Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

CÓ LÍNH NƯỚC NÀO NHƯ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM!

     Một bài thơ tỏ lời cảm ơn đến công lao của các những người lính thời bình:
Có đất nước nào như đất nước Việt Nam,
Bộ đội lo cho dân chẳng màng thân xác.
Chốt chặn biên cương giữa rừng canh gác.
Cơm, muối, rau rừng đạm bạc chẳng than.

Họ đã làm tất cả vì Tổ quốc Việt Nam.
Nhường doanh trại cho Nhân dân ra ngoài rừng nằm ngủ.
Để các cậu ấm cô nương về có nơi để trú.
Cố gắng chuộng chiều mấy vụ xài sang.

Có đất nước nào như lính nước tôi không?
Trong chiến tranh họ hóa đồng, hóa thép.
Bộ đội Cụ Hồ chẳng có thần, có phép.
Kẻ xâm lược hùng mạnh nào cũng quyết dẹp thẳng tay.

Lũ lụt gian nan họ chẳng quản đêm ngày.
Dịch bệnh hiểm nguy họ xắn tay chẳng quản.
Lo cho dân mình vượt qua hoạn nạn.
Dẫu hy sinh thân xác vẫn cam lòng.

Giữa dòng đời biết gạn đục khơi trong.
Sống là để yêu thương với tấm lòng nhân ái.
Bởi họ là lính nên suốt đời nhẫn nại,
Chẳng ngại gian nguy hay ngang trái nhân tình.

Bởi họ chính là người lính Hồ Chí Minh,
Vì Tổ quốc, vì Nhân dân họ quên mình vậy đó!
Cuộc chiến Covid này còn muôn vàn gian khó.
Đói, rét, ngày đêm sương gió chẳng sờn lòng.
Xin cảm ơn, vì ở đâu khó là có các anh!
Môi trường ST.

NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA KẺ THÙ TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG - VĂN HÓA!

        Để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa là mũi đột phá nhằm gây chia rẽ, suy giảm niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận tư tưởng, tạo ra những khoảng trống để đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và nhân dân tiến tới xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
     Vì vậy mỗi chúng ta cần nhận rõ bộ mặt thật của thủ đoạn thâm độc này để có phương sách hiệu quả, điều này rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn tinh vi xảo quyệt của các thế lực thù địch đối với việc thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam hiện nay là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều đó đòi hỏi các cấp, các ngành, tích cực, chủ động đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình” trong tình hình mới. Đây là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách và là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, góp phần bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước, toàn quân và Nhân dân ta đang ra sức xây dựng./.


Yêu nước ST.

Những vấn đề cơ bản về biến đổi xã hội

 


Cũng giống như trong tự nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng thay đôi bên trong bản thân nó. Bt cứ xã hội nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu cũng luôn biến đổi. Sự biến đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn, đa dạng, phức tạp hơn. Biến đổi xã hội là quá trình xã hội trong đó các yếu tố cấu thành xã hội và cả hệ thống xã hội thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác[1]. Biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến. Bất kỳ một sự thay đổi nào ở thành phần và cấu trúc của xã hội đều được gọi là biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội diễn ra ở quy mô, cấu trúc và thành phần của xã hội như nhóm xã hội, vị thế xã hội, văn hóa, mạng lưới xã hội và toàn bộ hệ thống xã hội mà các yếu tố này tạo nên. Cùng với chiều cạnh cấu trúc, hệ thống xã hội còn có chiều cạnh thời gian: bât kỳ sự biến đổi nào cũng diễn ra trong khung thời gian nhất định và có thể là tạm thời, ngắn gọn hoặc bên vững lâu dài. Sự biến đổi xã hội có thể diễn ra một cách tuần tự, từ từ theo quy luật tiến hóa hoặc diễn ra một cách mạnh mẽ, đột ngột dưới tác động của các cuộc cách mạng xã hội. Sự biến đổi có thể theo chiều hướng tiến bộ, với đặc trưng là trạng thái tiếp theo đạt tới mức hoàn thiện cáo hơn trạng thái trước đó. Cũng có thể biến đổi xã hội theo chiều hướng suy thoái, với biểu hiện là trạng thái tiếp theo kém hơn trạng thái trước đó[2]. Biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra không giống nhau giữa các xã hội. Biến chuyển xã hội có một số đặc trưng như sau: (i) Diễn ra trong những môi trường, các không gian xã hội khác nhau; (ii) Tốc độ và tính chất khác nhau; (iii) Biến đổi xã hội cũng diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau; (iv) Vừa có tính tự giác, nhưng cũng mang tính phi kế hoạch, có những biến đổi người ta lường trước, nhưng có những thay đối con người không thể lường được; (v) Biến đổi xã hội vừa mang kết quả tốt, nhưng cũng mang lại nhiều hậu quả xấu; (vi) Có những biến đổi diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng cũng có những biến đổi xã hội diễn ra thời gian rất lâu.



[1] Lê Ngọc Hùng (2010), Các cấp độ và xu hướng biến đồi xã hội ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ xcf hội học, Tạp chí Thông tin Khoa học xă hội số 4, tr 7.

[2] Lê Ngọc Hùng (2010), tài liệu đã dẫn, tr 7.

Quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay

 


Khái niệm “quản lý phát triển xã hội” lần đầu tiên được đưa văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, thể hiện cách tiếp cận mới trong quản trị đất nước. Điều này xuất phát từ nhu cầu quản lý phát triển xã hội chưa đồng bộ với quản lý phát triển các phân hệ - lĩnh vực khác của đời sống; xuất phát từ tính đăc thù của lĩnh vực xã hội không hoàn toàn áp dụng các phương pháp quản lý hành chính, hay tuân theo quy luật của thị trường đầy đủ, mà bị chi phối rất lớn của các thể chế phi chính thức. Quản lý phát triển xã hội là một cấu trúc đa dạng, ở chiều cạnh này có khi bị điều chỉnh bởi thề chế chính thức, còn ở chiều cạnh khác lại chịu điều chỉnh các thể chế phi chính thức; có chiều cạnh mang nội dung kinh tế chiu điều chỉnh bởi quan hệ thị trường không đầy đủ, nhưng nội dung khác lại mang tính phi kinh tế chịu điều chỉnh bởi giá trị văn hóa, đạo đức. Chủ thể quản lý phát triển xã hội rất đa dạng, gồm: Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng và nhân dân. Trong đó, Nhà nước là chủ thể quan trọng, có trách nhiệm hoạch định thể chế, chiến lược, kế hoạch cho phát triển xã hội; bảo đảm cho mọi thành viên xã hội bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực và phát huy cao nhất năng lực của minh; điều tiết các mất cân đối do thị trường tạo ra; trực tiếp chăm lo và dẫn dắt ở những khâu mà thị trường không làm; hỗ trợ phát triển các đối tượng, cộng đồng, vùng, miền thua thiệt về cơ hội phát triển; khuyến khích tư nhân và cộng đồng tham gia phát triển xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau. Các tổ chức chính trị-xã hội, nghề nghiệp và tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng đa dạng khác là chủ thể nòng cốt của quản lý phát triển xã hội. Nhân dân là chủ thể quyết định của quản lý phát triển xã hội. Đối tác của các chủ thể quản lý phát triển xã hội là doanh nghiệp, các tổ chức cung ứng vụ xã hội và gia đình. Về phương thức, quản lý phát triển xã hội rất đa dạng, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, mục tiêu và thực tiễn của quản lý xã hôi Do tính đa dạng của chủ thể và đối tác tham gia đã dẫn tới sự đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho quản lý phát triển xã hội. Từ sự đa dạng hóa chủ thể, đối tác tham dự và nguồn lực tài chính tất yếu phải đa dạng hóa phương thức tổ chức quản lý phát triển xã hội. Về nội dung, bản chất của quản lý phát triển xã hội phải thật sự bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi nhân dân là chủ thể phát triển xã hội và quyền làm chủ đó được tôn trọng và bảo vệ; gia đình là tế bào xã hội phải hòa thuận, cộng đồng hài hòa; môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội cống hiến và hưởng thụ thành quả của sự phát triển. Về mục tiêu, quản lý phát triển xã hội phải thể hiện được tinh thần tự đổi mới, tự hoàn thiện, củng cố, phát triển; theo dõi biến đổi cấu trúc giai tầng xã hội để điều chỉnh; tạo sự đồng thuận xã hội thông qua giải pháp đối thoại, thương lượng; dân chủ hóa; tăng cường kỷ cương pháp luật; đề cao trách nhiệm của nhân dân là chù thể phát triển xã hội, là nền tảng để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vchức năng, quản lý phát triển xã hội bao gồm năm chức năng quản lý, đó là: hoạch định, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra và điều chỉnh.

Quản lý xã hội ở Việt Nam

 


Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức sớm về tiến bộ xã hội và công bằng xã hội trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước. Quan điểm “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển” ngày càng được hoàn thiện thông qua các kỳ Đại hội Đảng từ khóa VIII năm 1996 đến nay. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016) nhận định: Đảng đã nhận thức ngày càng cụ thể và đầy đủ hơn tầm quan trọng, mục tiêu và nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.. Nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; vai trò của chính sách xã hội, sự thống nhất và kết họp hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được các thành tựu nồi bật về phát triển xã hội, đặc biệt trong xóa đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục phổ thông, dân số và sức khỏe... Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), hoàn thành nhiều chỉ tiêu quan trọng của các mục tiêu phát triển xã hội. Đặc biệt là đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Đến năm 2016, Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định các mục tiêu phát triền bền vững trong Chương trình nghị sự 2030 là một thành tố quan trọng của nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đa hóa đất nước.

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2022

Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) được Liên hợp quốc công bố cho giai đoạn 2000- 2015 là mục tiêu phát trển chung của nhân loại

 


Tám mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) được Liên hợp quốc công bố cho giai đoạn 2000- 2015 đã trở thành mục tiêu phát triển chung cho gần 200 quốc gia trên thế giới. Trong đó có sáu trên tám (từ 1 đến 6) mục tiêu trực tiếp liên quan đến phát triển xã hội, một mục tiêu về môi trường và một mục tiêu liên quan đến quản trị toàn cầu đối với phát triển.

Tám mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, giai đoạn 2000-2015 như sau:

Mục tiêu 1. Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói

Mục tiêu 2. Phổ cập giáo dục tiểu học

Mục tiêu 3. Tăng cường bình đẳng nam - nữ và nâng cao vị thế phụ nữ

Mục tiêu 4. Giảm tử vong trẻ em .

