Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

Định hướng xây dựng tiềm lực quốc phòng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc

Xây dựng tiềm lực quốc phòng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm chủ động chuẩn bị, huy động mọi nguồn lực, tăng cường sức mạnh quốc phòng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vấn đề quan trọng này tiếp tục được đề cập trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với nhiều nội dung, yêu cầu mới cao hơn, nặng nề hơn; do đó, cần quán triệt, triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả ở các cấp, các ngành và toàn xã hội.



Phi công Trung đoàn 937, Sư đoàn 370 (Quân chủng Phòng không-Không quân) giảng bình sau chuyến bay huấn luyện. Ảnh: qdnd.vn

Tiềm lực quốc phòng là một nội dung cốt lõi trong nội hàm xây dựng nền quốc phòng toàn dân; đồng thời, là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của quốc gia. Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, tiềm lực quốc phòng là khả năng về vật chất và tinh thần ở trong nước và ngoài nước mà mỗi quốc gia, dân tộc có thể huy động nhằm mục tiêu bảo vệ đất nước, giữ vững hòa bình, ngăn ngừa mọi âm mưu và hành động gây chiến của các thế lực thù địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở mọi quy mô, hình thức (nếu xảy ra). Điều đó cho thấy, tiềm lực quốc phòng có vị trí rất quan trọng, cần thiết và là bộ phận không thể thiếu trong tổng thể sức mạnh quốc gia. Hiện nay, nội hàm của tiềm lực quốc phòng đã cơ bản thống nhất, gồm: tiềm lực chính trị; tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội; tiềm lực quân sự; tiềm lực khoa học và công nghệ; tiềm lực đối ngoại. Trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (sau đây gọi tắt là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới), Đảng ta tiếp tục nhất quán chủ trương xây dựng, tăng cường tiềm lực quốc gia và tiềm lực quốc phòng, sẵn sàng huy động một cách nhanh nhất, kịp thời, hiệu quả nhất để xử lý thắng lợi các nhiệm vụ quốc phòng trong mọi tình huống. Đặc biệt, ở phần nhiệm vụ và giải pháp, Chiến lược nhấn mạnh: “xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, chuẩn bị nguồn lực quốc gia”Như vậy, lần đầu tiên trong một văn bản chiến lược, Đảng ta khẳng định tiềm lực quốc phòng là bộ phận quan trọng gắn liền với tiềm lực và nguồn lực tổng hợp của quốc gia, điều đó tạo mối quan hệ hữu cơ, sự gắn kết chặt chẽ, không tách rời giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng đã được kết tinh trong Chiến lược, góp phần không ngừng gia tăng tiềm lực, sức mạnh tổng hợp mọi mặt của quốc gia, trực tiếp tăng cường cho sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới và được biểu hiện ở các vấn đề chủ yếu sau:

Xây dựng tiềm lực chính trị là vấn đề có vai trò quan trọng hàng đầu, quyết định khả năng xây dựng, huy động các tiềm lực khác để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đây là sự khẳng định mang tính nền tảng nhằm củng cố, tăng cường hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa; đạo đức, phẩm chất, năng lực của Đảng và hệ thống chính trị; sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng giá trị văn hóa, truyền thống và lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ sự khẳng định của Chiến lược, việc xây dựng tiềm lực chính trị muốn có hiệu quả, trước hết, cần coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Trong tình hình hiện nay, cùng với đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, Đảng phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các quan điểm sai trái thù địch, ngăn chặn đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ; nhất là đấu tranh có hiệu quả với tệ tham nhũng, tiêu cực, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”. Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng chính quyền điện tử. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, coi đây là nội dung tiềm lực có vai trò quyết định sẵn sàng huy động thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quốc phòng. Cùng với đó, phải thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, thực hiện quan điểm dựa vào dân, “dân là gốc” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Qua đó, tạo sự đồng thuận, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội, bao giờ cũng là nền tảng vật chất, tinh thần cốt yếu của đất nước nói chung và của nền quốc phòng toàn dân nói riêng. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nêu rõ, phải “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, toàn diện, bền vững; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh”. Đây là sự định hướng căn bản để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, các cấp, ngành, lực lượng và cả hệ thống chính trị xây dựng một trong những nội dung quan trọng nhất của tiềm lực quốc phòng - tiềm lực kinh tế, bởi xét cho cùng, kinh tế quyết định sức mạnh của quốc phòng; xây dựng tiềm lực kinh tế là chuẩn bị đất nước về kinh tế, sẵn sàng huy động để thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng. Vì vậy, hiện thực hóa nội dung này đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, coi trọng xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng và các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất lưỡng dụng; đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, biên giới, biển, đảo, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Cùng với đó, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặc biệt coi trọng đến phát triển văn hóa, coi văn hóa là sức mạnh nội sinh, động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược nhấn mạnh: phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam. Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số, công dân số. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, văn hóa vật thể, phi vật thể của các vùng, miền, đồng bào các dân tộc thiểu số, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền công nghiệp văn hóa. Song song với đó, cần chủ động quảng bá văn hóa dân tộc ra bạn bè quốc tế tạo sức hấp dẫn, lan tỏa, thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam, góp phần tăng cường sức mạnh của hòa bình, để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Đây là những vấn đề rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến nền tảng tinh thần xã hội, cần được quán triệt nghiêm túc, với tinh thần trách nhiệm cao.

