt động tuyên truyền phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nội dung quan trọng, quyết định sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta.

Vai trò của chuyển đổi số trong phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững ở thành phố Hải Phòng.

 Thực hiện Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03-6-2020 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, thành phố Hải Phòng đã xác định nhiệm vụ trung tâm là: “Đẩy mạnh chỉnh trang, hiện đại hóa đô thị - Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu - Tăng cường thực hiện các chính sách xã hội và chuyển đổi số”. Như vậy, chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, thực hiện chính sách xã hội là nhiệm vụ thiết yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hải Phòng nhanh và bền vững.

Hải Phòng xác định chuyển đổi số là 'động lực' trong phát triển ...
Diễn đàn Chuyển đổi số Hải Phòng năm 2024 xác định chuyển đổi số là ‘động lực’ trong phát triển thành phố_Ảnh: thanhnien.vn

1. Mở đầu

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, tạo ra những thay đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, dựa trên các thành tựu đột phá về khoa học và công nghệ. Đặc trưng của cuộc cách mạng này là ứng dụng những thành tựu của công nghệ số, Big Data, AI, IoT… giúp cho quá trình quản trị, sản xuất kinh doanh và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trở nên nhanh chóng, hiệu quả, chính xác hơn nhiều. Do vậy, đẩy mạnh chuyển đổi số là một trong những phương thức hiệu quả giúp cho Việt Nam cũng như các ngành, địa phương có thể phát triển nhanh, bền vững. Nói cách khác, cơ hội mà cuộc cách mạng này tạo ra cho Việt Nam trong kỷ nguyên mới là rất to lớn.

Khẳng định điều này, Tổng Bí Thư Tô Lâm chỉ rõ: “Đất nước ta đang đứng trước vận hội mới, vừa là thời cơ đồng thời cũng là thách thức trên con đường phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại”(1).

Do vậy, Hải Phòng cần đẩy mạnh triển khai thực hiện chuyển đổi số để tạo ra sự phát triển đột phá khi bước vào kỷ nguyên mới.

2. Vai trò của chuyển đổi số trong phát triển thành phố Hải Phòng

Thứ nhất, chuyển đổi số là cách thức mới mang tính đột phá để Hải Phòng phát triển kinh tế nhanh và bền vững

Nếu mô hình phát triển kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn vốn, khai thác tài nguyên thiên nhiên và sức lao động phụ thuộc vào nguồn vốn, nhất là vốn bên ngoài và để lại hậu quả nặng nề về môi trường thì việc ứng dụng công nghệ số, công nghệ thông minh là giải pháp căn bản giải quyết tình trạng này, bởi đặc trưng của chuyển đổi số là sử dụng năng lượng sạch, các nguyên vật liệu thân thiện với môi trường, sử dụng lao động trí tuệ, từ đó duy trì một nền tảng nguồn lực ổn định, tránh khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh. Do vậy, đột phá vào những công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra một sự phát triển nhanh và bền vững là cách thức mới giúp cho thành phố có thể vươn mình phát triển, đó cũng là cách thức để nâng cao năng suất lao động, tạo nguồn lực mạnh mẽ cho sức cạnh tranh doanh nghiệp và cạnh tranh sản phẩm.

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của vấn đề này, ngày 26-10-2021, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã ban hành Nghị Quyết số 03/NQ/TU về Chuyển đổi số thành phố Hải Phòng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Thực hiện Nghị quyết của Thành ủy, Sở Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng Đề án “Xây dựng Hệ thống thông tin môi trường, cơ sở dữ liệu môi trường; hệ thống thông tin báo cáo về môi trường của thành phố Hải Phòng”.

Nhờ ứng dụng những thành tựu của công nghệ số trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm của Hải Phòng đã được cải thiện. Cụ thể, năm 2023, “năng suất lao động thành phố theo giá hiện hành đạt 394,73 triệu đồng/lao động, cao gấp 1,98 lần bình quân chung cả nước (199,3 triệu đồng/lao động), gấp 2,07 lần so với năm 2018 (190,86 triệu đồng/lao động)”(2).

Vì vậy, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Hải Phòng cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa chuyển đổi số vì đó là giải pháp hiệu quả tạo đột phá cho Hải Phòng phát triển nhanh và bền vững. Lợi thế của Thành phố là phát triển công nghiệp, kinh tế biển (dịch vụ, logitis), du lịch; nông nghiệp công nghệ cao. Do đó, chuyển đổi số là điều kiện để Hải Phòng cạnh tranh vươn mình ra khu vực và thế giới trên cơ sở cập nhật kịp thời trình độ phát triển của thế giới, mở ra những cơ hội và điều kiện thuận lợi để vừa giải quyết các vấn đề kinh tế, vừa giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội và môi trường.

Hai là, chuyển đổi số đóng vai trò kết nối và giải quyết các vấn đề xã hội ở các khu công nghiệp và trên địa bàn thành phố

Hiện nay ở Hải Phòng, các khu công nghiệp phát triển nhanh, đi liền với nó là nhiều vấn đề xã hội nảy sinh cần phải kiểm soát và giải quyết tốt như: vấn đề lao động, việc làm, thu nhập; vấn đề nhà ở cho công nhân và nhà trẻ cho con em lao động; vấn đề an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; vấn đề môi trường… Chuyển đổi số sẽ góp phần quan trọng trong việc liên kết giữa các ngành, các khu công nghiệp để kịp thời phát hiện, kiểm soát và giải quyết tốt những vấn đề chính trị, an ninh, xã hội trong các khu công nghiệp, cũng như trên địa bàn thành phố. Chẳng hạn cơ sở dữ liệu về dân cư cho phép các ngành của thành phố có thể nắm bắt thông tin về lao động, việc làm, thu nhập, từ đó đưa ra dự báo sát, đúng về vấn đề này. Cơ sở dữ liệu về bảo hiểm giúp cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt được tình hình tham gia bảo hiểm y tế của người dân, đồng thời kiểm soát được việc các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho người lao động.

