Thứ Tư, 31 tháng 1, 2024

Một số giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động tư tưởng, lý luận trên không gian mạng

 


Không gian mạng có đặc điểm là dung lượng thông tin lớn, tốc độ truyền tải nhanh, vừa có độ bao phủ rộng khắp, vừa tương tác thông tin mạnh, tức thời. Trong thời đại internet thì mỗi một người chính là một IP; trong thời đại internet vạn vật thì mỗi một vật phẩm là một IP; trong thời đại trí tuệ nhân tạo thì mỗi một người máy cũng là một IP. Sự phát triển của công nghệ mới đang phá bỏ liên tục những ranh giới, những biên giới của không gian mạng. Cùng với việc mở rộng không gian mạng và tính liên kết ngày càng cao thì các vấn đề của xã hội, của con người lại càng nhiều và càng phức tạp. Không gian mạng đang chiếm lĩnh không gian và thời gian thực của con người ngày càng nhiều, ảnh hưởng ngày càng lớn với tốc độ ngày càng nhanh, chính vì vậy nó ảnh hưởng sâu rộng và phức tạp đến lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay.

          Một là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, gắn lý luận với thực tiễn trên không gian mạng.

Không ngừng nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn cụ thể, đồng thời thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc rút và khái quát lý luận là yêu cầu đầu tiên, là nhiệm vụ căn bản. Trận địa tư tưởng cần vũ khí quan trọng nhất là vũ khí lý luận, song lý luận phải thật sự khoa học chứ không phải lý thuyết suông, lý luận phải xuất phát từ thực tiễn và mang hơi thở của cuộc sống, phải bao quát được những vấn đề nền tảng, có tính quy luật và đưa ra hướng giải quyết những vấn đề then chốt. Bất kể sự phát triển của không gian mạng và các phương tiện truyền thông như thế nào, thì suy nghĩ và quan điểm vẫn là thành tố quan trọng nhất của nội dung tư tưởng. Nếu không có nội dung, không có chiều sâu thì lý luận dù hay đến đâu cũng chỉ là hô khẩu hiệu, trống rỗng, không có bất kỳ ảnh hưởng tích cực nào. Chúng ta phải sử dụng lý luận làm nền tảng vững chắc cho định hướng chính trị và dẫn dắt dư luận. Trong trận địa tư tưởng trên không gian mạng, việc chúng ta có đứng vững và chiến thắng hay không liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Trước tình hình trong nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những biến động khó lường như hiện nay, không gian mạng trở thành công cụ nền tảng mới để giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; đồng thời, đó cũng là một không gian mới để đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, là một phương thức mới để định hướng dư luận xã hội về mặt tư tưởng. Đây thực sự là một mặt trận quan trọng và không thể buông lỏng. Do đó, cần giữ vững và không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác nghiên cứu lý luận, giáo dục chính trị, tư tưởng trên mặt trận trực tuyến.

Hai là, lấy dân làm gốc kết hợp với xây dựng đội ngũ làm công tác lý luận trên địa hạt không gian mạng.

Dù trong tình huống nào đi nữa, nhất là trên không gian mạng, chúng ta càng cần phải tuân thủ nguyên tắc “lấy dân làm gốc”, nghĩa là chúng ta cần cần có sự ủng hộ của những người quản trị , người điều hành , người điều tiết, người gây ảnh hưởng ,… cũng như của toàn thể cư dân mạng. Chúng ta cần phải luôn tôn trọng địa vị cao nhất của nhân dân, tin tưởng và dựa vào quần chúng nhân dân trên không gian mạng. Vấn đề cốt lõi của công tác tư tưởng trực tuyến là cách đối xử với quần chúng trên không gian mạng. Chúng ta nói lên tiếng nói của người dân, bênh vực nhân dân, đứng về phía quyền lợi của nhân dân thì nhân dân sẽ tin yêu chúng ta, bảo vệ chúng ta.

Định hướng tư tưởng bằng công tác lý luận không thể tách rời việc xây dựng đội ngũ những người làm công tác lý luận. Định hướng tư tưởng, lãnh đạo dư luận bằng chuyên gia và học giả là xu thế tất yếu. Mối quan hệ biện chứng giữa “xây” và “chống” chính là thể hiện ở đây. Những người làm công tác tư tưởng, lý luận trên không gian mạng đòi hỏi phải có tầm cao của tư tưởng, độ sắc nét của các nhận định, đánh giá và độ vững chắc của lý luận. Giống như Bác Hồ trước đây nói ai cũng hiểu, ai cũng thấm thía, những người làm công tác tư tưởng, lý luận cũng phải học theo phương pháp diễn ngôn đó. Nói một cách hình ảnh, lý luận không chỉ như một món ăn cầu kỳ dành cho khách sành ăn trong nhà hàng sang trọng, mà cần thiết hơn, nó còn phải là món ăn đường phố cho người lao động, món ăn hàng ngày trong mỗi gia đình. Những vấn đề lý luận mà quần chúng quan tâm cần được giải thích rõ ràng, cặn kẽ bằng ngôn ngữ của quần chúng; người làm lý luận phải nắm vững cách nói của quần chúng, sử dụng ngôn ngữ sinh động, gần gũi với nhiều hình thức đa dạng để dễ được quần chúng chấp nhận, để lý luận thực sự bén rễ và đi vào suy nghĩ,cũng như trở thành hành động cụ thể, thiết thực của người dân.

Ba là,truyền thông tư tưởng trên không gian mạng cần hay hơn, hấp dẫn hơn.

Thời đại thông tin ngày nay tạo ra những thay đổi lớn trong cấu trúc dư luận, thay đổi cách thức và phương tiện truyền thông, thậm chí còn tái tạo lại “hệ sinh thái” mới của nội dung. Trên không gian mạng, mọi người không muốn xem, nghe các bài viết một chiều.Trên không gian mạng, quyền lực của các tổ chức không tác động được đến cơ chế tiếp cận thông tin. Đồng thời, quan niệm truyền thông truyền thống lấy tin tức làm trung tâm đã dần thay đổi, chức năng giáo dục, chức năng tư tưởng của truyền thông ngày càng giảm đi, đồng thời các chức năng giao tiếp, chức năng giải trí ngày càng tăng lên. Nội dung thể hiện luận điểm của những người tham gia không gian mạng có xu hướng ngày càng ngắn lại, từ những cuộc tranh luận hàng trăm trang trên các diễn đàn trước kia, giờ đây được rút gọn, cá nhân hoá thành các bài dài trên trang cá nhân (blog), rồi rút ngắn hơn nữa ở các tút trên Facebook, rồi các thông điệp cực ngắn trên Twitter. Bản thân các video dài trên Youtube đã ngắn đi nhiều ở các nền tảng video khác, đặc biệt là ở TikTok với độ dài chỉ khoảng 15 giây. Với không gian mạng như vậy thì các bài nghiên cứu lý luận, các bài viết mang tính tư tưởng như hiện nay dường như dài và khô khan với cư dân mạng. Chính vì vậy, truyền thông tư tưởng trên không gian mạng muốn đạt hiệu quả thì thông tin cần phải thực sự hấp dẫn, thu hút và lấy được sự yêu thích của không chỉ đảng viên, mà cả của người dân, đặc biệt là giới trẻ./.

 

XUAN THUY-4.2021

 

 

 

Giải pháp Phòng, chống âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch phản động


            
Là một trong những nước XHCN còn lại đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, cho nên, Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược DBHB và không loại trừ khả năng tiến hành CMM để chống phá cách mạng nước ta. Một trong những thách thức đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta chỉ ra là: “Hoạt động “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch sẽ gia tăng. Các thế lực phản động tiếp tục sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào nội bộ ta”. Đây là nguy cơ lớn đối với sự ổn định và phát triển của đất nước.

Để phòng, chống DBHB và CMM của các thế lực thù địch, các cấp, các ngành, LLVT và toàn dân phải tỉnh táo trước những âm mưu thủ đoạn DBHB và CMM của các thế lực thù địch, phản động. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn các hoạt động chống Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động; đảm bảo an ninh chính trị nội bộ; phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra CMM trong mọi tình huống. Nâng cao ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, từ đó tham gia vào công tác phòng, ngừa, ngăn chặn làm thất bại ý đồ thực hiện CMM. 

Từng bước hạn chế, tiến tới loại bỏ các nguyên nhân, điều kiện có thể dẫn đến CMM ở nước ta. Trong đó tập trung giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” về an sinh xã hội như khiếu kiện, đình công, chủ động triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, kinh tế, tài chính, thông tin truyền thông, an ninh mạng, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tập hợp lực lượng, hình thành, công khai hóa tổ chức chính trị đối lập ở trong nước, tiến hành các hoạt động biểu tình, bạo loạn trên quy mô lớn nhằm thực hiện CMM ở Việt Nam.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn, vi phạm pháp luật, nhất là trong hàng ngũ cán bộ các cấp. Kiên quyết loại trừ các điều kiện hình thành tổ chức chính trị đối lập, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. 

Củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN. Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng hợp tác quốc tế tạo nền tảng, sức mạnh chính trị, phục vụ phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đảm bảo giải quyết triệt để mầm mống, nguy cơ CMM ở Việt Nam.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, do Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước XHCN quản lý, điều hành; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phòng, chống DBHB và CMM. Đây là một nguyên tắc chiến lược, quán triệt quan điểm tổng hợp trong lãnh đạo và tổ chức đấu tranh phòng, chống DBHB và CMM. Sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một đặc trưng bản chất và là một ưu thế vượt trội để giành chiến thắng trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Nhờ đó, chúng ta có thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ to lớn của các lực lượng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó khăn, thách thức và giành chiến thắng./.

 

Giải pháp Phòng, chống âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch phản động

 



            
Là một trong những nước XHCN còn lại đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, cho nên, Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược DBHB và không loại trừ khả năng tiến hành CMM để chống phá cách mạng nước ta. Một trong những thách thức đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta chỉ ra là: “Hoạt động “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch sẽ gia tăng. Các thế lực phản động tiếp tục sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào nội bộ ta”. Đây là nguy cơ lớn đối với sự ổn định và phát triển của đất nước.

