Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022
CÓ LÍNH NƯỚC NÀO NHƯ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM!
NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA KẺ THÙ TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG - VĂN HÓA!
Những vấn đề cơ bản về biến đổi xã hội
Cũng giống như trong tự
nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định
của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng thay đôi bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền
đến đâu cũng luôn biến đổi. Sự biến đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn,
nhanh hơn, đa dạng, phức tạp hơn. Biến đổi xã hội là quá trình xã hội trong đó các yếu tố cấu thành xã hội
và cả hệ thống xã hội thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác[1]. Biến
đổi xã hội là hiện tượng phổ biến. Bất kỳ một sự thay đổi nào ở thành phần và
cấu trúc của xã hội đều được gọi là biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội diễn ra ở
quy mô, cấu trúc và thành phần của xã hội như nhóm xã hội, vị thế xã hội, văn
hóa, mạng lưới xã hội và toàn bộ hệ thống xã hội mà các yếu tố này tạo nên.
Cùng với chiều cạnh cấu trúc, hệ thống
xã hội còn có chiều cạnh thời gian: bât kỳ sự biến đổi nào cũng diễn ra trong
khung thời gian nhất định và có thể là tạm thời, ngắn gọn hoặc bên vững lâu
dài. Sự biến
đổi xã hội có thể diễn ra một cách tuần tự, từ từ theo quy luật tiến hóa hoặc
diễn ra một cách mạnh mẽ, đột ngột dưới tác động của các cuộc cách mạng xã hội.
Sự biến đổi có thể theo chiều hướng tiến bộ, với đặc trưng là trạng thái tiếp
theo đạt tới mức hoàn thiện cáo hơn trạng thái trước đó. Cũng có thể biến đổi
xã hội theo chiều hướng suy thoái, với biểu hiện là trạng thái tiếp theo kém
hơn trạng thái trước đó[2]. Biến đổi xã hội là hiện tượng phổ
biến, nhưng nó diễn ra không giống nhau giữa các xã hội. Biến chuyển xã hội có
một số đặc trưng như sau: (i) Diễn ra trong những môi trường, các không gian xã
hội khác nhau; (ii) Tốc độ và tính chất khác nhau; (iii) Biến đổi xã hội cũng
diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau; (iv) Vừa có tính tự giác, nhưng cũng
mang tính phi kế hoạch, có những biến đổi người ta lường trước, nhưng có những
thay đối con người không thể lường được; (v) Biến đổi xã hội vừa mang kết quả
tốt, nhưng cũng mang lại nhiều hậu quả xấu; (vi) Có những biến đổi diễn ra
trong thời gian ngắn, nhưng cũng có những biến đổi xã hội diễn ra thời gian rất
lâu.
Quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm “quản lý phát triển xã hội”
lần đầu tiên được đưa văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, thể hiện
cách tiếp cận mới trong quản trị đất nước. Điều này xuất phát từ nhu cầu quản
lý phát triển xã hội chưa đồng bộ với quản lý phát triển các phân hệ - lĩnh vực
khác của đời sống; xuất phát từ tính đăc thù của lĩnh vực xã hội không hoàn
toàn áp dụng các phương pháp quản lý hành chính, hay tuân theo quy luật của thị
trường đầy đủ, mà bị chi phối rất lớn của các thể chế phi chính thức. Quản lý
phát triển xã hội là một cấu trúc đa dạng, ở chiều cạnh này có khi bị điều
chỉnh bởi thề chế chính thức, còn ở chiều cạnh khác lại chịu điều chỉnh các thể
chế phi chính thức; có chiều cạnh mang nội dung kinh tế chiu điều chỉnh bởi
quan hệ thị trường không đầy đủ, nhưng nội dung khác lại mang tính phi kinh tế
chịu điều chỉnh bởi giá trị văn hóa, đạo đức. Chủ thể quản lý phát triển
xã hội rất đa dạng, gồm: Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng và nhân dân. Trong đó,
Nhà nước là chủ thể quan trọng, có trách nhiệm hoạch định thể chế, chiến lược,
kế hoạch cho phát triển xã hội; bảo đảm cho mọi thành viên xã hội bình đẳng
trong tiếp cận nguồn lực và phát huy cao nhất năng lực của minh; điều tiết các
mất cân đối do thị trường tạo ra; trực tiếp chăm lo và dẫn dắt ở những khâu mà
thị trường không làm; hỗ trợ phát triển các đối tượng, cộng đồng, vùng, miền
thua thiệt về cơ hội phát triển; khuyến khích tư nhân và cộng đồng tham gia
phát triển xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau. Các tổ chức chính trị-xã hội, nghề nghiệp và tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng đa dạng khác là chủ thể nòng cốt của quản lý phát
triển xã hội. Nhân dân là chủ thể quyết định của
quản lý phát triển xã hội. Đối tác của các chủ thể quản lý phát triển xã hội là