Trên thực tế, những năm qua, Hải Phòng đã triển khai các mô hình điểm về Đề án 06 (Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử) trên địa bàn thành phố. Các mô hình này đã giúp người dân nói chung, người lao động trong các khu công nghiệp nói riêng thuận lợi hơn trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục, điển hình là Mô hình 7 (Khám chữa bệnh sử dụng sinh trắc học, Kios tự phục vụ): Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp phối hợp với Công ty Cổ phần giải pháp Công nghệ TAG Việt Nam triển khai thí điểm mô hình khám chữa bệnh sử dụng sinh trắc học, hiện đã lắp đặt 5 Kios tự phục vụ, trong đó có 2 Kios đã đưa vào sử dụng. Hoặc một số mô hình góp phần kiểm soát và giải quyết tốt các vấn đề về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội như: Mô hình 29, triển khai tố giác tội phạm qua ứng dụng VneID; Mô hình 43, tổ chức đào tạo, tập huấn an ninh, an toàn, bảo mật thông tin cho người sử dụng cuối (end use)… Đó là những minh chứng cho thấy lợi ích của chuyển đổi số mang lại trên lĩnh vực xã hội.

Như vậy, chuyển đổi số sẽ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế gắn với nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, bảo đảm người dân có cơ hội được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục… nhưng không làm phương hại đến kinh tế và môi trường.

Ba là, chuyển đổi số đóng vai trò có ý nghĩa quyết định trong quản trị thành phố, xây dựng thành phố thông minh nhằm phục vụ người dân và xã hội một cách tốt nhất

Hiện nay, thành phố Hải Phòng đang tích cực triển khai thực hiện chuyển đổi số, phát triển dữ liệu dùng chung. Điều này tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị thuận tiện trong quản lý, chia sẻ thông tin; giúp người dân trong việc tiếp cận thông tin, tiếp cận các dịch vụ xã hội một cách thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả. Ví dụ, ngành y tế triển khai cơ sở dữ liệu về quản lý bệnh viện, kết nối dữ liệu thanh toán bảo hiểm y tế tới 100% bệnh viện trên địa bàn thành phố, đồng nghĩa với việc người dân được sử dụng thẻ bảo hiểm điện tử; ngành tài nguyên và môi trường triển khai cơ sở dữ liệu phần mềm hệ thống thông tin tích hợp về đất đai và tài nguyên môi trường (ELIS) giúp người dân có thể tra cứu các thông tin về đất đai, về quy hoạch trên địa bàn thành phố; ngành du lịch triển khai cơ sở dữ liệu phần mềm quản lý dữ liệu về du lịch lĩnh vực cơ sở lưu trú, dữ liệu về du lịch, lữ hành; phần mềm quản lý dữ liệu trong lĩnh vực tài nguyên, du lịch giúp người dân dễ dàng tra cứu thông tin, sử dụng các dịch vụ du lịch phù hợp; ngành công thương triển khai cơ sở dữ liệu thông tin địa điểm mua sắm thành phố Hải Phòng với trên 1.700 địa điểm mua sắm…

Thành phố đã triển khai một cửa điện tử, dịch vụ công mức độ 4. Tính đến hết tháng 6 - 2024, hệ thống một cửa điện tử và dịch vụ công trực tuyến thành phố đã được triển khai tập trung, thống nhất cho 35/35 sở, ban, ngành, quận, huyện; 217/217 xã, phường, trị trấn. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tích hợp 1.237/1.916 hồ sơ. Dịch vụ công trực tuyến lên cổng quốc gia đạt tỷ lệ 64,56%; Tỷ lệ hồ sơ trực tuyến đạt trên 90%. Tỷ lệ thủ tục hành chính có phát sinh thanh toán trực tuyến đạt gần 94% với 40.715 giao dịch, tổng số tiền trên 14 tỷ đồng(3). Đây là giải pháp thiết thực giúp doanh nghiệp và người dân được sử dụng các dịch vụ công một cách thuận tiện, hiệu quả nhất.

Bốn là, chuyển đổi số giúp Hải Phòng tăng cường, mở rộng quan hệ đối ngoại, là cơ hội, điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm phát triển nhanh và bền vững

Chuyển đổi số mở rộng khả năng tiếp cận, giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, Hải Phòng có “quan hệ thương mại với trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ,…có quan hệ hợp tác với 80 tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ nước ngoài với nhiều dự án triển khai có hiệu quả, đạt giá trị 25 triệu USD”(4). Với những lợi thế sẵn có trong quan hệ đối ngoại, Hải Phòng thực hiện chuyển đổi số sẽ tạo niềm tin cho các đối tác truyền thống, mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác mới. Trong các quốc gia có hợp tác phát triển với Hải Phòng, nhiều quốc gia có trình độ công nghệ cao như Mỹ, Nhật Bản, Xinhgapo, Hàn Quốc…, do vậy, đây là điều kiện và môi trường thuận lợi để Hải Phòng tận dụng cơ hội thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.