Mục tiêu 5. Tăng cường sức khỏe bà mẹ

Mục tiêu 6. Phòng, chống HIV/AIDS, sốt rét và các dịch bệnh nguy hiểm

Mục tiêu 7. Đảm bảo bền vững môi trường

Mục tiêu 8. Thiết lập mối quan hệ toàn cầu vì phát triền

Năm 2015, Liên hợp quốc tiếp tục công bố các mục tiêu phát trin bền vững (SDGs) cho Chương trình nghị sự 2030. Mười bảy mục tiêu này đã bao quát toàn diện hơn các vấn đề xã hội đang gây cản trở phát triển như nghèo đói (mục tiêu 1, 2), các tiến trình xã hội mang tính lâu dài mà các quốc gia phải đối mặt như: bất bình đẳng xã hội (mục tiêu 10), các hành vi xã hội như tiêu dùng (mục tiêu 12) và phương thức, cơ chế quản lý phát triển xã hội hiệu quả.

Mười bảy mục tiêu phát triển bền vững, giai đoạn đến năm 2030 như sau:      

Mục tiêu 1. Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi

Mục tiêu 2. Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dường và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững

Mục tiêu 3. Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc Jsjch0 mọi người mọi lứa tuổi      

Mục tiêu 4. Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng toà Ị diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người

Mục tiêu 5. Đạt được bình đẳng giói; tăng quyền và tạo cơ hội ch phụ nữ và trẻ em gái

Mục tiêu 6. Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyê nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người

Mục tiêu 7. Đảm bảo khả năng tiếp cận nguòn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người

Mục tiêu 8. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện liên tục; tạo việc làm đày đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người

Mục tiêu 9. Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới

Mục tiêu 10. Giảm bất bình đẳng trong xã hội

Mục tiêu 11. Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn- phân bố hợp lý dân cư và lao động theo vùng

Mục tiêu 12. Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững

Mục tiêu 13. ứng phó kịp thòi, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai

Mục tiêu 14. Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lọi biển đế phát triển bền vững

Mục tiêu 15. Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hòi tài nguyên đất

Mục tiêu 16. Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công bầng, bình đẳng, văn minh vi sự phát triển bền vững, tạo khá năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia các cấp

Mục tiêu 17. Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững.

Mục tiêu phát triển xã hội toàn cầu hiện nay

 


Trong một thời gian dài, quản lý xã hội vốn được hiểu là một chức năng của Nhà nước đối với các lĩnh vực xã hội (không phải là kinh tế hay an ninh quốc phòng) như: văn hóa, thể thao, việc làm, dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo hiểm và an sinh xã hội. Quản lý xã hội theo nghĩa này gắn liền với việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các hoạt động hướng tới mục tiêu cụ thể của từng lĩnh vực. Ví dụ: đảm bảo tỷ lệ có việc làm; mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội tự nguyện...Quá trình hiện đại hóa và toàn cầu hóa đưa đến nhận thức về sự không đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội. Trong nhiều trường hợp, tăng trường kinh tế để lại hậu quả nặng nề về môi trường và xã hội, về xã hội, đó là bất bình đẳng trong hường thụ thành quả tăng trưởng kinh tế, phân hóa và phân cực xã hội, thiếu việc làm và thất nghiệp, xói mòn các giá trị đạo đức văn hóa, mất niềm tin vào xã hội và tương lai cũng như các vấn đề xã hội mang tính toàn cầu như di cư, tị nạn chiến tranh và nhân đạo, bệnh dịch xã hội, tội phạm xuyên biên giới...Trong bối cảnh đó, sự phát triển của một quốc gia nói riêng và thế giới nói chung, đã và đang được nhìn nhận lại từ hệ quy chiếu mới về phát triển bền vững trên cả ba chiều cạnh: kinh tế - xã hội - môi trường (Báo cáo tương lai chung của chúng ta, ủy ban Liên hợp quốc về môi trường và phát triển thế giới - WCED năm 1987). Các thể chế quản trị quốc gia cũng có những thay đổi mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, đưa người dân thành chủ thể trung tâm của phát triển. Liên hợp quốc nhìn nhận phát triển xã hội một cách rộng nhất là quá trình chuyển đổi dẫn đến sự cải thiện cuộc sổng con người, cải thiện các quan hệ xã hội và thể chế xã hội hướng đến tính bình đẳng, bền vững và phù hợp với các nguyên lý về quản trị dân chù và công bằng xã hội. Theo nghĩa rộng nhất này, phát triển xã hội một mặt bao gồm các thành tựu trong các lĩnh vực xã hội như: giáo dục, y tế, tiếp cận thông tin... mặt khác là những thành tựu về quan hệ xã hội và thể chế xã hội nhằm đảm bảo an ninh, phẩm giá và sư hòa nhập của con người với xã hội. Trong thực tiễn lãnh đạo, quản lý, có thể sử dụng cách tiếp cận hẹp hơn về phát triển xã hội để giúp định hướng và lập kế hoạch cho các mục tiêu: Xác định các lĩnh vực quan trọng trong phát triển xã hội, nội dung và vai trò của chúng đối với phát triển xã hội; phân tích điểm yếu, điểm mạnh trong từng lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể, từ đó xây dựng chiến lược phát huy điểm mạnh, khắc phục hoặc hạn chế điểm yếu để tiếp tục phát triển. Đây là quan niệm về phát triển xã hội phổ biến nhất, có tính thực tiễn cao, vì nó chỉ ra Nhà nước và các chủ thể có liên quan khác cần làm gì, khi nào, ở đâu và sử dụng nguồn lực gì. Các quốc gia đều có các chiến lược phát triển xã hội được trình bày theo hình thức liệt kê các lĩnh vực ưu tiên.