Để phòng, chống DBHB và CMM của các thế lực thù địch, các cấp, các ngành, LLVT và toàn dân phải tỉnh táo trước những âm mưu thủ đoạn DBHB và CMM của các thế lực thù địch, phản động. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn các hoạt động chống Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động; đảm bảo an ninh chính trị nội bộ; phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra CMM trong mọi tình huống. Nâng cao ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, từ đó tham gia vào công tác phòng, ngừa, ngăn chặn làm thất bại ý đồ thực hiện CMM. 

Từng bước hạn chế, tiến tới loại bỏ các nguyên nhân, điều kiện có thể dẫn đến CMM ở nước ta. Trong đó tập trung giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” về an sinh xã hội như khiếu kiện, đình công, chủ động triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, kinh tế, tài chính, thông tin truyền thông, an ninh mạng, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tập hợp lực lượng, hình thành, công khai hóa tổ chức chính trị đối lập ở trong nước, tiến hành các hoạt động biểu tình, bạo loạn trên quy mô lớn nhằm thực hiện CMM ở Việt Nam.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn, vi phạm pháp luật, nhất là trong hàng ngũ cán bộ các cấp. Kiên quyết loại trừ các điều kiện hình thành tổ chức chính trị đối lập, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. 

Củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN. Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng hợp tác quốc tế tạo nền tảng, sức mạnh chính trị, phục vụ phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đảm bảo giải quyết triệt để mầm mống, nguy cơ CMM ở Việt Nam.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, do Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước XHCN quản lý, điều hành; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phòng, chống DBHB và CMM. Đây là một nguyên tắc chiến lược, quán triệt quan điểm tổng hợp trong lãnh đạo và tổ chức đấu tranh phòng, chống DBHB và CMM. Sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một đặc trưng bản chất và là một ưu thế vượt trội để giành chiến thắng trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Nhờ đó, chúng ta có thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ to lớn của các lực lượng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó khăn, thách thức và giành chiến thắng./.

 

Thứ Ba, 30 tháng 1, 2024

Đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng

 



 

Trước tình hình trong nước, thế giới và khu vực, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng Internet, các trang mạng xã hội để đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc, làm lẫn lộn đúng - sai, thật - giả; hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch; bôi nhọ, vu khống lãnh tụ, kích động bạo lực, lừa đảo trên mạng, đánh cắp thông tin.

Song do nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như tác hại của quan điểm sai trái, thù địch đối với xã hội còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan ban, ngành trong tuyên truyền và đấu tranh, phản bác còn mang tính hình thức, thụ động, chưa đa dạng, phong phú về nội dung, có nơi, có lúc còn thiếu sắc bén, tính thuyết phục chưa cao; việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại một số địa phương còn sơ hở, thiếu sót; việc giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện ở một số nơi còn chậm, kéo dài, vượt cấp, gây bức xúc trong nhân dân… là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng tuyên truyền các luận điệu sai trái, thù địch với nước ta.

Thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng 2 trang mạng xã hội là Facebook và Youtube để đăng, chia sẻ những thông tin sai trái, cơ hội chính trị lên không gian mạng Internet. Thủ đoạn thường được chúng sử dụng đó là dùng những tin, bài, những hình ảnh trên các báo chí chính thống của ta ở trong nước, sau đó viết lại, chỉnh sửa thành những nội dung bịa đặt hoặc định hướng sai lệch để đăng tải. Điều này thu hút sự quan tâm của người xem, người đọc trước những thông tin có nội dung giống với các thông tin chính thống, tạo cảm giác nửa tin, nửa ngờ và nếu không tìm hiểu, nghiên cứu kỹ sẽ bị tác động xấu bởi những thông tin xuyên tạc này. Ngoài ra, các đối tượng sử dụng trang Blog để nói xấu, chống phá Đảng, Nhà nước, khi nó kết hợp với mạng xã hội, các bài viết trên Blog được chia sẻ lên mạng xã hội tạo sức lan tỏa lớn.

Để  đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội hiện nay cần phải đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung thông tin chính thống, đảm bảo phong phú, đa dạng, nhiều cấp độ, tùy theo đối tượng để cung cấp, phổ biến, truyền tải. Đồng thời luôn xây dựng bản lĩnh vững vàng, có nhận thức đúng đắn, có sự suy xét khi tiếp cận những thông tin nhạy cảm, ở những thời điểm diễn ra các sự kiện mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng để xuyên tạc, chống phá. Loại bỏ những thông tin xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch ra khỏi không gian mạng bằng cách tạo môi trường trong sạch về thông tin. Đặc biệt, các cơ quan báo chí, truyền thông, các tổ chức đoàn thể và toàn thể nhân dân cần phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp chỉ rõ các quan điểm sai trái, vạch trần các âm mưu phản động thù địch, từng bước cô lập chúng trên mạng xã hội. Chủ động chia sẻ, lan tỏa những tin, bài, ảnh có nội dung tích cực, gương người tốt việc tốt trong học tập, công tác, lao động sản xuất, trong cuộc sống, sinh hoạt thường ngày... “lấy cái đẹp để dẹp cái xấu”. Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không tin theo, không truy cập và tán phát, chia sẻ những thông tin xấu độc, cũng là góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 


Để đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng, cần quan tâm đến 3 yếu tố cốt lõi là: con người, tổ chức và cơ chế hoạt động.

Về con người:

Lực lượng nòng cốt làm công tác này bên cạnh bản lĩnh chính trị, tư duy lý luận, am hiểu về công nghệ và kỹ năng truyền thông, cần phải rèn luyện “tinh thần thép” và có những nỗ lực vượt bậc. 

“Tinh thần thép” được hình thành dựa trên niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng của Đảng và nhân dân ta; vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng; có niềm tin vững chắc vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; thấy được những khó khăn trước mắt chỉ là tạm thời, những tiêu cực chỉ là hiện tượng xã hội; nêu cao lòng yêu nước, tính tiên phong, sẵn sàng nhận những nhiệm vụ mới, khó, lấy đó làm cơ hội để thử thách và trưởng thành, từ đó không chùn bước trong cuộc đấu tranh cho lẽ phải, cho chính nghĩa để bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ.

Các thế lực thù địch trên không gian mạng luôn ẩn danh, cuộc đấu tranh trên không gian mạng rất khó khăn, cam go, lâu dài, nên mỗi cán bộ, đảng viên cần giữ vững bản lĩnh chính trị, say mê lao động, không ngừng nghiên cứu, học tập, cập nhật những vấn đề lý luận và thực tiễn để có nền tảng lý luận vững vàng, không bị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm tốt vai trò sứ giả truyền cảm hứng cho chính đội ngũ của mình và lan tỏa đến người đọc trong công tác thông tin, tuyên truyền định hướng dư luận xã hội.

Về tổ chức:

Tích cực xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức, phát triển lực lượng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng do ban chỉ đạo các cấp, các ngành về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” (Ban Chỉ đạo 35) chỉ đạo, quản lý. Trong đó, tại cơ quan thường trực ban chỉ đạo 35 các cấp, các ngành cần bố trí cán bộ chuyên trách, đáp ứng tính chất của công việc để bảo đảm vừa thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo, vừa điều hành, tác chiến thường xuyên, liên tục.

Làm tốt công tác định hướng, bồi dưỡng, phát huy hiệu quả hoạt động của lực lượng nòng cốt trong việc nắm tình hình, thông tin, tuyên truyền định hướng dư luận xã hội và tác chiến bí mật.

Phát triển mạng lưới cộng tác viên trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chú ý tập hợp cộng tác viên từ các địa bàn, cơ sở; từ đoàn viên, sinh viên, học sinh, cán bộ hưu trí... để tạo ra một kênh nắm bắt kịp thời tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội, những vụ việc nóng về cơ quan thường trực ban chỉ đạo 35 các cấp, các ngành.

Về cơ chế hoạt động: 

Cần sớm thiết lập, ràng buộc trách nhiệm pháp lý, thống nhất và triển khai nghiêm cơ chế phối hợp giữa Chính phủ với các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội nước ngoài, như: Google, Youtube, Facebook... trong việc quản lý, ngăn chặn, xử lý các thông tin xấu, độc.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, định hướng, nắm tình hình tư tưởng, dư luận qua các trang fanpage, group, trang Facebook, kênh Youtube, blog,... Phát triển các trang fanpage, group, Facebook, kênh Youtube, blog... tuyên truyền bảo đảm bám sát tôn chỉ, mục đích hoạt động; xây dựng các chuyên mục thông tin chống lại các luận điệu xuyên tạc, phản động nhằm tạo sự đồng thuận xã hội; từng bước nâng cao nhận thức, trách nhiệm, sức đề kháng, khả năng phát hiện thông tin xấu, độc, hình thành “thế trận toàn dân” trên không gian mạng, góp phần làm trong sạch môi trường mạng, giữ vững an toàn thông tin.

Tăng cường và nâng cao hiệu quả phối hợp, phát huy sức mạnh tổng lực của lực lượng ban chỉ đạo 35 trong cả nước. Thống nhất trung tâm điều hành hoạt động đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả từ Ban Chỉ đạo 35 Trung ương đến các ban, bộ, ngành và địa phương trong định hướng thông tin, tuyên truyền, bồi dưỡng nghiệp vụ (quản trị các nhóm, trang; điều hành, kỹ thuật tác chiến; phương pháp phản biện, đấu tranh ẩn danh;...).

Triển khai thực hiện có hiệu quả quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với các tổ chức, cá nhân có nhận thức khác hoặc chưa đúng với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước - nhất là đối với các cá nhân có uy tín, có trình độ, thái độ tích cực, có tầm ảnh hưởng đến cán bộ, đảng viên, nhân dân tại cơ quan, đơn vị, địa phương.

Xây dựng phương án phối hợp chặt chẽ, kịp thời, đồng bộ trong xử lý tình hình nóng, phức tạp nổi lên tại các địa bàn, lĩnh vực giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương. Kịp thời phát hiện, phối hợp giáo dục, xử lý nghiêm, đủ sức răn đe đối với các đối tượng sử dụng internet, mạng xã hội đưa, chia sẻ thông tin vi phạm pháp luật.

Nghiên cứu, sớm ban hành quy chế bảo vệ người tham gia công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng để kịp thời xử lý những “sự cố” trong quá trình thực thi nhiệm vụ, khi người tham gia đấu tranh bị đe dọa, bị xâm hại thân thể, uy tín, nhân phẩm, công việc, gia đình, ảnh hưởng đến tổ chức, cơ quan, đơn vị nơi họ đang công tác./.