Tổng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thành phố Hải Phòng năm 2023 đạt 3.623,22 triệu USD, gấp 1,74 lần so với cùng kỳ năm 2022, đạt 181,16% kế hoạch (theo kế hoạch năm 2023 thu hút từ 2-2,5tỷ USD)(5). Trong đó, thành phố đã thu hút được nhiều dự án FDI có quy mô và vốn đầu tư lớn, thuộc các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp điện tử, công nghệ cao, logistics, ... như dự án của Tập đoàn SK (500 triệu USD), VRB (83,67 triệu USD), dự án tăng vốn đầu tư của Tập đoàn LG Innotek (1 tỷ USD), dự án tăng vốn của Công ty TNHH Công nghệ máy văn phòng Kyocera Việt Nam (237,5 triệu USD)(6). Các dự án này đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của Hải Phòng.

3. Một số hạn chế và giải pháp nhằm phát huy hiệu quả vai trò của chuyển đổi số ở Hải Phòng trong phát triển

Một số hạn chế, bất cập

Thứ nhất, hạn chế về nhận thức. Mặc dù chuyển đổi số là chương trình quốc gia, Thành ủy Hải Phòng đặc biệt quan tâm và đã ban hành các nghị quyết chỉ đạo, song nhiều cơ quan, đơn vị, nhất là cấp cơ sở vẫn rất lúng túng trong triển khai thực hiện. Mặt khác, nhận thức của người dân, nhiều cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, tính cấp bách của việc chuyển đổi số còn hạn chế. Số lượng người dân được phổ cập kỹ năng số cơ bản trên nền tảng OneTouch năm 2022 đạt rất thấp: 0,36/5; số lượng người dân đăng ký, sử dụng tài khoản dịch vụ công trên Cổng dịch vụ công quốc gia và Cổng dịch vụ công thành phố hạn chế; tỷ lệ người lao động được bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng số nhìn chung thấp, năm 2022 đạt: 2,69/5(7). Vì vậy, vai trò của chuyển đổi số trong phát triển, trong quản trị thành phố thông minh, phục vụ nhân dân, doanh nghiệp chưa phát huy được hiệu quả; đóng góp của chuyển đổi số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố còn rất hạn chế.

Việc phát triển mới các trạm BTS (trạm thu phát sóng di động) còn nhiều vướng mắc do người dân chưa đồng thuận với lý do ảnh hưởng sức khỏe, dẫn đến chất lượng dịch vụ viễn thông chưa cao, đồng thời cũng chưa có quy định về việc xây dựng mới các trạm BTS trên tài sản công. Đây là những khó khăn khiến cho việc phát huy vai trò của chuyển đổi số ở thành phố Hải Phòng còn nhiều hạn chế.

Thứ hai, hạn chế về hạ tầng cho chuyển đổi số. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển của công nghệ số chưa hoàn thiện. Chưa có hệ thống thông tin dữ liệu tổng hợp phục vụ công tác chỉ đạo điều hành. Năm 2022, số doanh nghiệp công nghệ số (số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông - CNTT) mới chỉ đạt: 9,28/20; tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số đạt 8,11/10(8). Cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin chuyên ngành còn rời rạc, thiếu tính kết nối; chưa tích hợp, liên thông dữ liệu giữa các cơ quan đảng, cơ quan chính quyền và các đoàn thể. Việc kết nối với hệ thống thông tin các bộ ngành trung ương còn gặp khó khăn và đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện.

Trong lĩnh vực quản lý môi trường, Dự án Trung tâm điều khiển, tích hợp dữ liệu quan trắc môi trường và lắp đặt các trạm quan trắc môi trường tự động chưa được thực hiện do chưa được Hội đồng nhân dân thành phố phê duyệt chủ trương đầu tư và chưa bố trí nguồn kinh phí thực hiện; cơ sở dữ liệu về xử phạt vi phạm hành chính chưa được triển khai xây dựng, do đó việc cập nhật, kết nối và cung cấp thông tin về xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu thực hiện bằng phương pháp thủ công, gây khó khăn trong việc thống kê số liệu báo cáo cũng như việc xác định các trường hợp tái phạm, vi phạm nhiều lần.

Thứ ba, nhân lực số, nhất là chuyên gia chuyển đổi số rất thiếu. Hiện nay, nhân lực số, nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao trong các cơ quan nhà nước còn rất thiếu. Đội ngũ công chức, viên chức được đào tạo có thể làm chủ được công nghệ số còn hạn chế. Năm 2022, tỷ lệ công chức, viên chức chuyên trách, kiêm nhiệm về chuyển đổi số chỉ đạt 0,08/10; tỷ lệ công chức, viên chức chuyên trách, kiêm nhiệm về an toàn thông tin mạng: 0,67/10(9). Đây là một thách thức rất lớn đối với việc thực hiện chương trình chuyển đổi số ở thành phố hiện nay.

Thứ tư, bộ máy hành chính của thành phố còn cồng kềnh, chưa thực sự hiệu quả, làm ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi số. Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 35/2021/QH15 ngày 13 - 11 - 2021 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng, trong đó có quy định về thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức do thành phố quản lý sẽ được tăng lên. Tuy nhiên, “việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị phát huy hiệu quả chưa cao... Công tác cán bộ còn có những hạn chế, một số cán bộ được lựa chọn đề bạt chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí có cán bộ vi phạm phải xử lý kỷ luật”(10).