NẮM VỮNG NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI

 


Hiện nay đang có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý xã hội: Quản lý xã hội là những tác động có ý thức của con người vào xã hội nhằm sắp xếp và duy trì các phẩm chất đặc thù của xã hội, để đáp ứng sự tồn tại và phát triển của xã hội trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Quản lý xã hội là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của chủ thể quản lý xã hội lên xã hội và các khách thể có liên quan, nhằm duy trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng và các mục tiêu mà các chủ thể quản lý đặt ra phù hợp với xu thế phát triển khách quan của lịch sử. Tổng hợp một số quan điểm như vừa nêu, có thể định nghĩa như sau: Quản lý xã hội là sự tác động có định hướng, có tổ chức của các chủ thể   nhà nước và xã hội đến các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm mục tiêu phát  triển xã hội hài hòa và bền vững.

Quản lý xã hội về bản chất là hoạt động quản lý, có chức năng định hướng, điều chỉnh các hành vi, hoạt động của các thành phần xã hội và toàn xã hội nhằm đảm bảo phát triển bao trùm, bền vững. Ngoại diên của khái niệm  quản lý xã hội nhỏ hơn so với phạm vi của quản lý nói chung. Nếu cả xã hội được chia ra thành 3 bộ phận: Bộ phận chính trị, bộ phận kinh tế và bộ phận xã hội, thì quản lý xã hội chủ yếu đề cập đến việc quản lý lĩnh vực xã hội của hoạt động xã hội. Chủ thể quản lý: Quản lý xã hội được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Một mặt, Nhà nước trực tiếp thực hiện các hoạt động quản lý theo thẩm quyền, chức năng của mình; mặt khác, kiến tạo môi trường, thể chế để các chủ thể khác (mà chủ yếu là các đoàn thể, các tổ chức xã hội khác nhau, các cá nhân và doanh nghiệp) chủ động tham gia quản lý xã hội. Các mối quan hệ quản lý giữa các cơ quan quản lý đa cấp, đa dạng có thể khác nhau trong các khu vực khác nhau.; Ví dụ, một tổ chức trong trường hợp này là chủ thể quản lý, nhưng trong trường hợp khác là đối tượng bị quản lý. Khách thể quản lý: là con người, cộng đồng, các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội, cấu trúc xã hội, chức năng xã hội. Phương tiện quản lý: Phương tiện cơ bản của hệ thống quản lý xã hội bao gồm các chuẩn mực xã hội, không chỉ là các chuẩn mực cứng như luật, lệ, quy định, chính sách mà còn cả các chuẩn mực mềm như đạo đức, giá trị. Đối với Đảng và Nhà nước thì pháp luật, quy định, chính sách là những phương tiện chính yếu của quản lý xã hội; tuy nhiên cũng không nên bỏ qua các chuẩn mực mềm. Mục đích và nhiệm vụ: Quản lý xã hội có rất nhiều mục tiêu và nhiệm vụ khác nhau, đó là: duy trì trật tự xã hội, điều chỉnh hành vi xã hội, thúc đẩy sự hài hòa xã hội và giải quyết các xung đột xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội, đối phó với rủi ro xã hội và làm giảm các mâu thuẫn xã hội, kiểm soát xung đột xã hội, làm cầu nối giữa các khác biệt xã hội.. .Trong số đó, giải quyêt xung đột xã hội và duy trì trật tự xã hội là mục tiêu và nhiệm vụ bao trùm của quản lý xã hội. Thiết chế xã hội trong quản lý xã hội: Chính trị, kinh tế, pháp luật, gia đình, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, truyền thông, dư luận xã hội.

KHÔNG PHẢI LÀ TRẠNG THÁI PHÒNG VỆ TƯỞNG TƯỢNG

 