Con đường đi tới tương lai - Những đánh giá mang tầm thời đại

 


 

Trong một bài viết gửi báo chí ở Việt Nam, bà Merle Ratner, nhà hoạt động xã hội người Mỹ, điều phối viên Chiến dịch hỗ trợ và công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đã có phân tích rất xác đáng: "Người dân Mỹ đau đớn nhận ra rằng, CNTB đã giáng cho họ một đòn đau đớn. Tuy nhiên, điều mà họ chưa thể thấu hiểu hoàn toàn đó là đau khổ của họ không chỉ do những cá nhân tham lam chỉ coi trọng khối tài sản khổng lồ của họ hơn tình thương đối với nhân loại mà còn xuất phát từ bản chất của CNTB. CNTB luôn nhắm đến tối đa hóa lợi nhuận và giá trị thị trường. Tham lam và bất bình đẳng là gen di truyền của CNTB và chúng sẽ chỉ bị loại bỏ khi thay đổi hệ thống chính trị và kinh tế triệt để. Tương lai của loài người chắc chắn phải là chủ nghĩa xã hội (CNXH). Tương lai hoàn toàn thuộc về CNXH. Nhưng CNXH trong thời đại mới sẽ khác hơn những gì đã diễn ra trong thế kỷ 20. Có khả năng sẽ có nhiều cuộc thử nghiệm khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Tất cả cần phải được nghiên cứu, tổng hợp và rút ra bài học kinh nghiệm”. 

Nhìn vấn đề ở logic lịch sử như vậy càng cho thấy bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ có ý nghĩa trước mắt đối với nước ta mà còn là một bài viết mang tính tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận rất quan trọng giúp nhận diện những vấn đề có tính quy luật lớn của thời đại hiện nay, cũng là điều mà nhiều nhà nghiên cứu, nhà lãnh đạo trên thế giới quan tâm. Đó chính là một vấn đề mang tính toàn cầu như chuyên gia người Mỹ từng khẳng định: “Phải được nghiên cứu, tổng hợp và rút ra bài học kinh nghiệm”. 

Một giá trị hết sức quan trọng và to lớn khác là bài viết đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng; khẳng định những biện pháp, cách thức, các khâu đột phá cần làm, các vấn đề then chốt phải thực hiện để đi lên CNXH. Bài viết mang tính khái quát nhưng đã khẳng định rất rõ rằng Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức về CNXH ngày càng rõ hơn, con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn và đang từng bước được hiện thực hóa. Bài viết vừa có tầm vóc lý luận và thực tiễn to lớn, vừa là thông điệp mạnh mẽ của Đảng ta và nhân dân ta về sự lựa chọn con đường đi tới tương lai; tiếp tục cổ vũ quần chúng nhân dân kiên định, vững bước trên con đường đã chọn./.

CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 


Với thủ đoạn lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, khai thác thông tin trên báo chí chính thống về những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống xã hội để hư cấu, xuyên tạc, thổi phồng, lấy hiện tượng quy kết thành bản chất, đăng tải thông tin thật - giả lẫn lộn, đưa ra cái gọi là “tài liệu chứng minh” để tuyên truyền, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.

Chúng thường tung ra những thông tin bịa đặt về bí mật nội bộ Đảng nhằm tác động, làm gia tăng các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, qua đó tác động, thẩm thấu vào một bộ phận cán bộ lão thành cách mạng, trí thức, văn nghệ sĩ để chính họ bộc lộ, đưa ra những quan điểm không đồng thuận, phản biện vô nguyên tắc, phản đối gay gắt với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kêu gọi từ bỏ Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin. Thúc đẩy lối sống thực dụng, tư tưởng bất mãn, văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nhằm làm phai nhạt lý tưởng cách mạng, băng hoại đạo đức xã hội.

Trong thời gian qua, các tổ chức phản động ở bên ngoài tiếp tục duy trì, lập mới hàng nghìn website, blog, fanpage Facebook nhằm đẩy mạnh chiến dịch “chiến tranh tâm lý”, tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước; xuyên tạc chia rẽ nội bộ, gieo rắc tâm lý hoang mang, hoài nghi, bất bình trong nhân dân đối với chế độ.

Trong 5 năm qua, đặc biệt trong thời gian Đảng ta chuẩn bị tổ chức Đại hội XIII, chúng tập trung vào một số hoạt động sau:

Tạo lập hàng ngàn trang mạng xã hội, mới nhất là các kênh YouTube Nguyễn Văn Đài, Lê Dũng Vova,… trong đó nhiều trang giả mạo cá nhân, tổ chức có uy tín, núp dưới danh nghĩa tôn giáo, bảo vệ môi trường, dân sinh để thu hút người đọc, qua đó lan truyền các nội dung chống Đảng, Nhà nước.

Sử dụng các đài, báo bên ngoài kết hợp các kênh mạng xã hội để viết bài, cắt ghép, nhào nặn video xuyên tạc, phê phán Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp.

Lan toả các thông tin lượm lặt từ báo chí trong nước và từ tài khoản Facebook của một số cá nhân có quan điểm cực đoan trong nước nhằm phê phán chính quyền, Đại hội Đảng các cấp.

Tổ chức soạn thảo, phát tán “thư ngỏ”, “tâm thư”, “kiến nghị”, “đơn kêu cứu”,… để thu hút sự chú ý của dư luận, cổ súy hoạt động của một số đối tượng có quan điểm cực đoan. Tổ chức các chương trình, tọa đàm, phỏng vấn một số đối tượng chống đối, một số luật sư có tư tưởng phức tạp, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ban, ngành để tuyên truyền gây mất đoàn kết nội bộ, hình thành dư luận “lề trái”…

Điểm mới trong phương thức, thủ đoạn tuyên truyền phá hoại tư tưởng so với 5 năm trước là: Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những thành tựu tiên tiến của khoa học công nghệ, ứng dụng các loại hình dịch vụ mới trên không gian mạng để đăng tải, phát tán thông tin sai trái, thù địch trên diện rộng với nhiều bình luận phức tạp. Sử dụng ứng dụng thoại trên internet, thư điện tử, phần mềm chuyên dụng, mạng xã hội để hoạt động chống phá. Chúng lập các nhóm kín trên mạng xã hội phân chia theo khu vực địa lý để tập hợp lực lượng trong nước tham gia tổ chức, chỉ đạo chống phá. Các đối tượng chống đối, bất mãn, khiếu kiện, lợi dụng tôn giáo thường xuyên liên hệ, trao đổi qua mạng với các đối tượng phản động lưu vong để nhận sự giúp đỡ hoặc trả lời phỏng vấn, phát trực tiếp trên mạng xã hội./.

Cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân và phủ nhận vai trò của tổ chức công đoàn hiện nay

 


             Với sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, nghèo nàn, lạc hậu trên phạm vi toàn thế giới, ngày nay, giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động đã và đang xuyên tạc bản chất, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò của tổ chức công đoàn. Phê phán, bác bỏ các luận điệu sai trái đó cùng việc bảo vệ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò của tổ chức công đoàn trên cơ sở khoa học là nhiệm vụ hết sức cấp thiết hiện nay. C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã làm rõ địa vị kinh tế - xã hội khách quan của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, bởi đây là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại và hội đủ các yếu tố của một giai cấp lãnh đạo xã hội. Điều này không phải là mong muốn chủ quan của giai cấp công nhân hay nguyện vọng của C. Mác như một số luận điệu xuyên tạc. Sở dĩ giai cấp công nhân có được vai trò và sứ mệnh ấy là do có sự khác biệt với tất cả các giai tầng khác về địa vị trong phương thức sản xuất, về tính tổ chức, tính kỷ luật và hệ tư tưởng. Giai cấp công nhân ra đời và phát triển từ nền đại công nghiệp gắn với dây chuyền máy móc, sản xuất tập trung, theo chu trình khép kín, mang tính xã hội hóa cao. Chính điều này làm cho giai cấp công nhân có tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, tinh thần hợp tác cao, là giai cấp duy nhất thống nhất được lợi ích cũng như nhận thức, tư tưởng và hành động trong xã hội, hội đủ những phẩm chất cần có của một giai cấp cách mạng, có năng lực lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.

              Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng có nghĩa là khẳng định lập trường của Đảng ta là lập trường của giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến và xu thế phát triển của thời đại. Việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng luôn được Đảng ta khẳng định qua các kỳ đại hội, gần đây nhất là Đại hội XIII, với yêu cầu: “Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, được thể hiện qua các tác phẩm, bài viết, bài nói của Người. Trong “Chương trình tóm tắt của Đảng”, Người viết: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. Khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, cách mạng nhất, trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng” đăng trên Tạp chí Học tập tháng 12-1958, Người viết: “Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiền tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất. Mà đảng vô sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Cách mạng ở Liên Xô và ở các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa đã chứng thực điều đó, không ai chối cãi được”(7). Báo Nhân Dân ra ngày 6-1-1960 đăng tác phẩm “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có đoạn: “Ngay từ lúc đầu, Đảng đã giương cao ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Trong lúc đó, giai cấp phong kiến đã đầu hàng đế quốc, giai cấp tư sản non yếu thì chỉ mong thỏa hiệp với đế quốc để tìm một lối sống. Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”(8). Giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng nòng cốt trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

             Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê - Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam đều luận chứng hết sức thuyết phục về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, điều đó đã được minh chứng trong thực tiễn hơn 91 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày nay, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là lực lượng lãnh đạo cách mạng, là một lực lượng xã hội to lớn, ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành, nghề, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và gắn với nền công nghiệp hiện đại. Giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng nòng cốt trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Họ có khả năng phát minh, cải tiến và áp dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất, trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay./.

NĂM MỚI, KHÍ THẾ MỚI, TIẾP THÊM KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC!