Bên cạnh đó, tình trạng tham nhũng vẫn xảy ra ở một số đơn vị. “Một số vụ việc, vụ tham nhũng chưa được giải quyết kịp thời, còn kéo dài gây bức xúc trong dư luận”(11). Những hạn chế về cán bộ, tình trạng tham nhũng, tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chuyển đổi số. Bởi chuyển đổi số đòi hỏi một hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả để minh bạch hóa các hoạt động hành chính, số hóa, chính quyền điện tử, thành phố thông minh. Mặt khác, mức độ ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động của chính quyền số theo kết quả đánh giá năm 2022 chưa đạt yêu cầu, dẫn đến nhiều khó khăn cho việc chỉ đạo triển khai thực hiện chuyển đổi số.

Một số giải pháp

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của người dân về chuyển đổi số

Khi cán bộ chính quyền các cấp, các ngành, doanh nghiệp, người dân trên địa bàn thành phố có nhận thức đúng đắn về vai trò của chuyển đổi số, sẽ có quyết tâm, hành động quyết liệt để thực hiện chuyển đổi số hiệu quả. Điều này tránh được tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, Thành ủy ban hành nhiều nghị quyết nhưng cấp cơ sở vẫn lúng túng trong triển khai thực hiện. Do đó, cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền những chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật liên quan đến chuyển đổi số, công tác đầu tư xây dựng các công trình viễn thông; vận động các tổ chức, cá nhân ủng hộ và đồng thuận chủ trương đầu tư, xây dựng các trạm BTS; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ từ cơ sở đến quận huyện, sở ngành, các doanh nghiệp và người dân hướng tới xây dựng chính quyền số, thành phố thông minh.

Hai là, tiếp tục đầu tư, hoàn thiện hệ thống hạ tầng phục vụ chuyển đổi số

Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng cần tiếp tục quan tâm chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp trong việc đầu tư, nâng cấp, mở rộng hạ tầng viễn thông, đặc biệt là hạ tầng trạm thu, phát sóng thông tin di động (BTS). “Tập trung xây dựng và hoàn thiện các hạ tầng số bao gồm: Hạ tầng dữ liệu, hạ tầng kết nối - nhất là 5G, hạ tầng xanh để thu hút nhà đầu tư; hoàn thiện dữ liệu số và phát triển nguồn nhân lực số”(12).

Cần có cơ chế, chính sách quy định rõ trách nhiệm của các tập đoàn, tổng công ty và các doanh nghiệp viễn thông trong việc tập trung nguồn lực đầu tư bổ sung, nâng cấp, mở rộng hạ tầng truyền dẫn cố định băng thông rộng cáp quang và hạ tầng truyền dẫn băng thông rộng di động trên toàn địa bàn thành phố. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phần mềm quản lý điều hành, góp phần nâng cao hiệu quả, giảm bớt thời gian, chi phí cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân trong thực hiện các thủ tục hành chính.

Ba là, tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực số

Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng về chuyển đổi số, các kỹ năng số, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến tới toàn dân, người lao động, học sinh, sinh viên… về vai trò quan trọng của chuyển đổi số trong phát triển nhanh, bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội của thành phố.

Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia chuyển đổi số của thành phố; kiến nghị xây dựng vị trí việc làm chuyên trách về công nghệ thông tin. Tiếp tục nâng cao chất lượng các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyển đổi số cho toàn thể cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thành phố, bố trí thời gian, thời lượng hợp lý để cán bộ, công chức, viên chức có thể thời gian vừa tham gia các lớp bồi dưỡng vừa bảo đảm thời gian cho công việc chuyên môn.

Bốn là, xây dựng bộ máy hệ thống chính trị vững mạnh, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả

Đây là giải pháp quan trọng để có bộ máy hành chính trong sạch, vững mạnh góp phần hoàn thành các mục tiêu đặt ra trong quá trình chuyển đổi số. Bộ máy hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” sẽ là cơ sở để xây dựng chính quyền số, thành phố thông minh. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc việc tinh gọn bộ máy các sở, ngành, cơ quan, đơn vị của thành phố theo tinh thần chỉ đạo của trung ương để lựa chọn cán bộ lãnh đạo có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc xây dựng và phát triển thành phố. Khi cán bộ, lãnh đạo thực sự là những người có tâm, có tầm và có tài sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số của Hải Phòng.

4. Kết luận

Chuyển đổi số là xu thế tất yếu để thực hiện phát triển nhanh, bền vững và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội ở thành phố Hải Phòng. Hiện tại, Hải Phòng có những điều kiện cơ bản để thực hiện chuyển đổi số, đó là từ quyết tâm của chính quyền, đến cơ sở hạ tầng và nhận thức của người dân ngày càng được nâng cao. Song, chuyển đổi số cũng đặt ra cho Hải Phòng không ít những thách thức đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ hệ thống giải pháp từ nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp các ngành, của toàn dân, đến đầu tư hạ tầng cho chuyển đổi số và xây dựng đội ngũ cán bộ mạnh, đủ sức đáp ứng yêu cầu của công cuộc chuyển đổi số, hướng tới xây dựng thành phố thông minh, hiện đại.