doanh nghiệp, các tổ chức cung ứng vụ xã hội và gia đình. Về phương thức, quản lý phát triển xã hội rất đa dạng, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, mục tiêu và thực tiễn
của quản lý xã hôi Do tính đa dạng của chủ thể và đối tác tham gia đã dẫn tới
sự đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho quản lý phát triển xã hội. Từ sự đa dạng hóa chủ thể, đối
tác tham dự và nguồn lực tài chính tất yếu phải đa dạng hóa phương thức tổ chức
quản lý phát triển xã hội. Về nội dung, bản chất của quản lý phát triển xã hội phải thật sự
bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi nhân dân là chủ thể
phát triển xã hội và quyền làm chủ đó được tôn trọng và bảo vệ; gia đình là tế
bào xã hội phải hòa thuận, cộng đồng hài hòa; môi trường xã hội an toàn, lành
mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội cống hiến và hưởng thụ thành quả
của sự phát triển. Về mục tiêu, quản lý
phát triển xã hội phải thể hiện được tinh thần tự đổi mới, tự hoàn thiện, củng
cố, phát triển; theo dõi biến đổi cấu trúc giai tầng xã hội để điều chỉnh; tạo
sự đồng thuận xã hội thông qua giải pháp đối thoại, thương lượng; dân chủ hóa;
tăng cường kỷ cương pháp luật; đề cao trách nhiệm của nhân dân là chù thể phát
triển xã hội, là nền tảng để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Về chức năng, quản lý
phát triển xã hội bao gồm năm chức năng quản lý, đó là: hoạch định, tổ chức,
chỉ đạo, kiểm tra và điều chỉnh.
Quản lý xã hội ở Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức sớm về
tiến bộ xã hội và công bằng xã hội trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước. Quan điểm “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển” ngày càng được hoàn thiện thông qua các kỳ Đại hội Đảng
từ khóa VIII năm 1996 đến nay. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986-2016) nhận định: Đảng đã nhận thức ngày càng cụ thể và đầy đủ hơn tầm
quan trọng, mục tiêu và nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội, đặc
biệt là an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.. Nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển; vai trò của chính sách xã hội, sự thống nhất và kết
họp hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được các thành tựu nồi
bật về phát triển xã hội, đặc biệt trong xóa đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục
phổ thông, dân số và sức khỏe... Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu
trong thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), hoàn thành nhiều
chỉ tiêu quan trọng của các mục tiêu phát triển xã hội. Đặc biệt là đã thực
hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện
nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
Đến
năm 2016, Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định các mục tiêu phát triền bền vững trong Chương trình nghị sự 2030 là một
thành tố quan trọng của nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đa hóa đất nước.
Thứ Năm, 29 tháng 9, 2022
Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) được Liên hợp quốc công bố cho giai đoạn 2000- 2015 là mục tiêu phát trển chung của nhân loại
Tám mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ (MDGs) được Liên hợp quốc công bố cho giai đoạn 2000- 2015 đã trở
thành mục tiêu phát triển chung cho gần 200 quốc gia trên thế giới. Trong đó có
sáu trên tám (từ 1 đến 6) mục tiêu trực tiếp liên quan đến phát triển xã hội,
một mục tiêu về môi trường và một mục tiêu liên quan đến quản trị toàn cầu đối
với phát triển.
Tám mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, giai đoạn
2000-2015 như sau:
Mục tiêu 1. Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu
đói
Mục tiêu 2. Phổ cập giáo dục tiểu học
Mục tiêu 3. Tăng cường bình đẳng nam - nữ và nâng
cao vị thế phụ nữ
Mục tiêu 4.
Giảm tử vong trẻ em .
Mục tiêu 5. Tăng cường sức khỏe bà mẹ
Mục tiêu 6. Phòng, chống HIV/AIDS, sốt
rét và các dịch bệnh nguy hiểm
Mục tiêu 7. Đảm bảo bền vững môi trường
Mục tiêu 8. Thiết lập mối quan hệ toàn cầu vì phát
triền
Năm 2015, Liên hợp quốc tiếp tục công bố các mục
tiêu phát triển bền vững (SDGs) cho
Chương trình nghị sự 2030. Mười bảy mục tiêu
này đã bao quát toàn diện hơn các vấn đề xã hội đang gây cản trở phát triển như
nghèo đói (mục tiêu 1, 2), các tiến trình xã hội mang tính lâu dài mà các quốc
gia phải đối mặt như: bất bình đẳng xã hội (mục tiêu 10), các hành vi xã hội
như tiêu dùng (mục tiêu 12) và phương thức, cơ chế quản lý phát triển xã hội
hiệu quả.