Mùa Xuân 2024 đã đến!
Đất nước ta đi qua năm 2023 với nhiều khó khăn, thách thức hơn so với dự báo, nhất là ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu, của xung đột và chiến tranh, biến đổi khí hậu và thiên tai; bức tranh thế giới năm 2023 mang màu sắc chủ đạo là sự ảm đạm về kinh tế, những giằng xé của xung đột địa - chính trị có lúc, có nơi thấm đẫm máu và nước mắt của người dân... Trong bối cảnh ấy, toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta càng thể hiện quyết tâm và khí thế rất cao, vào cuộc quyết liệt, nỗ lực phấn đấu, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tiếp tục có những dấu ấn nổi bật. Việt Nam tiếp tục được đánh giá là điểm sáng trong bức tranh toàn cầu.

Chịu tác động bất lợi của nhiều nhân tố bên ngoài và những bất cập, khó khăn nội tại, có mặt bộc lộ rõ hơn, năm 2023, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng 5,05%; dù không đạt mục tiêu 6,5% đề ra, nhưng đây là kết quả tích cực, đưa Việt Nam vào nhóm các nước có mức tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Sự tăng trưởng kinh tế theo xu hướng tăng dần, quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 3,41%; quý II tăng 4,25%; quý III tăng 5,47%; quý IV tăng 6,72%); kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp; các cân đối lớn được bảo đảm, tiêu dùng nội địa duy trì mức tăng khá; xuất khẩu có những điểm sáng, năm thứ 8 liên tiếp xuất siêu với mức thặng dư gần 26 tỷ USD. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục là trụ đỡ vững chắc cho kinh tế - xã hội, một số lĩnh vực, ngành hàng tăng trưởng đột phá. Đầu tư công được đẩy mạnh về số vốn thực hiện, tốc độ giải ngân ở mức cao. Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong quá trình định hình lại đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu. Với quy mô GDP ước đạt 435 tỷ USD, Việt Nam thuộc vào nhóm 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới và nằm trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế.

Trong năm 2023, các nghị quyết hội nghị Trung ương, các cuốn sách quan trọng của người đứng đầu Đảng ta tiếp tục hoàn thiện lý luận, tầm nhìn phát triển của Việt Nam, đường lối, chiến lược của Đảng trên các lĩnh vực; hoàn thành các nội dung lớn được đặt ra trong chương trình làm việc toàn khóa. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rõ.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng và hệ thống chính trị, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục đạt kết quả tích cực. Phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố. Trong khó khăn, các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được quan tâm kịp thời, hiệu quả, đạt nhiều kết quả quan trọng, rõ rệt, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu, là điểm sáng nổi bật trong năm 2023 với nhiều chuyến thăm có ý nghĩa lịch sử của nguyên thủ quốc gia các nước đối tác quan trọng.

Lịch sử dân tộc và truyền thống cách mạng đã hun đúc nên giá trị to lớn về ý chí và khát vọng Việt Nam: càng đương đầu với khó khăn, càng bền gan, vững chí; thách thức tạo thêm động lực để thay đổi, thêm sáng tạo về phương pháp, về cách làm; trong khó khăn tạo nên cơ hội, xuất hiện nhiều hơn những mô hình và bước đi đột phá, nỗ lực vươn lên. Trong năm 2023 đầy khó khăn, thách thức, chúng ta tiếp tục chuyển đổi mô hình - phát triển bền vững, chuyển đổi số, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; khơi thông giá trị - nguồn lực văn hóa - con người; mở rộng quan hệ quốc tế và nâng cao vị thế đất nước. Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa XIII đã khẳng định: Đất nước ta vẫn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện và đáng mừng trên nhiều lĩnh vực.

Những thành tựu quan trọng, toàn diện của năm 2023 tiếp tục nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia; lòng tin của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; vị thế, uy tín của nước ta được nâng cao trên trường quốc tế. Thành quả đó là sự tiếp tục cụ thể hóa khát vọng phát triển của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và của cả chặng đường phía trước.

Năm mới 2024 đã đến!
Năm 2023 là năm bản lề, tạo thế đứng vững chắc để chúng ta hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trong chặng đường còn lại của nhiệm kỳ Đại hội XIII, chuẩn bị tiếp tục mở ra những chặng đường mới vinh quang của dân tộc. Đây chính là cơ sở để Quốc hội khóa XV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2024 đạt 6 - 6,5%, tốc độ tăng CPI bình quân 4 - 4,5%. Các tổ chức quốc tế cũng có đánh giá lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2024. Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa XIII đã xác định việc tập trung, ưu tiên triển khai thực hiện 5 nhiệm vụ trọng tâm trong nửa cuối của nhiệm kỳ khóa XIII: phát triển kinh tế; phát triển văn hóa, xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh, tổ chức thật tốt hoạt động đối ngoại; đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; tập trung chuẩn bị đại hội đại biểu đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội XIV của Đảng...

Trong năm 2024 và những năm tiếp theo, tình hình thế giới tiếp tục đổi thay nhanh chóng, tạo cho nước ta nhiều thời cơ, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mới. Dù đạt được những thành tựu quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Sứ mệnh lịch sử tiếp tục đặt lên vai Ðảng ta, mọi tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên những trọng trách nặng nề. Giữ vững bản chất và tăng cường vai trò lãnh đạo của Ðảng; xây dựng Ðảng thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Ðảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay.

Hơn bao giờ hết, các tổ chức đảng, các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành và mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc nhìn lại chính mình, kiên quyết, kiên trì khắc phục, sửa chữa yếu kém, khuyết điểm để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề đang đặt ra và sự tin tưởng, mong đợi, kỳ vọng của nhân dân. Phải chăm lo, giữ gìn bản chất cách mạng, tính tiên phong của Đảng và phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đảng bộ các cấp, các ngành, các địa phương cần khẩn trương và tích cực cụ thể hóa chủ trương, đường lối, quan điểm Ðại hội XIII của Ðảng và các Hội nghị Trung ương, đề ra thành chương trình hành động cách mạng, dấy lên phong trào thi đua lao động sáng tạo, biến chủ trương, đường lối của Ðảng thành hiện thực cuộc sống; tiếp thêm nguồn động lực cho khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Trong một thế giới còn nhiều biến động khó lường; tình hình quốc tế còn nhiều vấn đề phức tạp, khó dự báo; đâu đó vẫn có những kẻ rắp tâm chống phá, xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, cũng là vấn đề mang tính nguyên tắc có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, đất nước ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh đó đòi hỏi luôn luôn chú trọng xây dựng đoàn kết, đồng thuận trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta, nỗ lực hơn nữa, bám sát thực tiễn, hành động quyết liệt, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, năm sau phải tốt đẹp hơn năm trước.

Thành công của năm 2023 là tiền đề quan trọng, tiếp thêm khát vọng, củng cố niềm tin, tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, bước vào năm 2024 với tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”.

Xuân Giáp Thìn đang đến với mọi miền; thôi thúc chúng ta tự tin, vững bước tới những thành công mới!./.
Yêu nước ST.

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM - SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CỦA LỊCH SỬ!

     Lịch sử chính trị thế giới đã cho chúng ta nhiều bài học để thấy rằng sự chia rẽ, phân rã, thiếu tập trung về quyền lực chính trị sẽ dẫn đến sự bất hòa, đó chính là mầm mống cho những nỗi thống khổ, bất hạnh của người dân. Thực tiễn cũng cho thấy, chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hoàn toàn không phù hợp với bối cảnh lịch sử-xã hội ở Việt Nam!

Những nghịch lý và hệ lụy của chế độ đa đảng
Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là một khuynh hướng tổ chức đời sống chính trị-xã hội xuất hiện từ đầu thế kỷ 18 với xu hướng tuyệt đối hóa sự đa dạng, đối kháng của các đảng chính trị. Chế độ đa đảng là hệ thống mà ở đó có nhiều đảng chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau.

Lịch sử chính trị thế giới cho chúng ta một số bài học để thấy rằng hệ thống đa đảng đối lập nhiều khi không dẫn các quốc gia theo con đường này đến hòa bình, ổn định và phồn vinh, mà ngược lại nó dẫn đến sự bất hòa, phân lập, thậm chí là tê liệt của bộ máy công quyền. Trở lại bối cảnh lịch sử của nước Đức cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Nước Đức thời kỳ này tồn tại nhiều đảng phái chính trị, mỗi đảng đại diện cho những lợi ích xã hội được xác định rõ ràng, tranh giành quyền lực và lợi lộc từ quyền lực, thỏa hiệp và ký kết thỏa hiệp với nhau khi nào có thể. Sự chia rẽ trong đời sống chính trị không chỉ dẫn đến hậu quả đau đớn cho Đức vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 mà hiện vẫn còn dẫn tới sự bất ổn chính trị, làm gia tăng nghèo đói và bạo loạn ở nhiều nước trên thế giới.

Nhìn lại cuộc cách mạng “mùa xuân Ả Rập” diễn ra năm 2011 cho thấy điều đó. Phân hóa giàu nghèo, tham nhũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự nổi dậy lật đổ chính quyền tại một loạt quốc gia ở khu vực Bắc Phi và Trung Đông. Nhưng sau khi lật đổ chính quyền, điều mà người dân trông chờ là một nền chính trị ổn định, ít tham nhũng, quan tâm đến đời sống của đại đa số người dân, những gì mà các thế lực bên ngoài rao giảng đã không được thực thi trên thực tế. Thay vào đó là sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái và thế lực chính trị. Cho đến hiện tại, ở các quốc gia này, không có một đảng chính trị hay một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thống nhất, lãnh đạo đất nước khiến xã hội vẫn chưa đi vào ổn định và phát triển.

Thể chế đa đảng với cách thức tổ chức cho phép các đảng đối lập phản đối chính sách của đảng cầm quyền nhằm thực hiện dân chủ, nhưng nghịch lý của nó là khiến chính phủ trở nên phân rã và chia rẽ. Sự phân cực chính trị làm phân tán nguồn lực và các chính sách đem lại lợi ích cho đa số người dân thường sẽ khó được thực thi. Bởi khi không nắm chính quyền, các đảng chính trị sẽ có nhiệm vụ là tìm mọi cách phê phán chính sách của đảng đối lập; mục đích chính của việc làm này không phải là để có tiếng nói phản biện nhằm làm cho chính sách được thực thi một cách tốt hơn mà là để giành giữ lá phiếu cho đảng mình trong các lần bầu cử tiếp theo.