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

 

Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, các đối tượng cơ hội chính trị đã và đang tiếp tục lợi dụng sự phát triển của khoa học, công nghệ để đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ta trên không gian mạng nhằm thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Chúng lợi dụng sự tiện lợi, phổ biến của internet, các trang mạng xã hội như youtube, facebook, tiktok… để tuyên truyền, phát tán những tin giả, xấu độc, xuyên tạc về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước, xuyên tạc về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng.... Do vậy, các cấp, các ngành phải chủ động và tích cực đấu tranh phòng, chống và làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bọn phản động, cơ hội chính trị trên không gian mạng. Phải coi đây là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và lâu dài trong tình hình mới.

Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã với nông dân ở trung du và miền núi phía Bắc.

 Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững là yêu cầu khách quan, là tiền đề, điều kiện tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản, từng bước hình thành và góp phần phát triển một nền nông nghiệp sản xuất lớn. Nhận thức được điều này, những năm qua, các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc đã khuyến khích các chủ thể tham gia sản xuất, trong đó có hợp tác xã và nông dân tham gia liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn những hạn chế làm cho liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao giữa hợp tác xã với nông dân trong vùng chưa bền vững. Vì vậy, cần nghiên cứu tìm hiểu để đưa ra giải pháp khắc phục nhằm đẩy mạnh liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững thời gian tới.

Liên kết giữa Hợp tác xã chè Hảo Đạt ở Thái Nguyên được thành lập năm 2016 có 8 thành viên liên kết với hơn 50 hộ nông dân cung cấp chè nguyên liệu_ Ảnh: IT

1. Mở đầu

Trung du và miền núi phía Bắc có diện tích lớn thứ hai cả nước, với 95.184,1 km2, chiếm 28,72% diện tích tự nhiên của cả nước(1), bao gồm 14 tỉnh, đó là: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. Là vùng kinh tế - xã hội có vị trí, phía Bắc giáp, Trung Quốc, phía Tây giáp Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào; phía Đông, phía Nam giáp với vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Sự đa dạng của địa hình (đồi núi cao, đồi núi trung bình và thấp, xen kẽ đồng bằng nhỏ hẹp), đa dạng của khí hậu, đất đai đã tạo điều kiện thuận lợi để đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp; sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới. Tuy nhiên, do địa hình chia cắt, đất đai sản xuất nông nghiệp phân tán, nhỏ lẻ, nguồn nước khó khăn, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nói chung và hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu,... khiến sản xuất nông nghiệp trong vùng không ổn định, năng suất, sức cạnh tranh và hiệu quả thấp. Vì vậy, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu khách quan, là tiền đề, điều kiện khai thác lợi thế và tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản, từng bước hình thành, phát triển một nền nông nghiệp bền vững.

2. Thực trạng liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa nông dân và hợp tác xã ở trung du và miền núi phía Bắc

Một số kết quả

Số hợp tác xã liên kết với nông dân ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trong vùng các năm gần đây tăng nhanh: từ 198 hợp tác xã năm 2019 lên 519 (năm 2022)(1) và 693 (năm 2023)(3), tăng 495 hợp tác xã, bình quân tăng 37%/năm. Trong đó, Sơn La và Thái Nguyên là hai địa phương có số lượng hợp tác xã liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững với nông dân không chỉ cao so với toàn vùng mà còn giữ vị trí hàng đầu cả nước (năm 2022 Sơn La có 174 hợp tác xã, Thái Nguyên có 106 hợp tác xã(4)).

Trung du và miền núi phía Bắc cũng là vùng có hợp tác xã nông nghiệp là chủ chuỗi liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững với nông dân cao nhất cả nước. Năm 2023, cả nước có 2.500 hợp tác xã liên kết với nông dân ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp, chiếm 9,86% tổng số hợp tác xã nông nghiệp cả nước thì vùng trung du và miền núi phía Bắc có 693 hợp tác xã, chiếm 12% tổng số hợp tác xã nông nghiệp toàn vùng(5). Có được kết quả trên là do các hợp tác xã nông nghiệp ở trung du và miền núi phía Bắc có quy mô nhỏ nên dễ đồng thuận trong việc ứng dụng công nghệ cao cũng như mở rộng quy mô liên kết so với các hợp tác xã nông nghiệp có quy mô lớn ở các vùng khác(6).

Sự gia tăng nhanh chóng của số hợp tác xã nông nghiệp chủ chuỗi liên kết dẫn đến số hộ nông dân tham gia liên kết cũng tăng lên. Ngoài các hộ nông dân là thành viên, các hộ nông dân ngoài hợp tác xã tham gia liên kết cũng tăng khá nhanh. Cụ thể, số lượng thành viên hợp tác xã tăng từ 9.900 người (năm 2019) lên 25.950 người (năm 2022) và 32.571 người (năm 2023); số hộ nông dân ngoài hợp tác liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững với hợp tác xã cũng tăng từ 7.920 hộ (năm 2019) lên 15.570 hộ (năm 2022) và 1.302.840 hộ (năm 2023)(7).

Các công nghệ cao được chủ chuỗi liên kết là các hợp tác xã sử dụng nhiều nhất trong giai đoạn này là kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản (84,6%); công nghệ tin học trong quản lý kinh doanh (40,4%); công nghệ tự động hóa (29,1%); công nghệ sinh học trong nông nghiệp (20,6%); và công nghệ sản xuất vật tư nông nghiệp (9,9%). Điều này được thể hiện ở Bảng dưới đây.