Gần đây có một số ý kiến cho rằng: Chúng ta đang trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, liệu chúng ta có kẻ thù thật sự không hay chúng ta đang “tự dựng nên kẻ thù, tưởng tượng ra kẻ thù” và “tự mình rơi vào trạng thái hoang mang, hoảng sợ”. Một số người lại cho rằng: “Trong một “thế giới phẳng” hòa bình, xu thế dân chủ đang là tất yếu hiện nay, các quốc gia đều là bạn của nhau, là đối tác của nhau, chúng ta làm gì có kẻ thù mà phải phân vân, mà cần cảnh giác, không khéo lại rơi vào trạng thái phòng vệ tưởng tượng...”.
Sự thật có phải như vậy không? Khẳng định, chúng ta tuyệt đối không tưởng tượng, không ảo tưởng, không hoang mang và càng không tự ru ngủ mình về kẻ thù của chúng ta! Nhiều năm qua và nhất là hiện nay, kẻ thù đáng sợ nhất, khó chiến thắng nó nhất lại chính là những kẻ thù giấu mặt, những thứ “giặc nội xâm”. Những loại này nằm lẩn khuất trong đội ngũ, rình rập trong chính mỗi người, nếu chúng ta mất cảnh giác hoặc do dự, ngập ngừng hay dao động, thoái bộ. Nguy hiểm hơn là rất khó nhận biết chúng, vì chúng biến ảo khôn lường: Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa đầu hàng… được ngụy trang, trá hình dưới muôn vàn màu sắc, trong đủ thứ cái gọi là “nhân danh”, “dân chủ hóa”, “liên kết”, “hội nhập”… Chúng ta không được nhầm lẫn về điều đó.
V.I.Lênin từng nói: “Không có kẻ thù nào, dù là hung bạo nhất, có thể chiến thắng được những người cộng sản, ngoại trừ chính họ tự tan rã, chính những lỗi lầm của họ và họ không kịp sửa chữa”. Cùng với thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch từ bên ngoài, những lầm lẫn chuyển hóa thành sai lệch từ bên trong và những “giặc nội xâm”, tất cả hợp thành kẻ thù nguy hiểm nhất tiêu diệt chúng ta hoặc làm chúng ta tự rã rời, tự băng hoại, tự sụp đổ bất cứ lúc nào. Những “giặc nội xâm”, những căn bệnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ấy, đang tiềm tàng và hiện hình ngay trong không ít cán bộ, đảng viên nhưng rất khó nhận diện và rất khó định lượng. Đó chính là những nguy cơ tự tan vỡ từ bên trong.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là do âm mưu chống phá, chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, trong nội bộ một số cơ quan, đơn vị, địa phương đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những người giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với các biểu hiện khác nhau như: Thờ ơ, dao động về tư tưởng chính trị, bàng quan trước vận mệnh của Đảng, của dân tộc, trước khó khăn của đất nước, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc; phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu niềm tin vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Một số cán bộ, đảng viên, trong đó có người trước đây từng giữ cương vị, trọng trách trong các cơ quan đảng, chính quyền có những ý kiến lệch lạc, nhìn nhận phê phán lịch sử thiếu khách quan, toàn diện, đòi đa nguyên, đa đảng, công khai đả kích, phủ nhận những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, cộng tác với thế lực thù địch, phản bội lại lợi ích dân tộc. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nói trên chính là một biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Mặc dù vậy, phải thừa nhận rằng, đây là vấn đề mới nên nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương, của không ít cán bộ, đảng viên hiện nay vẫn chưa thống nhất, chưa đầy đủ, thậm chí còn ảo tưởng, như đã trình bày, nên dẫn đến trong việc xử lý còn nhiều lúng túng, bất cập.
Thực tiễn cho thấy, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng cơ bản là do không ngăn chặn kịp thời nguy cơ “tự diễn biến”, dẫn đến “tự chuyển hóa” chế độ chính trị. Chính vì tất cả lẽ đó, tại Đại hội XII và gần đây là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên"(1). Trên tinh thần ấy, Đảng ta xác định: Phải chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị nước ta. Vì, những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ là nguy cơ rất khó lường, đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đặc biệt là các cơ quan chức năng chỉ đạo về công tác giáo dục chính trị tư tưởng, văn hóa trong quân đội cần quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối và các giải pháp mà Đại hội XII của Đảng đã xác định, đó là:
Kiên trì, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Để đấu tranh chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch hiệu quả, trước hết phải kiên trì, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là đòi hỏi khách quan, yêu cầu có tính nguyên tắc và có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta. Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đối mới"(2). Đồng thời, Đại hội XII của Đảng xác định tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng: Cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân có giác ngộ, hiểu biết sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mới có bản lĩnh chính trị vững vàng, mới đủ điều kiện “tự bảo vệ”, góp phần ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan của hệ tư tưởng tư sản, sự xâm lăng của “văn hóa phương Tây”. Đó là sự cần thiết để mỗi cán bộ, chiến sĩ tự tin, có dũng khí chống lại âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch; đặc biệt là phê phán, bác bỏ những quan điểm lệch lạc, sai trái, thù địch phủ nhận nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả"(3).
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng trong tình hình mới. Thực hiện nhất quán, quyết liệt, nền nếp chế độ bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, chú trọng cán bộ ở cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tinh giản, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng đào tạo, bồi dưỡng.
Chủ động ngăn chặn và nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch: Một trong những biện pháp quan trọng trong đấu tranh chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch là chủ động nghiên cứu dự báo, sớm phát hiện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kịp thời ngăn chặn việc tuyên truyền, phát tán các thông tin xấu độc, tài liệu xuyên tạc, sai trái, thù địch của chúng. Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch"(4).
Đẩy mạnh đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là “mảnh đất mầu mỡ” để các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” chống phá nước ta trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Các quan điểm sai trái, thù địch sẽ gây tác hại trong môi trường xã hội có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do vậy, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” nói chung và chống các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng phải gắn với việc đẩy mạnh đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Việc đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là rất quan trọng, nó quyết định sự thành công hay thất bại trong phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Vì vậy cần phải làm thật tốt 4 vấn đề đã nêu trên để công cuộc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của chúng ta ngày càng đi vào chiều sâu và bảo đảm hiệu quả.
VŨ VĂN TỰ

“TẬP THỂ LÃNH ĐẠO VÀ CÁ NHÂN PHỤ TRÁCH CẦN PHẢI LUÔN LUÔN ĐI ĐÔI VỚI NHAU”

 