Nhìn vào đời sống chính trị của các quốc gia tổ chức theo chế độ đa đảng đối lập, chúng ta sẽ thấy các đảng chính trị để tranh giành quyền lực, họ không dựa trên lợi ích của đông đảo người dân nhằm giải quyết các vấn đề mà xuất phát từ lợi ích của đảng phái, thậm chí là lợi ích cá nhân hẹp hòi. 

Sự lựa chọn cho ổn định, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam
Lịch sử chính trị thế giới đã cho chúng ta nhiều bài học để thấy rằng sự chia rẽ, phân rã, thiếu tập trung về quyền lực chính trị sẽ dẫn đến sự bất hòa, đó chính là mầm mống cho những nỗi thống khổ, bất hạnh của người dân.

Tại Việt Nam, vào cuối thập niên 20 của thế kỷ trước, cùng với sự phát triển của các phong trào yêu nước, các tổ chức cộng sản đảng đã ra đời mà tiêu biểu là An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng và Tân Việt Cách mạng Đảng. Sau khi ra đời 3 tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế cộng sản và đều tự nhận mình là đảng cách mạng chân chính. Tuy nhiên sự xuất hiện và tồn tại 3 tổ chức cộng sản đảng cùng hoạt động cách mạng đã dẫn đến sự chia rẽ nguồn lực, các đảng công kích lẫn nhau để tranh giành ảnh hưởng. Sự chia rẽ, công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thời kỳ này đã gây tổn hại lớn cho sự phát triển của phong trào cách mạng và gây nên tâm trạng nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng.

Để chấm dứt sự chia rẽ và công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản, đầu tháng giêng năm 1930, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hương Cảng để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 là minh chứng lịch sử cho chúng ta thấy cách thức tổ chức một đảng duy nhất cầm quyền, đây là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử, phù hợp với đặc trưng văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta.

So với thể chế đa đảng đối lập, nhiều quan điểm cho rằng các quốc gia có một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo đất nước đó là “chế độ độc đảng toàn trị”. Hằng năm, các báo cáo về chỉ số tự do dân chủ (Democracy Index) vẫn dựa vào tiêu chí đa đảng đối lập để đánh giá mức độ tự do, dân chủ của một quốc gia. Dựa vào các báo cáo này, họ rao giảng rằng các quốc gia như Việt Nam có một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo đất nước thì xu hướng chung “đảng đó sẽ độc chiếm quyền lực, tiếm đoạt các chức năng của nhà nước, kiểm soát toàn bộ đời sống của xã hội nói chung, của cá nhân nói riêng”. Họ "khuyến cáo" rằng, "Việt Nam cần phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” để thực hiện dân chủ"(!).

Tuy nhiên phải hiểu rằng, dù đề cập đến dân chủ như một giá trị tốt đẹp, dân chủ như một hình thức cai trị, một cách thức ra các quyết định chung hay dân chủ như một chế độ chính trị thì tất cả các ngữ nghĩa này đều không bắt nguồn từ cách thức tổ chức các đảng chính trị như thế nào. Dù là chế độ một đảng nhưng chúng ta đã, đang thực hiện dân chủ theo những cách riêng, phù hợp với đặc trưng văn hóa, tập quán, lối sống và năng lực thực hành dân chủ của người dân Việt Nam.

Lịch sử đấu tranh cách mạng ở Việt Nam đã cho chúng ta thấy Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo đất nước, đó là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử, phù hợp với phong tục, tập quán, năng lực thực hành dân chủ của người Việt. Nếu ai đó nói với chúng ta rằng Việt Nam cần phải học hỏi các quốc gia trên thế giới, phải xóa bỏ chế độ độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam để tổ chức đời sống chính trị theo chế độ đa đảng, nhất là đa đảng đối lập giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới thì chúng ta đừng hoang mang, dao động, mà hãy nhìn vào đời sống chính trị của các quốc gia theo chế độ đa đảng, đặc biệt là hệ thống đa đảng đối lập đã được phân tích cụ thể ở phần trên. Hãy nhìn vào cuộc sống hiện tại của người dân ở các quốc gia đã trải qua "mùa xuân Ả Rập" hay trải qua "cách mạng sắc màu", những người đã tin theo những lời xúi giục đó, họ đang khát khao như thế nào về một cuộc sống yên bình, ổn định, không có xung đột, đói nghèo và tội phạm gia tăng để cân nhắc quan điểm và lựa chọn hành động cho đúng.

Cho đến hiện nay, chế độ đa đảng, đặc biệt là đa đảng đối lập với đại diện theo tỷ lệ vẫn được các quốc gia phương Tây sử dụng như một “tiêu chuẩn của các nền dân chủ tiên tiến”. Lịch sử tổ chức đời sống chính trị trên thế giới lại cho chúng ta thấy rằng, dân chủ không bắt nguồn từ cách thức chúng ta tổ chức các đảng chính trị như thế nào. Nếu bạn đọc ở đâu đó hay nghe ai đó thuyết giảng rằng Việt Nam cần phải xây dựng chế độ đa đảng giống như mô hình của nhiều quốc gia phương Tây, thì bạn hãy nhớ rằng: Hiện nay, trên thế giới đang có hàng chục quốc gia lựa chọn thể chế "đa nguyên, đa đảng" nhưng đang chìm trong đói nghèo, khủng hoảng chính trị triền miên. Chúng ta có lợi thế hơn họ bởi chúng ta có những tấm gương trước mắt để học hỏi và lựa chọn. Sự lựa chọn đúng đắn nhất của chúng ta là: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đây là sự lựa chọn cho sự ổn định, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân ta và sự phát triển bền vững của đất nước Việt Nam./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: KỶ NIỆM 70 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ: TẠO KHÍ THẾ MỚI, ĐỘNG LỰC MỚI, THẮNG LỢI MỚI!

     Chủ trì cuộc làm việc của Thường trực Chính phủ với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Điện Biên về công tác chuẩn bị tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ mới đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị tỉnh Điện Biên tổ chức tốt các hoạt động để mỗi người dân Điện Biên tự hào với quê hương, với truyền thống lịch sử hào hùng của đất nước, khơi dậy và phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tạo khí thế mới, động lực mới, thắng lợi mới!

Triển khai toàn diện công tác chuẩn bị tổ chức Lễ kỷ niệm
Tại cuộc làm việc, lãnh đạo tỉnh Điện Biên và các Bộ, ngành đã báo cáo tình hình triển khai và các nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới để tiếp tục triển khai ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư tại Văn bản số 8567-CV/VPTW ngày 29/11/2023 của Văn phòng Trung ương Đảng về chủ trương thực hiện Đề án kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ; kết luận của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Điện Biên theo Thông báo số 160/TB-VPCP ngày 28/4/2023 của Văn phòng Chính phủ.

Phát biểu kết luận cuộc làm việc, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá tỉnh Điện Biên và các Bộ, ngành, cơ quan liên quan đã chủ động triển khai khá toàn diện công tác chuẩn bị tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ; cũng như thực hiện Đề án bảo tồn và phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt chiến trường Điện Biên Phủ đến năm 2030. Nhấn mạnh thời gian từ nay tới khi tổ chức Lễ kỷ niệm không còn nhiều, Thủ tướng yêu cầu Phó Thủ tướng Lê Minh Khái trực tiếp chỉ đạo, tỉnh Điện Biên cần chủ động và phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan tập trung triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm.

Cụ thể là, tiếp tục bám sát và thực hiện thật nghiêm ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư và ý kiến của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 160/TB-VPCP, nội dung của Đề án tổng thể các hoạt động kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, xây dựng kế hoạch, tổ chức thật tốt các hoạt động kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ bảo đảm đúng quy định, an ninh, an toàn, tiết kiệm, hiệu quả.

Tỉnh Điện Biên tiếp tục nỗ lực, cố gắng, các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục chung tay giúp sức, phối hợp, hỗ trợ tỉnh Điện Biên triển khai đồng bộ, toàn diện các chương trình, dự án cụ thể theo Đề án tổng thể, các công việc liên quan. Thủ tướng đề nghị tỉnh phát động, triển khai phong trào thi đua yêu nước chào mừng 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tăng cường các hoạt động truyền thông, thường xuyên họp báo cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí, tăng cường giáo dục truyền thống cho Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

Cùng với đó, tổ chức tốt các hoạt động gặp gỡ, tri ân các chiến sĩ, dân công Điện Biên, tổ chức viết hồi ký, sưu tầm các tư liệu, hiện vật, câu chuyện về Chiến thắng Điện Biên Phủ; tham khảo kinh nghiệm các nước trong bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt chiến trường Điện Biện Phủ, để mỗi người dân Điện Biên tự hào với quê hương, với truyền thống lịch sử hào hùng của đất nước, khơi dậy và phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tạo khí thế mới, động lực mới, thắng lợi mới. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về văn hóa, thể thao, du lịch và các hoạt động khác để quảng bá về di sản văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên, đặc biệt là về lễ hội và tết truyền thống, danh lam thắng cảnh, di tích, các điểm du lịch tiêu biểu...

Đưa Điện Biên trở thành tỉnh của hoa ban
Thủ tướng đề nghị, ngoài các dự án, công trình kỷ niệm do Trung ương đầu tư, tỉnh Điện Biên lựa chọn triển khai một số dự án, công trình kỷ niệm ý nghĩa khác. Nhân dịp này, Thủ tướng biểu dương tỉnh Điện Biên đã nỗ lực, cố gắng trong giải phóng mặt bằng, cùng các cơ quan hoàn thành dự án mở rộng sân bay Điện Biên vào cuối năm 2023 và hoàn thành Đề án xây dựng 5.000 căn nhà đại đoàn kết trong điều kiện ngân sách còn khó khăn, với tinh thần Điện Biên Phủ “biến không thành có, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể”.

Thủ tướng gợi ý tỉnh phát động phong trào mỗi người, mỗi nhà, mỗi cơ quan cùng trồng hoa ban, đưa Điện Biên trở thành tỉnh của hoa ban, qua đó tạo dấu ấn nổi bật, để cùng với việc khai thác, phát huy các công trình hạ tầng giao thông sân bay, cao tốc đã và đang được đầu tư, thu hút du khách, thúc đẩy phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

Nhắc lại việc đã ban hành Quyết định ngày 21/12/2023 bổ sung hơn 312 tỷ đồng cho tỉnh Điện Biên để thực hiện Đề án kỷ niệm, Thủ tướng giao tỉnh Điện Biên khẩn trương phân bổ để triển khai theo quy định; phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục rà soát, cân đối, huy động nhiều nguồn vốn hợp pháp khác nhau, trong đó có đề xuất cấp có thẩm quyền quyết định, bổ sung ngân sách hỗ trợ tỉnh để triển khai các công việc trên cơ sở đề án, dự án cụ thể.