Mười bảy mục tiêu phát triển bền vững, giai đoạn đến năm 2030 như sau:
Mục tiêu 1. Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi
Mục tiêu 2. Xóa đói,
bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dường và thúc đẩy phát triển nông
nghiệp bền vững
Mục tiêu 3. Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng
cường phúc Jsjch0 mọi người ở mọi lứa tuổi
Mục tiêu 4. Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công
bằng toà Ị diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người
Mục tiêu 5. Đạt được bình đẳng giói; tăng quyền và
tạo cơ hội ch phụ nữ và trẻ em gái
Mục tiêu 6. Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài
nguyê nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người
Mục
tiêu 7. Đảm bảo khả năng tiếp cận nguòn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho
tất cả mọi người
Mục
tiêu 8. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện liên tục; tạo việc làm đày đủ, năng suất và
việc làm tốt cho tất cả mọi người
Mục tiêu 9. Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống
chịu cao thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường
đổi mới
Mục tiêu 10. Giảm bất bình đẳng trong xã hội
Mục tiêu 11. Phát triển đô thị, nông thôn bền vững,
có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn- phân bố
hợp lý dân cư và lao động theo vùng
Mục tiêu 12. Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững
Mục tiêu 13. ứng phó kịp thòi, hiệu quả với biến đổi
khí hậu và thiên tai
Mục tiêu 14. Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương,
biển và nguồn lọi biển đế phát triển bền vững
Mục tiêu 15. Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo
tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn
chặn suy thoái và phục hòi tài nguyên đất
Mục tiêu 16. Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công
bầng, bình đẳng, văn minh vi sự phát triển bền vững, tạo khá năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp
Mục tiêu 17. Tăng cường phương thức thực hiện và thúc
đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững.
Mục tiêu phát triển xã hội toàn cầu hiện nay
Trong một thời gian dài, quản lý xã hội vốn được
hiểu là một chức năng của Nhà nước đối với các lĩnh vực xã hội
(không phải là kinh tế hay an ninh quốc phòng) như: văn hóa, thể thao,
việc làm, dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo hiểm và an sinh xã
hội. Quản lý xã hội theo nghĩa này gắn liền với việc lập kế hoạch
và tổ chức thực hiện các hoạt động hướng tới mục tiêu cụ thể của từng lĩnh vực. Ví dụ: đảm bảo tỷ lệ có việc làm; mức độ bao phủ của bảo hiểm xã
hội tự nguyện...Quá trình
hiện đại hóa và toàn cầu hóa đưa đến nhận thức về sự không đồng bộ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển xã hội. Trong nhiều trường hợp, tăng trường kinh
tế để lại hậu quả nặng nề về môi trường và xã hội, về xã hội, đó là bất bình
đẳng trong hường thụ thành quả tăng trưởng kinh tế, phân hóa và phân cực xã
hội, thiếu việc làm và thất nghiệp, xói mòn các giá trị đạo đức văn hóa, mất
niềm tin vào xã hội và tương lai cũng như các vấn đề xã hội mang tính toàn cầu
như di cư, tị nạn chiến tranh và nhân đạo, bệnh dịch xã hội, tội phạm xuyên
biên giới...Trong bối cảnh đó, sự phát triển của một quốc gia nói riêng và thế
giới nói chung, đã và đang được nhìn nhận lại từ hệ quy chiếu mới về phát triển
bền vững trên cả ba chiều cạnh: kinh tế - xã hội - môi trường (Báo cáo tương lai chung của chúng ta, ủy ban
Liên hợp quốc về môi trường và phát triển thế giới - WCED năm 1987). Các thể
chế quản trị quốc gia cũng có những thay đổi mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững, đưa người dân thành chủ thể trung tâm của phát triển. Liên hợp quốc nhìn nhận phát
triển xã hội một cách rộng nhất là quá trình chuyển đổi
dẫn đến sự cải thiện cuộc sổng con người, cải thiện các quan hệ xã hội và thể
chế xã hội hướng đến tính bình đẳng, bền vững và phù hợp với các nguyên lý về quản trị dân chù và công bằng xã hội. Theo nghĩa rộng nhất này, phát
triển xã hội một mặt bao gồm các thành tựu trong các lĩnh vực xã hội như: giáo
dục, y tế, tiếp cận thông tin... mặt khác là những thành tựu về quan hệ xã hội
và thể chế xã hội nhằm đảm bảo an ninh, phẩm giá và sư hòa nhập của con người
với xã hội. Trong
thực tiễn lãnh đạo, quản lý, có thể sử dụng cách tiếp cận hẹp hơn về phát triển
xã hội để giúp định hướng và lập kế hoạch cho các mục tiêu: Xác định các lĩnh
vực quan trọng trong phát triển xã hội, nội dung và vai trò của chúng đối với
phát triển xã hội; phân tích điểm yếu, điểm mạnh trong từng lĩnh vực hoạt động
xã hội cụ thể, từ đó xây dựng chiến lược phát huy điểm mạnh,
khắc phục hoặc hạn chế điểm yếu để tiếp tục phát triển. Đây là quan niệm về
phát triển xã hội phổ biến nhất, có tính thực tiễn cao, vì nó chỉ ra Nhà nước
và các chủ thể có liên quan khác cần làm gì, khi nào, ở đâu và sử dụng nguồn
lực gì. Các quốc gia đều có các chiến lược phát triển xã hội được trình bày
theo hình thức liệt kê các lĩnh vực ưu tiên.