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Cách làm việc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách” (ký tên X.Y.Z), đăng trên Báo Sự Thật, số 100, ra ngày 23 tháng 9 năm 1948. Đây là một trong những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hơn 80 năm qua, nhờ thực hiện nguyên tắc này, Đảng ta đã phát huy trí tuệ của cán bộ, đảng viên trong Đảng đề ra đường lối cách mạng đúng đắn trong mỗi thời kỳ, phát huy vai trò, trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên trong hoạt động thực tiễn, đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên giành được những thắng lợi có ý nghĩa to lớn.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung dân chủ. Cũng có thể nhìn nhận, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách vừa là một nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vừa là một nội dung, một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách góp phần xây dựng Đảng vững mạnh trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Do đó, phải hiểu và làm đúng, đầy đủ toàn diện nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho mọi cấp ủy đảng, nhất là trong bối cảnh hiện nay.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội luôn quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc, thống nhất nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, góp phần xây dựng tổ chức đảng các cấp trong sạch vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, lãnh đạo đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Mọi công việc trong cơ quan, đơn vị đều phải được bàn bạc tập thể trong cấp ủy, chỉ huy các cấp, nhằm phát huy dân chủ, tạo sự thống nhất cao trong cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Mỗi lĩnh vực công tác do một cấp ủy viên hoặc người chỉ huy phụ trách chỉ đạo, tham mưu, đề xuất với tập thể cấp ủy, chỉ huy cho ý kiến, từ đó trở thành chủ trương của cấp ủy, chỉ huy đơn vị mới triển khai thực hiện. Mặt khác, mỗi cá nhân phải làm tốt trách nhiệm được phân công để lĩnh vực họ phụ trách được tốt, nên vai trò cá nhân phụ trách cũng vô cùng quan trọng sau khi có nghị quyết về lĩnh vực họ phụ trách. Đồng thời mỗi cá nhân phải báo cáo kết quả công tác lĩnh vực mình phụ trách cho tập thể để mọi người tham gia ý kiến góp trí tuệ cho mình. Đây cũng là thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu; chống mọi biểu hiện độc đoán, gia trưởng, áp đặt ý kiến cá nhân, hoặc nể nang, né tránh, dựa dẫm vào tập thể.
QĐND

ĐỪNG ĐỂ TÂM HỒN TREO NGƯỢC CẢNH CÂY...