Thủ tướng cũng cho ý kiến, giao nhiệm vụ cụ thể với các Bộ, ngành, đơn vị để giải quyết các đề xuất, kiến nghị của tỉnh Điện Biên trong xây dựng, triển khai các dự án, thực hiện các nhiệm vụ được giao như dự án bảo tồn, tôn tạo trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ kết hợp với cải tạo lại hệ thống cây xanh tại điểm di tích; dự án cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia cho các hộ dân tại các xã đặc biệt khó khăn, có vị trí trọng yếu về quốc phòng - an ninh; xây dựng đường cao tốc Sơn La - Điện Biên - Cửa khẩu Tây Trang giai đoạn 1; nâng cấp tuyến chính thuộc dự án đường giao thông kết nối các khu vực kinh tế trọng điểm thuộc vùng kinh tế động lực dọc trục quốc lộ 279 và quốc lộ 12./.
Yêu nước ST.

TU TÀI PHẢI ĐI ĐÔI VỚI DƯỠNG ĐỨC

 Hội nhập giáo dục là một phần tất yếu trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của

đất nước ta. Nó mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít nguy cơ, thách thức. Thực tế là đã

có những âm mưu lợi dụng hợp tác quốc tế về giáo dục-đào tạo để hòng tạo ra một lớp người

Việt Nam có quan điểm, tư tưởng không phù hợp với những đường lối, quan điểm của Đảng và

Nhà nước ta. Chiêu trò này nhằm vào đối tượng là thanh niên, sinh viên để tiêm nhiễm, kích

động tư tưởng chống đối trong giới trẻ thông qua đội ngũ giáo viên, giảng viên thoái hóa về tư

tưởng chính trị. Vì vậy, người làm công tác giảng dạy cần thấy được vinh dự lớn của bản thân

khi được tổ chức tin tưởng, tín nhiệm cử đi giao lưu, học tập, nghiên cứu ở nước ngoài; lấy đó

làm động lực để nỗ lực phấn đấu, trách nhiệm hơn với công việc của mình, của đơn vị mình; ra

sức học tập, nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa tri thức nhân loại, làm giàu hơn kho tri thức của bản

thân, từ đó phụng sự sự nghiệp giáo dục-đào tạo của đất nước. Chỉ có không ngừng tu dưỡng, rèn

luyện phẩm chất, nhân cách, tiếp thu tri thức thì người thầy mới có cái nhìn toàn diện, sâu sắc;

mới phân biệt rõ cái hay, cái dở để từ đó có thái độ ứng xử phù hợp, nhân rộng cái hay, thu hẹp

cái dở, giúp học sinh, sinh viên của mình luôn có cái nhìn tiến bộ, tích cực.

Thời nào cũng vậy, thanh niên, học sinh, sinh viên luôn là thành phần tiên phong trong tiếp thu

cái mới, hăng hái, nhiệt tình trong hoạt động thực tiễn. Họ cũng là đội ngũ có kiến thức nên càng

năng động, nhạy cảm với cái mới, khát khao đổi mới. Thế nhưng họ lại chưa đủ "độ chín"; về tư

tưởng chính trị, dễ bị cảm xúc lấn át nên thường thiếu sâu sắc khi phân tích, nhận định những

vấn đề về chính trị-xã hội, cái tích cực-tiêu cực trong xã hội đa chiều, phức tạp. Vì vậy, nếu

không được định hướng kỹ càng, sâu sát, rất có thể họ sẽ phạm sai lầm trong nhận thức và hành

động. Do đó, họ rất cần được những người thầy vừa có tâm trong sáng vừa có tầm cao trình độ

kiến thức dìu dắt, định hướng để thực sự trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước.

SỰ NGUY HIỂM CỦA TÂM LÝ “SÍNH NGOẠI, BÀI NỘI” TRONG GIÁO VIÊN

 Hiện tượng giáo viên “ sính ngoại, bài nội”, tôn sùng, ngợi ca một cách chủ quan những giá trị bề

ngoài, hào nhoáng của xã hội, lối sống của nước ngoài, quay lại chê bai đất nước vẫn đang âm ỉ.

Đây là “căn bệnh” không chỉ của riêng một số ít thầy, cô giáo khi được ra nước ngoài học tập,

công tác. Nhiều cán bộ, công chức, viên chức được cơ quan cử đi học tập, công tác nước ngoài

cũng dễ “nhiễm bệnh” sính ngoại. Họ dễ bị choáng ngợp với những giá trị công cộng mà nước

họ đến đạt được, rồi đem so sánh với đất nước mình và chê bai đường lối lãnh đạo của Đảng, sự

quản lý của Nhà nước và những thành tựu từ mồ hôi, xương máu của nhân dân. Nguyên nhân lớn

nhất để nảy sinh căn bệnh sính ngoại lại bắt đầu từ khâu tổ chức các đoàn cán bộ đi công tác.

Thường thì có những đoàn cán bộ khi đi nước ngoài chỉ họp đoàn bàn về nội dung chương trình,, đi lại chứ ít quan tâm quán triệt những vấn đề liên quan đến tư tưởng chính trị, văn

hóa... cho các thành viên khi đi ra nước ngoài, nên chuyện phát ngôn chưa chuẩn mực hoặc bị

nhiễm “bệnh” sùng ngoại xảy ra là điều dễ hiểu...”.

Chính vì sùng bái, mải mê ca ngợi một chiều các giá trị bề nổi, hào nhoáng của xã hội tư bản nên

những thầy cô này chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”; họ không giúp học sinh, sinh viên thấy rõ

những điều còn hạn chế của nước ngoài, nhất là ở các nước tư bản như sự bất công trong xã hội,

khoảng cách giàu-nghèo...; họ cũng chưa thấy hết những thành quả, thành tựu đổi mới, xây dựng

và phát triển của đất nước; vai trò, sự lãnh đạo của Đảng; chưa phân tích rõ những mặt tích cực,

tiêu cực và nguyên nhân của nó; chưa nghiên cứu kỹ các chủ trương, giải pháp của Đảng trong

khắc phục, giải quyết những vấn đề còn hạn chế, yếu kém... để từ đó giúp học sinh, sinh viên

nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm trước những vấn đề thời cuộc và với sự nghiệp cách mạng

của Đảng ta. Rơi vào tay những người thầy này thì ít hay nhiều, sớm hay muộn học sinh, sinh

viên cũng dễ bị gieo rắc, "đầu độc" và có thể hình thành tư tưởng thực dụng, quay lưng với lịch sử, truyền thống dân tộc, chạy theo những cám dỗ vật chất tầm thường. Nguy hiểm hơn nữa là

những học sinh, sinh viên bị tiêm nhiễm tư tưởng xấu sẽ lây nhiễm suy nghĩ, cái nhìn lệch lạc tới

bạn bè, người thân như vết dầu loang rất khó phòng ngừa. Xin dẫn chứng một vài trường hợp:

Đó là một giáo sư, tiến sĩ từng giảng dạy trong lĩnh vực xây dựng, nhưng khi về hưu, ông này đã

viết, tán phát nhiều bài viết trên các trang mạng hải ngoại, cá nhân, núp bóng chiêu bài “phản

biện” các chính sách để chống Đảng, phủ nhận những thành quả từ sự lãnh đạo của Đảng, phê

phán Chủ nghĩa Mác-Lênin, kêu gọi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập... Song, đó

chỉ là bề nổi, điều mà nhiều người quan tâm, lo ngại qua trường hợp này là liệu có phải chỉ sau

khi nghỉ hưu ông này mới có những tư tưởng, quan điểm lệch lạc này hay nó đã nảy sinh, tích tụ

từ bao giờ? Và suốt thời gian đứng trên bục giảng, ông này có “lồng ghép”, truyền bá những suy

nghĩ lệch lạch của mình vào các bài giảng hay không? 

Một trường hợp nữa là giáo viên âm nhạc ở tỉnh Đắk Lắk vừa bị Tòa án Nhân dân cấp cao tại Đà

Nẵng tuyên y án 8 năm tù giam và 4 năm quản chế về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc

tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam”, quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Được biết

đến là thầy giáo dạy nhạc hát hay và có kiến thức tốt về âm nhạc, thế nhưng thay vì vận dụng

kiến thức, hiểu biết đã học được để truyền tải những lời hay ý đẹp, kiến thức âm nhạc cho các thế

hệ học trò thì ông này lại lợi dụng ngay cả diễn đàn dạy học để xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà

nước, đả kích chế độ.

HIỆN TƯỢNG GIÁO VIÊN “SÍNH NGOẠI”

 Mở rộng hợp tác trong lĩnh vực giáo dục giúp những người làm công tác giáo dục ngày càng có

nhiều điều kiện, cơ hội đi nước ngoài giao lưu, học tập, nghiên cứu để tiếp thu tinh hoa tri thức

nhân loại, làm giàu thêm kho tri thức của bản thân, phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy.

Tuy nhiên, do “sức đề kháng” kém nên không ít người đã quay lưng, trở nên tôn sùng, ngợi ca

một cách chủ quan những giá trị bề ngoài, hào nhoáng của xã hội, lối sống của nước sở tại, quay

lại chê bai đất nước, nhất là ở trên bục giảng, với học trò của mình. Tuy chỉ là số ít nhưng sự

nguy hại từ những thầy cô sính ngoại này là rất lớn vì thông qua bài giảng của mình, họ có thể

tiêm nhiễm, "đầu độc" tư tưởng sùng ngoại tới hàng trăm, hàng nghìn học sinh, sinh viên...

Thầy, cô giáo sính ngoại vì nhiều lý do: Có người do nhận thức chính trị, thiếu kiến thức, thiếu

hiểu biết nên bị lợi dụng, kích động; có người chỉ là vô tình; nhưng cũng có người có tư tưởng

phản động, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa... Dù vô tình hay cố ý, những thầy, cô giáo sính

ngoại đều chẳng khác nào là trung gian tiếp sức, “nối giáo cho giặc”, giúp các thế lực thù địch,

phản động thực hiện những chiến dịch tuyên truyền, chống phá, hủy hoại thế hệ tương lai của

nước nhà.