NẮM VỮNG NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI
Hiện nay đang có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý xã hội: Quản lý xã hội là những tác động có ý thức của con người vào xã hội nhằm sắp xếp và duy trì các phẩm chất đặc thù của xã hội, để đáp ứng sự tồn tại và phát triển của xã hội trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quản lý xã hội là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của chủ thể quản lý xã hội lên xã hội và các khách thể có liên quan, nhằm duy trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng và các mục tiêu mà các chủ thể quản lý đặt ra phù hợp với xu thế phát triển khách quan của lịch sử. Tổng hợp một số quan điểm như vừa nêu, có thể định nghĩa như sau: Quản lý xã hội là sự tác động có định hướng, có tổ chức của các chủ thể nhà nước và xã hội đến các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm mục tiêu phát triển xã hội hài hòa và bền vững.
Quản lý xã hội về bản chất
là hoạt động quản lý, có chức năng
định hướng, điều chỉnh các hành vi, hoạt động của các thành phần xã hội và toàn
xã hội nhằm đảm bảo phát triển bao trùm, bền vững. Ngoại diên của khái niệm quản lý xã hội nhỏ hơn so với phạm vi của quản
lý nói chung. Nếu cả xã hội được chia ra thành 3 bộ phận: Bộ phận chính trị, bộ
phận kinh tế và bộ phận xã hội, thì quản lý xã hội chủ yếu đề cập đến việc quản
lý lĩnh vực xã hội của hoạt động xã hội. Chủ thể quản lý: Quản lý xã hội được
thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Một mặt, Nhà nước trực tiếp thực hiện các hoạt động quản lý theo thẩm quyền,
chức năng của mình; mặt khác, kiến tạo môi trường, thể chế để các chủ thể khác
(mà chủ yếu là các đoàn thể, các tổ chức xã hội khác nhau, các cá nhân và doanh
nghiệp) chủ động tham gia quản lý xã hội. Các mối quan hệ quản lý giữa các cơ
quan quản lý đa cấp, đa dạng có thể khác nhau trong các khu vực khác nhau.; Ví
dụ, một tổ chức trong trường hợp này là chủ thể quản lý, nhưng trong trường hợp
khác là đối tượng bị quản lý. Khách thể quản lý: là con người, cộng đồng, các
quan hệ xã hội, hoạt động xã hội, cấu trúc xã hội, chức năng xã hội. Phương tiện quản lý: Phương tiện cơ bản của hệ thống quản lý xã hội bao gồm các chuẩn mực xã
hội, không chỉ là các chuẩn mực cứng như luật, lệ, quy định, chính sách mà còn
cả các chuẩn mực mềm như đạo đức, giá trị. Đối với Đảng và Nhà nước thì pháp
luật, quy định, chính sách là những phương tiện chính yếu của quản lý xã hội;
tuy nhiên cũng không nên bỏ qua các chuẩn mực mềm. Mục đích và nhiệm vụ: Quản lý xã hội có rất
nhiều mục tiêu và nhiệm vụ khác nhau, đó là: duy trì trật tự xã hội, điều chỉnh
hành vi xã hội, thúc đẩy sự hài hòa xã hội và giải quyết các xung đột xã hội,
giải quyết các vấn đề xã hội, đối phó với rủi ro xã hội và làm giảm các mâu
thuẫn xã hội, kiểm soát xung đột xã hội, làm cầu nối giữa các khác biệt xã
hội.. .Trong số đó, giải quyêt xung đột xã hội và duy trì trật tự xã hội là mục
tiêu và nhiệm vụ bao trùm của quản lý xã hội. Thiết chế xã hội trong quản lý xã
hội: Chính trị, kinh tế, pháp luật, gia đình, văn hóa, giáo dục, tôn giáo,
truyền thông, dư luận xã hội.
KHÔNG PHẢI LÀ TRẠNG THÁI PHÒNG VỆ TƯỞNG TƯỢNG
“TẬP THỂ LÃNH ĐẠO VÀ CÁ NHÂN PHỤ TRÁCH CẦN PHẢI LUÔN LUÔN ĐI ĐÔI VỚI NHAU”