Trong bài thơ “Là thi sĩ”, tặng các nhà thơ Việt Nam, ra đời năm 1942, nhà thơ Sóng Hồng (bút danh của đồng chí Trường Chinh) đã truyền thông điệp rằng: Nếu thi sĩ “Để tâm hồn treo ngược ở cành cây… Chìm đắm ở thương hoa và tiếc ngọc…” thì đó là tai ương, chướng họa của nhân quần.
Tám thập kỷ trôi qua, soi rọi vào hiện thực cuộc sống và công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, tư tưởng và thông điệp ấy vẫn vẹn nguyên tính thời sự…
Tư duy “nổi loạn” và những hệ lụy
Thời gian gần đây, trên một số diễn đàn văn học, nhất là tài khoản cá nhân của nhiều nhà văn trên mạng xã hội, đã chia sẻ thông tin, bình luận về những cuốn sách mới xuất bản của một số tác giả. Phần lớn những cuốn sách này không có gì nổi trội, nhiều tác giả còn rất xa lạ với bạn đọc. Điều gây chú ý đối với dư luận là những lời tán dương về sự “nổi loạn” của tác giả, tác phẩm.
Thực ra, “nổi loạn” không phải là thuật ngữ xa lạ, mới mẻ. Nó xuất hiện trong đời sống văn học-nghệ thuật lâu nay như một kiểu hội chứng dị biệt và được không ít người cổ xúy, tung hô như là một sự đột phá, sáng tạo, phá cách. Nói về sự “nổi loạn” trong tác phẩm văn học-nghệ thuật, đó có thể là một kiểu nhân vật có tính cách “nổi loạn”, các kiểu lập ngôn “nổi loạn”, hay một khuynh hướng sáng tác “nổi loạn”… Và tất cả đều bắt nguồn từ tư duy “nổi loạn” của người sáng tạo. Khách quan mà nói, không phải tất cả phong cách “nổi loạn” đều mang hàm ý xấu, tiêu cực. Có những sự “nổi loạn” về nghệ thuật tu từ, về xây dựng tính cách nhân vật được tác giả sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật để tạo sự khác biệt, điển hình, làm nổi bật tư tưởng, nội dung tác phẩm, được giới chuyên môn và công chúng đánh giá cao. Tuy nhiên, không ít người lại cố tình “nổi loạn” hoặc lấy cớ “nổi loạn” để cho ra đời những sản phẩm gây hại. Người thì muốn “nổi loạn” để tạo sự khác biệt, gây chú ý. Người lại thích “nổi loạn” như một kiểu bắt chước, học đòi. Và cái sự “nổi loạn” được nhắc đến nhiều trong thời gian qua chính là dục tính trong tác phẩm. Người ta gọi đó là “dâm thư” (sách khiêu dâm). Ở đây, chúng tôi không bàn sâu về học thuật, bởi đó là phần việc của các nhà phê bình. Xét trên phương diện “nghệ thuật vị nhân sinh”, soi rọi vào hiện thực đời sống xã hội thì thấy rõ, sự “nổi loạn”, lệch chuẩn, loạn chuẩn trong sáng tác văn học-nghệ thuật hiện nay chính là biểu hiện tiêu cực, một dạng của suy thoái tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống trong một bộ phận văn nghệ sĩ.
Những tác phẩm có tính chất “nổi loạn” kiểu này hoàn toàn không có tác dụng gì trong việc bồi đắp đời sống văn hóa tinh thần cho công chúng ngoài việc gây tò mò, kích thích lối sống trụy lạc, ru ngủ thanh niên… Từ sự “nổi loạn” trong tác phẩm văn học-nghệ thuật đến hành vi nổi loạn của con người trong đời sống xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bởi văn học-nghệ thuật có chức năng giáo dục thẩm mỹ, định hướng lối sống cho công chúng. Những cuốn “dâm thư” và những sản phẩm nghệ thuật lấy việc mô tả trần trụi cảnh sinh hoạt tình dục của con người trong các mối quan hệ ma mị, ma quái, kinh dị… có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn hóa tinh thần của công chúng. Nó làm cho lớp trẻ bị ru ngủ, say sưa trong ý tưởng hoan lạc, phó thác cuộc đời cho số mệnh, thủ tiêu ý chí phấn đấu, thui chột động lực phát triển, bàng quan với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh… Đó chính là những biểu hiện của suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống trong văn học-nghệ thuật. Thực trạng này đã được Đảng ta chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), đó là: “Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ xúy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc…”. Mặc dù đã được nhắc đến nhiều, nhưng những biểu hiện lệch lạc ấy vẫn chưa được khắc phục. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Những yếu kém, bất cập nêu trên chậm được giải quyết mặc dù đã được nhắc đi, nhắc lại trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng. Sự yếu kém, khuyết điểm này đã gây hệ luỵ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội, đến xây dựng con người và môi trường văn hóa của chúng ta”…
Coi trọng đào tạo, giáo dục lý luận chính trị cho văn nghệ sĩ
Trong lần trao đổi với một nhà văn đàn anh nổi tiếng ở TP Hồ Chí Minh, chúng tôi được anh thẳng thắn chia sẻ rằng, cái mà một số người cho là “nổi loạn” ấy, thực ra là một sự bất lực về tài năng và mù mờ về ý tưởng sáng tạo. Do nghèo nàn ý tưởng sáng tạo và dao động về tư tưởng nên nhà văn khó tìm lối đi riêng, đành “để tâm hồn treo ngược ở cành cây”, thoát ly hiện thực, tưởng tượng ra những hình thức dục tính lập dị, ma quái để giật gân, câu khách. Thông điệp cảnh tỉnh của nhà thơ Sóng Hồng từ 8 thập kỷ trước vẫn vẹn nguyên giá trị trong đời sống văn hóa, văn học-nghệ thuật hôm nay: “…Thì bạn hỡi một nhà thơ như rứa/ Là tai ương, chướng họa của nhân quần/ Nhọc tơ lòng mà phí cả ngày xuân/ Để ca ngợi bất công và tàn ngược…”. Trong xu thế hội nhập, hơn lúc nào hết, khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, xã hội phồn vinh đang được Đảng, Nhà nước ta đề cao, trở thành xu thế tất yếu của hành trình phát triển. Trong bối cảnh đó, nếu một bộ phận không nhỏ văn nghệ sĩ “Để tâm hồn treo ngược ở cành cây…”, ngụp lặn trong ngôn ngữ dung tục và tư duy “nổi loạn”, kích thích lối sống ẩn mình, ích kỷ, thực dụng, trao gửi số phận cuộc đời cho “mộng ái cao siêu”, đi ngược lại xu thế thời đại… thì đó là hành vi trái đường lối, quan điểm của Đảng. Sự lệch chuẩn ấy lại được cổ xúy, tung hô bằng kiểu lập ngôn “nổi loạn” của không ít người viết phê bình, thì sự nguy hại đối với đời sống văn hóa tinh thần của xã hội càng lớn.
Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam…”.
Như vậy, những biểu hiện, khuynh hướng hay trào lưu sáng tác tác phẩm văn học-nghệ thuật với lối tư duy “nổi loạn”, lệch chuẩn, cần phải kịp thời có giải pháp chấn chỉnh, khắc phục. Đặt trong mối quan hệ với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái… thì chúng ta cần nhất quán quan điểm lấy xây để chống. Đầu tiên và trên hết là phải khơi thông tư tưởng, xóa bỏ định kiến ngay trong tư duy sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ. Cần thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, yếu kém trong công tác đào tạo, giáo dục lý luận chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ văn nghệ sĩ, như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra: “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức…”. Rõ ràng, những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống trong môi trường văn học-nghệ thuật, bên cạnh yếu tố chủ quan do bản lĩnh, lập trường, tư duy cá nhân của một bộ phận tác giả, còn có nguyên nhân hết sức quan trọng là công tác giáo dục lý luận chính trị chưa được coi trọng đúng mức. Khiếm khuyết này dẫn đến một bộ phận văn nghệ sĩ hạn chế về tư duy lý luận, tư tưởng dao động, ngả nghiêng, bắt chước phong cách nước ngoài một cách tự nhiên chủ nghĩa. Để khắc phục những hạn chế trong công tác đào tạo, giáo dục lý luận chính trị trong đội ngũ văn nghệ sĩ, trách nhiệm trước hết thuộc về tổ chức đảng trong các cơ quan chủ quản, các tổ chức hội, đoàn, cơ quan tuyên giáo các cấp…
Sinh thời, Bác Hồ đã dạy: “Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thực sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp…”(1).
Thấm nhuần lời dạy của Bác, Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 tiếp tục nhấn mạnh việc “Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa, văn học-nghệ thuật. Đội ngũ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp văn hóa nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng nói chung…”.
Gắn chặt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn hệ thống chính trị, trọng tâm là phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vào môi trường văn học-nghệ thuật, chúng ta cần nhất quán quan điểm: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa là mục tiêu, động lực, vừa là đề tài sáng tạo của văn nghệ sĩ. Đó cũng chính là cách để mỗi văn nghệ sĩ không để tâm hồn “treo ngược cành cây”, đặt mình đúng vị trí trong xu thế thời đại với cảm hứng chủ đạo là khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh.