Bảng 1: Công nghệ cao được các mô hình liên kết hợp tác xã
với nông dân sử dụng giai đoạn 2019-2023

Danh mục công nghệ
Tỷ lệ (%)
Công nghệ sinh học trong nông nghiệp
20,6
Kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản
84,6
Công nghệ tự động hóa
29,1
Công nghệ sản xuất vật tư nông nghiệp
9,9
Công nghệ tin học trong quản lý kinh doanh
40,4

Nguồn: Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (2023)

Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã và nông dân đã giúp giảm chi phí nhờ gia tăng quy mô và giảm giá nguyên liệu đầu vào, bảo vệ môi trường, khắc phục tình trạng ”được mùa mất giá”, sản xuất theo yêu cầu thị trường, gia tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, mang lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia và đặc biệt là đã làm thay đổi tập quán canh tác nhỏ lẻ của người nông dân, phát triển kinh tế tập thể và nâng cao giá trị chuỗi nông sản.

Chẳng hạn, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa Hợp tác xã Nông sản Sơn La với 20 hộ nông dân xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn. Trong liên kết này, Hợp tác xã Nông sản Sơn La đã hướng dẫn các hộ nông dân thành viên và các hộ nông dân liên kết đưa công nghệ màng phủ, công nghệ tưới nước tiết kiệm, quy trình sản xuất nông nghiệp sạch vào sản xuất các loại rau, củ, quả đã đem lại hiệu quả cao. Cụ thể, sản lượng và doanh thu của hợp tác tăng từ 20-30%/năm và nâng cao thu nhập cho thành viên, các hộ nông dân liên kết trên địa bàn cũng như từng bước thay đổi nhận thức của họ(8).

Liên kết giữa Hợp tác xã chè Hảo Đạt ở Thái Nguyên được thành lập năm 2016 có 8 thành viên liên kết với hơn 50 hộ nông dân cung cấp chè nguyên liệu. Tham gia liên kết, các hộ nông dân đã được Hợp tác xã chè Hảo Đạt hướng dẫn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP để bảo đảm nguồn nguyên liệu đạt chuẩn chất lượng, tạo ra các sản phẩm chè búp khô an toàn, chất lượng cao. Từ chỗ chỉ có 8 thành viên, đến nay, Hợp tác xã chè Hảo Đạt đã có trên 30 thành viên với vùng nguyên liệu hơn 10 ha, hệ thống nhà xưởng trên 2.000 m2, dây chuyền sản xuất khép kín, được tự động hóa 70%, công suất từ 4,0-4,5 tấn chè búp tươi/ngày. Hằng năm, mô hình này đã cung cấp cho thị trường từ 250-300 tấn chè búp khô an toàn, chất lượng cao, trong đó, sản phẩm chè Móc câu và Đinh xếp hạng OCOP 4 sao; chè Tôm nõn xếp hạng 5 sao. Doanh thu trung bình từ 5-6 tỷ đồng/ năm, lợi nhuận từ 1,5-2 tỷ đồng, tạo việc làm thường xuyên cho 20-30 lao động với mức thu nhập từ 4,5-6 triệu đồng/tháng; và khoảng 30 lao động thời vụ với mức lương thỏa thuận(9).

Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa Hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà (xã Bản Liền), Lào Cai với 310 hộ nông dân sản xuất, chế biến, tiêu thụ chè Shan tuyết hữu cơ. Trong mô hình liên kết này, hợp tác xã đã mời các nhà khoa học, cơ quan khuyến nông hướng dẫn cho các thành viên và các hộ dân liên kết về kỹ thuật chăm sóc chè hữu cơ, chè sạch đúng tiêu chuẩn do các tổ chức quốc tế quy định, chất lượng sản phẩm đồng đều, đạt tiêu chuẩn an toàn. Nhờ đó, có tới 90% sản phẩm chè Shan tuyết hữu cơ của Hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà đã được xuất khẩu sang các thị trường khó tính ở châu Âu. Bình quân mỗi ha chè mang lại lợi nhuận từ 80-100 triệu đồng/năm, cao hơn nhiều so với các cây trồng truyền thống khác; giá bán cao hơn từ 3-4 lần so với sản xuất chưa liên kết, tạo thu nhập ổn định cho các hộ nông dân đồng bào dân tộc thiểu số tham gia liên kết; góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững(10) và giúp địa phương hình thành vùng sản xuất tập trung.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh một số kết quả ban đầu đạt được như trên, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã với nông dân tại các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc vẫn còn một số hạn chế:

Thứ nhất, tỷ lệ hợp tác xã và nông dân trong vùng tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững còn thấp. Mặc dù số hợp tác xã và nông dân tham gia liên kết tăng nhanh qua các năm, cao hơn so với tỷ lệ chung toàn quốc, song còn thấp. Năm 2023, chỉ có 12% hợp tác xã và gần 7% số hộ nông dân tham gia liên kết. Vì vậy, sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao còn chưa tương xứng với lợi thế tự nhiên các tỉnh trong vùng.