Biểu hiện chung của thầy, cô giáo mắc bệnh sính ngoại là: Muốn khoe khoang, chứng tỏ ta đây

học rộng biết nhiều, được đi đây đi đó... nên quá trình giảng bài, họ thường kể về những điều

được thấy, được trải nghiệm ở nước ngoài như phát hiện mới về một nền văn minh, “đỉnh cao”

của xã hội loài người với giọng điệu đầy tán dương, ca ngợi, thán phục. Nhằm thuyết phục thêm,

họ lại chỉ lấy những ví dụ và đề cập đến một số hạn chế, bất cập về tình hình kinh tế-xã hội đất

nước bằng giọng chê bai, chế giễu hoặc buông một câu lấp lửng “Việt Nam ta thì...” với thái độ

bất mãn, tiêu cực. Nhiều người còn ra sức tuyên truyền, quảng bá, tô vẽ, khuếch trương nền giáo

dục phương Tây, coi đó là điểm đến lý tưởng, con đường duy nhất để thế hệ trẻ Việt Nam có

điều kiện làm “rạng rỡ tương lai, mở mang tiền đồ của đất nước”. Từ đó từng bước nhồi nhét, cài

đặt tư tưởng sùng ngoại, bài nội, dần tác động thay đổi tận gốc nhân cách, tạo ra một tầng lớp trí

thức mới đề cao chủ nghĩa tư bản, lối sống phương Tây, lệch lạc về giá trị đạo đức và lối sống,

đề cao hưởng thụ, sống thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, thiếu trách nhiệm với cộng đồng.

SỰ CẦN THIẾT RÈN LUYỆN CÁN BỘ QUÂN ĐỘI “7 DÁM”

Với tinh thần nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng ta chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ,

đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là

người đứng đầu ở nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị chưa tạo sự lan tỏa sâu rộng... Những hạn chế

này có nguyên nhân từ một số khâu trong công tác cán bộ chậm được đổi mới; chính sách cán bộ

chưa thật sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; chưa có cơ chế hiệu quả để

bảo vệ cán bộ dám đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm...

Thời gian qua, một số cán bộ Quân đội mắc sai phạm, bị xử lý hình sự và kỷ luật chủ yếu do

không chịu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về đạo đức, lối sống, làm tổn hại đến danh dự, uy tín

của Quân đội nhân dân Việt Nam. Một vài cá nhân đó sai phạm xuất phát từ lý do chủ quan,

chứ tuyệt nhiên không phải do sai lầm từ chủ trương, đường lối trong công tác cán bộ của Đảng,

lại càng không phải là biểu hiện mất dân chủ, thiếu minh bạch, “áo gấm đi đêm” vì lợi ích nhóm,

lợi ích cục bộ; đồng thời cũng không phải là hệ quả của chủ trương “xây dựng đội ngũ cán bộ

Quân đội "7 dám" vì đó là khẩu hiệu suông” như các thế lực thù địch rêu rao.

Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

hiện nay cho thấy đại đa số cán bộ, đảng viên trong Quân đội vẫn tuyệt đối trung thành và một

lòng một dạ phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Điều đó được thể hiện sinh động trong cuộc chiến

chống “giặc Covid-19” đã có hàng nghìn cán bộ, đảng viên, các y sĩ, bác sĩ, chiến sĩ Quân đội tự

nguyện gác lại việc riêng, tình nguyện xung phong đến tuyến đầu chống dịch, dám đương đầu

với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, thậm chí hy sinh tính mạng để hết lòng

hết sức cứu chữa bệnh nhân, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Sự xuất hiện đúng lúc, kịp

thời của đội ngũ cán bộ chỉ huy các cấp trong Quân đội ở những “điểm nóng” đại dịch Covid-19

tại TP Hồ Chí Minh, Bình Dương... và nhiều tỉnh, thành phố trong năm 2021 là biểu hiện rõ nét

của tinh thần cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tiên phong đương đầu, dám hành

động vì lợi ích chung ngay cả đối với những việc khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ và trong

những tình huống nóng bỏng nhất. Đó là bằng chứng về “lòng son dạ sắt” của những cán bộ hội

tụ phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ thời bình.

Phương châm xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội “7 dám” theo tinh thần chỉ đạo

của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ là sự tiếp nối và cụ thể hóa những đặc trưng,

truyền thống tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ. Đây là sự phát triển tư duy lý luận với nội hàm mới, yêu

cầu mới, đòi hỏi ngày càng cao đối với phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ Quân đội trong

giai đoạn cách mạng mới. Khi cán bộ các cấp trong Quân đội hội tụ đầy đủ tâm-tầm-tài, uy tín và

luôn thấm nhuần, thể hiện tinh thần “7 dám”, Quân đội ta sẽ có nền tảng vững chắc, tạo động lực

mạnh mẽ để xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, có sức

mạnh tổng hợp và sức chiến đấu cao, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ

quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống. 

XÂY DỰNG, RÈN LUYỆN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Người chỉ

rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt

hay kém”. Cách đây 62 năm, trong “Thư gửi đồng bào và cán bộ xã Nam Liên” ngày 13-2-1962,

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tư tưởng bảo thủ là như những sợi dây cột chân cột tay người ta,

phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”. Người đã cổ

vũ tinh thần đổi mới, mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm trong phát triển sản xuất và xây dựng hợp

tác xã. Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải nêu gương cho quần chúng trong việc chủ

động, kiên quyết khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đường mòn lối cũ, chậm đổi mới.

Suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân

tộc và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về công tác cán bộ và khẳng định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.

Do vậy, công tác cán bộ luôn được Đảng xác định là khâu “then chốt của then chốt” trong công

tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhất quán xác

định bảo vệ cán bộ là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp

cách mạng của Đảng và dân tộc.

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra chủ trương: “Khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám

nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử

thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Quán triệt tinh thần đó, Bộ Chính trị đã

ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ

năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”, trong đó yêu cầu “cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương

mẫu, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó

khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung”.

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29-9-2023 của Chính phủ

“Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu

trách nhiệm vì lợi ích chung” đã quy định: “Cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,

dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung phải được khuyến khích, bảo vệ”.

Để việc bảo vệ cán bộ bằng thể chế ngày càng thiết thực và hiệu quả, Đảng ta và Tổng Bí

thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: Thể chế bảo vệ cán bộ không trái với các khuôn khổ, nguyên tắc

vận hành hệ thống chính trị, đặc biệt là Hiến pháp và Điều lệ Đảng; thể chế bảo vệ cán bộ phải

xác định được các chủ thể tham gia với những quy định chi tiết về quyền hạn, trách nhiệm và

mối quan hệ; thể chế bảo vệ cán bộ cần xác lập được các tiêu chí đánh giá cụ thể, phù hợp; thể

chế bảo vệ cán bộ cần xác lập được cơ chế kiểm soát cán bộ và phương pháp thực hiện đúng đắn.

Nhờ chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

về xây dựng đội ngũ cán bộ nên công tác cán bộ ở nước ta ngày càng đạt nhiều kết quả quan

trọng. Quy trình thực hiện công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch.

Điều đó minh chứng việc xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội “7 dám” của Tổng Bí

thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ là một chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến

lược; tình cảm, niềm tin và yêu cầu cao của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó cũng là kim chỉ nam, phương châm hành động trong xây dựng

đội ngũ cán bộ Quân đội ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng Quân đội

“tinh, gọn, mạnh” và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

BIẾN NHỮNG THÁCH THỨC THÀNH CƠ HỘI

 Đường lối ngoại giao Việt Nam được bạn bè quốc tế trân trọng và đánh giá cao là bởi ngoại giao

lấy cái gốc là văn hóa dân tộc và mang trong mình nội hàm văn hóa dân tộc. Chính “Văn hóa soi

đường cho quốc dân đi”. Văn hóa tạo ra sự tôn trọng và tình cảm gắn bó giữa các dân tộc, từ đó

thiết lập nên những mối quan hệ hữu nghị bền chặt, dài lâu. Văn hóa tạo nên một xã hội văn

minh, tiến bộ. Hướng tới một thế giới tiến bộ hơn, các quốc gia, trong đó có Việt Nam phải cùng

nhau phát triển, cùng nhau ứng phó với các thách thức mới, cùng nhau xóa nhòa sự cách biệt.

Thấm nhuần giá trị văn hóa dân tộc, chúng ta có thể biến những thách thức thành cơ hội, khó

khăn thành bàn đạp để đất nước ngày càng phồn vinh và văn minh.

Thế giới đang biến đổi với ngày càng nhiều thách thức an ninh phi truyền thống. Điểm tựa vững

chắc cho Việt Nam trong quan hệ đối ngoại ngày nay chính là nền tảng tư tưởng của Đảng, với

chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã được cụ thể hóa thành đường lối “ngoại

giao cây tre”. Cây tre mang hình ảnh biểu tượng của sự kiên định nhất quán, gắn liền với sự thích

ứng linh hoạt và chứa đựng sức mạnh bền bỉ từ cội nguồn dân tộc.

Điểm đặc sắc của “ngoại giao cây tre” là thông điệp về nền ngoại giao dựa trên nền tảng văn hóa

dân tộc “tre xanh xanh tự bao giờ, chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”. Đó là bản sắc, là sức

mạnh cội rễ, là sự giản dị chân thành, là tinh thần kiên cường của đất nước văn hiến ngàn năm.

Không chỉ là cơ sở làm nên thành tựu, vị thế của riêng Việt Nam trên trường quốc tế, “ngoại giao

cây tre” cũng trở thành trường phái ngoại giao mà các quốc gia đang phát triển khác có thể tham

khảo, để xây dựng chính sách đối ngoại ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống,

đồng thời chung tay góp phần tạo dựng thế giới trên tinh thần hữu nghị, hợp tác, cùng phát triển.

ÁP DỤNG “NGOẠI GIAO CÂY TRE” ĐỂ ỨNG PHÓ VỚI CÁC THÁCH THỨC MỚI

 Giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, đòi hỏi phải có nhiều biện pháp từ những lĩnh

vực khác nhau, như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… và đặc biệt là

ngoại giao. Với yêu cầu đó, đường lối ngoại giao cây tre; tiếp tục phát huy giá trị, bài học ý

nghĩa của mình trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống.