TIẾP TỤC KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ TO LỚN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA DÂN TỘC


Từ việc nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch về Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta càng cần phải tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc để tiếp thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như vận mệnh và tương lai của đất nước.
Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Từ khi thành lập đến nay, suốt hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thủ thách để đạt được những thành quả cách mạng to lớn. Đó là thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược và đặc biệt nhất là những thành công to lớn của 35 đổi mới đất nước. Thực tế phát triển đất nước qua hơn 35 năm đổi mới đã cho thấy, Việt Nam từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; mọi mặt đời sống của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đây là một sự thật lịch sử đã được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ghi nhận và nhân dân Việt Nam tôn vinh chứ không phải giống như những luận điệu vu cáo của các thế lực thù địch: “Đảng tự vinh danh, tự đeo vòng nguyệt quế vào cổ cho mình quyền cầm đầu nhân dân”(12). Những thành tựu rất quan trọng của đất nước trong thời gian qua là cơ sở khách quan để khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu đó cũng ngày càng khẳng định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc đúng như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã khẳng định trong Diễn văn Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/2020): Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thứ hai, có thái độ khách quan, công tâm khi nhìn nhận những khuyết điểm, thiếu sót của Đảng trong quá trình lãnh đạo đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót do giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Tuy nhiên, như một thông lệ không thể thiếu, trước mỗi kỳ Đại hội Đảng, nhất là kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, khi đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội qua một nhiệm kỳ, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, “tôn trọng hiện thực khách quan”, Đảng ta luôn thẳng thắn nhìn nhận những sai lầm, khuyết điểm. Đảng ta coi những sai lầm, khuyết điểm là yêu cầu, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới, nhân dân phải tiếp tục đồng lòng để vượt qua những khó khăn, thử thách. Điều này được khẳng định rõ trong Báo cáo tổng kết chặng đường 30 năm đổi mới của Đảng: “Những hạn chế, khuyết điểm đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa”.
Nhìn nhận lại những chủ trương của Đảng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian qua thông qua những Nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (năm 2012), Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (năm 2016), có thể nhận thấy tinh thần nghiêm túc trong tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn, giữ vững bản chất cách mạng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc. Đây không phải là sự “chắp vá”, “giật gấu vá vai” như những luận điệu mà các thế lực thù địch vẫn rêu rao mà nó thể hiện quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng trong việc “tự sửa mình” và đào tạo, huấn luyện cán bộ, đảng viên. Do đó, cần có thái độ khách quan, công tâm khi xem xét những sai lầm, khuyết điểm của Đảng. Cần tránh cả hai xu hướng xem nhẹ, bỏ qua những khiếm khuyết hoặc tuyệt đối hóa, thổi phồng những khuyết điểm bởi cả hai xu hướng này hoặc là dẫn đến thái độ chủ quan, lơ là; hoặc dẫn đến thái độ cực đoan, bất mãn. Sai lầm, khuyết điểm của Đảng, nhất là của một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong thời gian qua là một bài học đắt giá cho công tác xây dựng Đảng nhưng không vì thế mà đánh đồng với đóng góp của biết bao thế hệ đảng viên với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Cũng không vì thế mà đưa ra những lời rêu rao theo kiểu chụp mũ, vô căn cứ là “không ai muốn sống ở Việt Nam”, “những kẻ lắm tiền, nhiều của là thành phần cán bộ có chức có quyền đã tìm mọi cách đem gia đình chạy khỏi Việt Nam sau khi đã vơ vét đầy túi”.
Thứ ba, tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lòng dân của ĐCSVN.
Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là sự kế thừa các bản Hiến pháp trước đó như Hiến pháp năm 1980, năm 1992 đồng thời thể hiện ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn hợp hiến và hợp pháp. Hơn nữa, chính nhân dân Việt Nam đã tin tưởng lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất sự nghiệp cách mạng trong suốt thời gian qua.
Hơn nữa, mối quan hệ của Đảng với Nhân dân là mối quan hệ máu thịt bởi Đảng vì Nhân dân là phấn đấu, tôi luyện, trưởng thành, lấy hạnh phúc cho Nhân dân là mục tiêu phấn đấu; ngược lại, Nhân dân cũng luôn vững tin theo Đảng, cùng chung tay giúp sức xây dựng và chỉnh đốn Đảng, sát cánh bên Đảng để vượt qua những khó khăn. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và Nhân dân chính là nguồn gốc sức mạnh và nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Do đó, “luận điệu phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội của các thế lực thù địch là hoàn toàn trái với nguyện vọng, sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân Việt Nam. Mọi công dân Việt Nam cần nêu cao cảnh giác, không mắc mưu kẻ địch phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội của chúng ta”.
Như vậy, nhận diện các quan điểm sai trái về Đảng Cộng sản Việt Nam để chúng ta - những người cộng sản luôn cảnh giác trước những luận điệu công kích, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Quan trọng hơn nữa, chúng ta cũng có dịp nhìn lại hành trình hơn 90 năm ra đời và phát triển của Đảng, cảm thấy tự hào về những thành tựu to lớn, nổi bật của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời không được chủ quan, lơ là trước những sai lầm, khuyết điểm để có ý thức xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch về Đảng Cộng sản Việt Nam để mỗi đảng viên thêm vững tin vào Đảng, luôn trọn một niềm tin theo Đảng, cùng sát cánh bên Đảng để vượt qua những khó khăn, thử thách nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên những chặng đường tiếp theo.