Thứ hai, tình trạng phá bỏ hợp đồng liên kết giữa hợp tác xã với nông dân vẫn xảy ra. Mặc dù liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã với nông dân trong vùng các năm qua đã được quan tâm, song tình trạng các hộ nông dân không phải thành viên hợp tác xã sẵn sàng bỏ ngang hợp đồng khi giá bán nông sản trên thị trường cao hơn vẫn xảy ra; tình trạng hợp tác xã không thu mua sản phẩm của hộ nông dân liên kết ngoài thành viên khi giá nông sản xuống thấp vẫn còn. Trong đó, có trên 60% là nông dân bỏ ngang, trên 30% hợp tác xã không thực hiện đúng hợp đồng.

Thứ ba, phần lớn công nghệ được các mô hình liên kết giữa hợp tác xã với nông dân trong vùng ứng dụng vào nông nghiệp là kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản, tiếp đến là công nghệ thông tin trong quản lý kinh doanh nông nghiệp, công nghệ sinh học trong lai tạo giống mới, còn các công nghệ hiện đại như chuỗi khối,... ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp còn rất ít.

Những hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản dưới đây:

Một là, nhận thức của nông dân và phần lớn hợp tác xã trong vùng về liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững còn thấp, chưa đầy đủ. Hầu hết nông dân, hợp tác xã trong vùng chưa nhận thức được vai trò, lợi ích, sự cần thiết phải liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, tâm lý e ngại, thiếu niềm tin vào mô hình hợp tác xã kiểu cũ vẫn còn trong tiềm thức nông dân, tâm lý e ngại nông dân bỏ ngang hợp đồng khiến cho tỷ lệ nông dân và hợp tác xã tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao còn ít, chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của các chủ thể này vào phát triển nông nghiệp.

Hai là, năng lực nội sinh của hợp tác xã nông nghiệp và trình độ nông dân trong vùng còn thấp. Phần lớn các hợp tác xã nông nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ, vốn tự có ít, năng lực quản trị yếu, trang thiết bị lạc hậu nên các hợp tác xã mới chủ yếu cung ứng dịch vụ đầu vào; Trình độ chuyên môn, năng lực quản lý các hợp tác xã còn yếu, phần lớn chưa qua đào tạo, chủ yếu điều hành dựa trên kinh nghiệm. Bên cạnh đó, phần lớn nông dân trong vùng là đồng bào dân tộc thiểu số chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Đến nay, gần 93% lao động nông nghiệp trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo. Năng lực đầu tư, tiếp nhận, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp thấp nên tỷ lệ hợp tác xã cũng như nông dân tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững còn ít.

Ba là, hệ thống kết cấu hạ tầng, phục vụ sản xuất nông nghiệp của các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc còn lạc hậu, chưa đồng bộ, là “nút thắt” trong phát triển kinh tế nói chung, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững nói riêng. Hệ thống giao thông, thủy lợi,... ở các tỉnh trong vùng tuy đã được đầu tư, song chưa đồng bộ; hệ thống kho vận, logistic, chợ đầu mối nông sản, hệ thống chế biến nông sản, trung tâm xúc tiến thương mại mới manh nha, nhất là hệ thống đường giao thông còn hạn chế là lực cản hợp tác xã, nông dân tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững.

Bốn là, việc tiếp cận vốn vay ưu đãi khó khăn. Liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn quay vòng vốn chậm. Bởi vì, ngoài nguồn vốn xây dựng hạ tầng, nâng cao năng lực tiếp nhận, chuyển giao, các hợp tác xã phải đầu tư trang thiết bị, công nghệ cũng như tiếp cận thị trường. Trong khi đó, hầu hết các hợp tác xã, hộ nông dân tham gia liên kết ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp các tỉnh trong vùng khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. Nguyên nhân là thủ tục rườm rà, một số quy định chưa phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương như phải xây dựng được dự án phù hợp với chương trình, phải có tài sản thế chấp...

Năm là, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao còn hạn hẹp, phân tán. Đến nay, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao chủ yếu ở một số khu vực trung tâm, một số nơi có mức sống cao, còn phần lớn người tiêu dùng vẫn sử dụng sản phẩm nông nghiệp sản xuất truyền thống. Trong khi đó, phần lớn các hợp tác xã chưa đủ sức tiếp cận thị trường tiêu thụ ở ngoài nước. Như vậy, tín hiệu thị trường chưa đủ mạnh để thu hút hợp tác xã, nông dân liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, chưa là động lực để hợp tác xã, nông dân chuyển từ sản xuất truyền thống sang tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ sáu, cơ chế, chính sách về liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp chưa được thực hiện hiệu quả. Mặc dù cả Trung ương và các tỉnh trong vùng đã có chủ trương, chính sách khuyến khích liên kết, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, song chưa được triển khai đầy đủ trong thực tiễn. Chẳng hạn, chính sách hỗ trợ vốn vay; dự báo, thông tin thị trường; hỗ trợ nâng cao năng lực các hợp tác xã; quảng bá thương hiệu, phát triển hạ tầng, bảo hiểm nông nghiệp... Một số chính sách còn bất cập chưa phù hợp với thực tiễn, ví dụ, chính sách hỗ trợ vốn vay nhưng có hạn mức thấp, thời gian ngắn trong khi chi phí đầu tư cao, thời gian thu hồi vốn dài; chế tài liên kết còn lỏng lẻo...