Một là bài học về sự kiên định, nhất quán. Các vấn đề biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, an

ninh năng lượng, an ninh kinh tế, an ninh mạng… sẽ dẫn tới vấn đề về thất nghiệp, đói nghèo,

bất bình đẳng, mất trật tự an toàn xã hội. Tiếp đó là những hệ lụy tiêu cực, làm cho xã hội bị

phân hóa và khiến cho các quốc gia ngày càng xa rời mục tiêu phát triển bền vững. Trong khi đó,

Việt Nam luôn hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để

vươn tới mục tiêu đó, chúng ta phải kiên định với con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa, kiên định

với nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn

về mục tiêu, con đường, lực lượng, phương thức và điều kiện bảo đảm để đấu tranh, xóa bỏ mọi

áp bức, bóc lột, bất công. Điều đó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân ta từ ngàn đời nay.

Thách thức an ninh phi truyền thống còn tạo ra nhiều vấn nạn tội phạm, như lợi dụng sự phát

triển của công nghệ thông tin và phương tiện đại chúng, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu

chống phá Đảng và Nhà nước. Để ứng phó, chúng ta cần phải kiên quyết, kiên trì trong hành

động đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch. Có như vậy, nền tảng tư

tưởng của Đảng được bảo vệ, nền độc lập, tự do của dân tộc không bị xâm phạm.

Hai là bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của

mọi quốc gia đều gắn liền với môi trường khu vực và quốc tế. Câu chuyện ứng phó với thách

thức an ninh phi truyền thống không chỉ là vấn đề của một quốc gia. Để giải quyết vấn đề này,

Việt Nam không thể tách rời cộng đồng quốc tế. Để tăng gấp bội “thực lực” ứng phó với các vấn

đề nan giải mà toàn thế giới đang phải đối mặt như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, đói

nghèo…, chúng ta luôn phải giương cao ngọn cờ kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,

sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.

Ở đây, sức mạnh dân tộc là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của dân tộc, bao

gồm toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Còn sức mạnh thời đại là yếu tố bên

ngoài, bao gồm các xu thế chính trị, kinh tế - xã hội trên thế giới như: Hòa bình, hợp tác và phát

triển, cách mạng khoa học công nghệ, xu thế phát triển bền vững... Bên cạnh đó, sức mạnh của

thời đại còn là sức mạnh của cộng đồng quốc tế ngày càng đồng thuận trong việc kiến tạo, củng

cố một trật tự thế giới dân chủ, công bằng, bình đẳng. Quan điểm về kết hợp sức mạnh dân tộc

với sức mạnh thời đại của Đảng xuất phát từ quan điểm của Mác về giải quyết mâu thuẫn, về mối

quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Theo đó, sức

mạnh dân tộc đóng vai trò quyết định thì sức mạnh thời đại giữ vai trò tạo điều kiện thuận lợi

trong công cuộc ứng phó với các vấn đề mới của xã hội.

Ba là bài học về tinh thần trách nhiệm, dấn thân. Chính tinh thần chủ động, tích cực trong đường

lối ngoại giao cây tre; đã mang tới bài học trong việc ứng phó với các vấn đề toàn cầu, chúng ta

phải thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và “cách mạng không ngừng”, “cách mạng triệt để”. Bởi thách

thức an ninh phi truyền thống là những thách thức lớn, mang tính thời đại và dài hạn. Chúng ta

cần phải chủ động, nhanh chóng xây dựng kế hoạch hợp tác với các quốc gia trên toàn thế giới

sẵn sàng ứng phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, không để bị động bất ngờ trong

mọi tình huống.

Bốn là lấy văn hóa làm nền tảng cho chiến lược phát triển. Trong cuộc chiến với các mối đe dọa

từ an ninh phi truyền thống, điều quan trọng nhất chúng ta cần phải có là nguồn lực nội sinh

vững chắc. Gốc của sức mạnh nội sinh chính là văn hóa, là bản sắc dân tộc.

ĐỐI PHÓ VỚI NHỮNG THÁCH THỨC AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG

 Toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ không chỉ đem tới cơ hội mà còn đưa đến những thách thức, đe

dọa đối với độc lập, chủ quyền của nhiều quốc gia, dân tộc. Quan niệm về an ninh quốc gia vì

thế được mở rộng về phạm vi, không còn bị giới hạn ở những vấn đề thuộc về an ninh quân sự.

Từ đó, thuật ngữ “an ninh phi truyền thống” đã xuất hiện để mô tả những biến đổi của môi

trường an ninh quốc tế. Các mối đe dọa của an ninh phi truyền thống thường tập trung vào hai

nhóm chính: Một là nhóm các quá trình hiện tượng tự nhiên và xã hội (an ninh môi trường, an

ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước…); hai là nhóm các hành vi tiêu cực do cá

nhân hoặc tổ chức thực hiện ảnh hưởng bất lợi đến xã hội (tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm

công nghệ cao…).

Đối mặt với những thách thức này, Đảng ta chủ động đề ra những quan điểm và đường lối, chiến

lược ứng phó. Tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc lần thứ nhất năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú

Trọng đã đúc kết: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên

cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy

truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn

hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối

ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “Cây tre

Việt Nam - gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển.

PHÁT HUY PHƯƠNG PHÁP “NGOẠI GIAO CÂY TRE” TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

 Thấm nhuần và phát huy phương pháp ngoại giao cây tre, nắm vững nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng

vạn biến”; luôn ““biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp” vì lợi ích

tối cao của quốc gia - dân tộc”, công tác đối ngoại trong thời gian tới cần làm tốt những nhiệm

vụ sau đây:

Một là, giữ vững nguyên tắc “ngoại giao cây tre”, công tác đối ngoại cần đổi mới tư duy, mạnh

dạn đột phá, sáng tạo, tìm ra cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác

mới, hướng đi mới. Vì vậy, cần phải chủ động, thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc

diễn biến tình hình khu vực, thế giới và các mối quan hệ quốc tế để kịp thời đề xuất các giải pháp

thích hợp. Nhấn mạnh yêu cầu này, đòi hỏi cán bộ ngoại giao “phải nhạy bén, dám nghĩ, dám

làm, có tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi khuôn khổ những tư duy cũ, những lĩnh

vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế”.

Tuy nhiên, dù có đổi mới cũng cần nắm vững nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, phải trên

cơ sở “giữ vững nguyên tắc, chắc chắn, thận trọng, kiên định mục tiêu và chân thành, khiêm

tốn”, mang đúng bản sắc cây tre Việt Nam “thân gầy guộc, lá mong manh” nhưng đầy bản lĩnh,

kiên cường, “lạt mềm buộc chặt”.

Hai là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa

bình, hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu

rộng; tăng cường hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước,

ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc vì lợi ích quốc gia - dân tộc.

Mục tiêu bao trùm của công tác đối ngoại hiện nay là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định;

đồng thời kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, toàn vẹn

lãnh thổ và các lợi ích chính đáng phù hợp với luật pháp quốc tế. Luôn kiên trì, bình tĩnh, sáng

suốt, khôn khéo, xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng

và có nhiều thách thức, đòi hỏi toàn ngành phải nỗ lực, cố gắng thực hiện tốt.

Ba là, chủ động, tích cực tham gia đóng góp, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương nhằm

nâng tầm công tác đối ngoại đa phương, coi đây là một định hướng chiến lược quan trọng. Phát

huy các kết quả quan trọng của các diễn đàn đa phương mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt là

phối hợp với các đối tác thúc đẩy việc thực hiện các sáng kiến đã được thông qua của Việt Nam.

Cần thể hiện vai trò nòng cốt trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN và tiếp tục tham gia

tích cực trong khuôn khổ hoạt động của Liên hợp quốc, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu

phát triển bền vững và tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.

Bốn là, mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác kinh tế,

văn hóa và hợp tác trên lĩnh vực chính trị, an ninh - quốc phòng với các nước; tiếp tục đưa các

mối quan hệ với các đối tác, trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu,

ổn định, hiệu quả; “ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc

đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp

tác, hữu nghị, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực”.

Năm là, coi trọng, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược, tập

trung đánh giá kỹ các xu hướng vận động trong chính sách và quan hệ giữa các nước lớn, các

nước láng giềng, khu vực, các xu hướng chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội trên thế giới và khu

vực, nhất là trước tác động như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi

số, kinh tế số, xã hội số và sự nguy hại của dịch bệnh và biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu, dự báo các kịch bản về những biến đổi trong trật tự thế giới, khu vực và chủ động

chuẩn bị các phương án để ứng phó. Nhận thức rõ những điểm mạnh, điểm yếu của mình; tỉnh

táo xác định giá trị và vị trí chiến lược của đất nước trong tình hình mới để hoạch định chiến

lược, chính sách cho phù hợp.

“SỨC MẠNH MỀM” TRONG CÔNG CUỘC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

 Sức mạnh mềm là một bộ phận quan trọng của sức mạnh tổng hợp quốc gia. Trong hai cuộc

kháng chiến chống giặc ngoại xâm, vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Việt Nam đã phát

huy hiệu quả sức mạnh mềm, nhất là tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến vì lợi ích quốc gia -

dân tộc Việt Nam, nhưng cũng vì những giá trị chung của nhân loại yêu chuộng hòa bình, độc

lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Sau chiến tranh, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất

nước, Việt Nam tiếp tục củng cố và phát triển sức mạnh mềm thông qua nỗ lực phát triển văn

hóa, kinh tế - xã hội, mở cửa, hội nhập quốc tế, theo đuổi đường lối, chính sách đối ngoại phù

hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, với xu hướng chung của cộng đồng quốc

tế. Sau gần 40 năm đổi mới, bây giờ là thời điểm phù hợp để Việt Nam tiếp tục phát huy hơn nữa

nguồn sức mạnh mềm của đất nước. So với các quốc gia trong khu vực, Việt Nam có nguồn sức

mạnh mềm khá lớn. Tuy nhiên, để nguồn sức mạnh mềm của Việt Nam đạt được mức độ có thể

tạo tác động tích cực hơn tới các đối tác, nhất là các đối tác lớn, cần sự nỗ lực rất nhiều của tất cả

người dân Việt Nam.