3. Một số giải pháp

Một lànâng cao nhận thức của nông dân, hợp tác xã về sự cần thiết phải liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững

Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh trong vùng cần phối hợp với các sở thông tin và truyền thông đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vai trò, lợi ích của liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp tại địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng; trong các lớp bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo nghề. Bên cạnh đó, giới thiệu các mô hình đã thành công trong liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trong tỉnh, các tỉnh trong vùng và cả nước. Từ nhận thức rõ vai trò, lợi ích liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững, nông dân, hợp tác xã chủ động xây dựng kế hoạch và thực hiện liên kết. Từ đó, hình thành nên các vùng, khu nông nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó, tuyên truyền để xóa bỏ những “định kiến” về hợp tác xã kiểu cũ và hiểu đúng về bản chất, giá trị “hợp tác xã kiểu mới”, giúp cho mọi người hiểu và yên tâm khi liên kết.

Hai là, nâng cao năng lực nội sinh của các hợp tác xã và nâng cao trình độ nông dân các tỉnh trong vùng

Các địa phương trong vùng cần tổ chức các khóa bồi dưỡng, đào tạo kiến thức về thị trường, hội nhập, marketting và khuyến khích đội ngũ giám đốc, quản lý hợp tác xã tự học tập nâng cao trình độ; tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã thuê đất, mở rộng sản xuất, tiếp cận được vốn vay ưu đãi, mua sắm trang thiết bị phục vụ quản lý, kinh doanh, hỗ trợ tiếp cận thị trường trong nước và xuất khẩu; đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh đó, đào tạo nghề nông, nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng liên kết cho nông dân; tăng cường vai trò của các trung tâm khuyến nông, tổ chức tập huấn kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ, cộng tác viên khuyến nông và nông dân. Lồng ghép các chương trình đào tạo dài hạn, ngắn hạn và tập huấn chuyển giao công nghệ. Quá trình đào tạo cần diễn ra liên tục, có kế thừa để đáp ứng yêu cầu của nông dân, hợp tác xã, từng bước tiếp cận với công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.

Ba làđầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nói chung và kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao

Bên cạnh nguồn vốn từ trung ương trong các chương trình, dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nội vùng, liên vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp Bộ Giao thông vận tải xây dựng cơ chế thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư hệ thống đường giao thông các tuyến mới kết nối các tỉnh trong vùng và với các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đối với những đường liên thôn, liên xã, liên bản, đường lên các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung giao cho chính quyền cấp huyện quản lý, cấp phép xây dựng và quản lý, kinh phí lấy từ vốn ngân sách kết hợp với các chương trình dự án xây dựng nông thôn mới và đóng góp của nhân dân. Xây dựng mới và củng cố hệ thống điện, thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp xây dựng hệ thống kho vận, logistic, chợ đầu mối nông sản, hệ thống chế biến nông sản, hệ thống trung tâm xúc tiến thương mại.

Bốn là, tạo điều kiện để hợp tác xã, nông dân tham gia liên kết tiếp cận nguồn vốn ưu đãi thuận lợi

Ủy ban nhân dân các tỉnh trong vùng chỉ đạo các ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín dụng trên địa bàn công khai quy trình, thủ tục để tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp vay được nguồn vốn ưu đãi. Theo đó, cán bộ tín dụng phải hướng dẫn cách thức xây dựng dự án một cách cụ thể, dễ hiểu cho các hợp tác xã, nông dân tham gia liên kết ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp. Bên cạnh đó, có thể thay tài sản thế chấp bằng diện tích đất liên kết hoặc các trang thiết bị công nghệ của hợp tác xã tham gia liên kết. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh tham mưu UBND các tỉnh có cơ chế ưu đãi đặc biệt đối với những chủ chuỗi là hợp tác xã liên kết đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất, kinh doanh nông nghiệp tại địa phương.

Năm là, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, bền vững ở vùng trung du và miền núi phía Bắc

Đối với thị trường trong nước, các địa phương trong vùng cần đẩy mạnh quảng bá sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, bền vững trên địa bàn đến người tiêu dùng cả nước thông qua các siêu thị, quầy hàng chất lượng cao, hội chợ triển lãm, hội nghị, hội thảo. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phối hợp, liên kết giữa các địa phương trong vùng và ngoài vùng trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm chủ lực chất lượng cao từng địa phương. Đối với thị trường xuất khẩu, chính quyền các địa phương phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương, các bộ ngành có liên quan đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm nông sản chất lượng cao, chủ lực cho từng giai đoạn, từng khu vực thị trường mục tiêu.

Sáu làthực hiện các chính sách khuyến khích liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong thực tiễn, tránh tình trạng chính sách thì có nhưng không thực hiện hiệu quả.

Cung cấp thông tin dự báo cung cầu sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao; thực hiện bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm công nghệ cao, hỗ trợ các chủ thể liên kết tham gia bảo hiểm nông nghiệp; khuyến khích liên kết theo hợp đồng và thực hiện nghiêm chế tài khi vi phạm hợp đồng; hoàn thiện và thực hiện cơ chế khuyến khích, tôn vinh các doanh nghiệp, hộ nông dân thực hiện nghiêm túc chế tài liên kết.

NGƯỜI CỘNG SẢN LÀM CÁCH MẠNG KHÔNG PHẢI ĐỂ PHÁ BỎ TÔN GIÁO

 

Cho đến nay, các học giả, giới chính trị và cả người dân trong nước và quốc tế vẫn còn thiếu sự hiểu biết về quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và chính sách tôn giáo của Việt Nam. Vẫn tồn tại một định kiến: người cộng sản làm cách mạng để phá bỏ tôn giáo? Điều đó có đúng không?