Một trong những nhân tố cốt lõi, đặc trưng nhất của tiềm lực quốc phòng là tiềm lực quân sự, vì vậy cần phải xây dựng toàn diện cả về nhân tố con người và vũ khí, trang bị. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới xác định: kiên trì và thực hiện nghiêm, hiệu quả đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân trong điều kiện chiến tranh sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao. Đây là định hướng có tính nhất quán, xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; là vấn đề mang tính quyết định trong tạo và phát huy sức mạnh tổng hợp, sức mạnh răn đe và là bảo đảm tiên quyết để duy trì ổn định về mọi mặt, nhất là ổn định chính trị để đất nước phát triển nhanh, bền vững. Theo đó, cùng với tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược nhấn mạnh phải tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng và toàn dân, trang bị kiến thức quân sự cần thiết cho nhân dân, sẵn sàng vũ trang toàn dân trong các tình huống quốc phòng trọng điểm, nhất là tình huống đất nước phải tiến hành chiến tranh. Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Trước mắt, thực hiện tốt điều chỉnh tổ chức Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, gắn với bố trí lại lực lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các cấp, có chính sách phù hợp, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào phục vụ Quân đội. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân, tự vệ rộng khắp, chất lượng cao. Đồng thời, đầu tư nghiên cứu, cải tiến, sản xuất, mua sắm trang bị, vũ khí ngày càng tốt hơn, hiện đại hơn cho Quân đội, nhất là các loại vũ khí có tầm đánh xa, tầm cao, phương tiện không người lái, tác chiến ban đêm, tác chiến trong các điều kiện khó khăn, phức tạp. Tổ chức xây dựng các công trình quân sự, quốc phòng trọng điểm gắn với phát triển kinh tế - xã hội, ưu tiên các công trình bảo vệ biển, đảo, biên giới, địa bàn chiến lược. Chủ động nắm, đánh giá, dự báo tình hình, tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước để có chủ trương, đối sách xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng và giải quyết các tranh chấp, bất đồng; ngăn ngừa, triệt tiêu các nguy cơ xung đột và chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, không để bị động, bất ngờ.

Tiềm lực khoa học và công nghệ là động lực quan trọng bậc nhất để phát triển lực lượng sản xuất và nền sản xuất hiện đại; đồng thời, là mũi nhọn, khâu then chốt trong tiến trình hiện đại hóa Quân đội. Vì vậy, việc xây dựng tiềm lực quan trọng này được Chiến lược đề cập một cách rõ nét, theo hướng tập trung phát triển một số ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn, trực tiếp góp phần giải quyết các vấn đề cấp bách, phù hợp với điều kiện, nguồn lực của đất nước. Trong đó, ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, con người, quốc phòng, an ninh trọng yếu. Đẩy mạnh đầu tư, phát triển khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng; xây dựng nền công nghiệp quốc gia tự chủ, hiện đại, vững mạnh, lưỡng dụng, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, huy động công nghiệp dân sinh vào công nghiệp quốc phòng. Trước mắt, tích cực nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ quốc gia, quốc tế vào khoa học công nghệ trong lĩnh vực quân sự để hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là cho các lực lượng xây dựng tiến thẳng lên hiện đại, lĩnh vực quân sự mũi nhọn, trọng yếu. Cùng với đó, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển lý luận nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam, các loại hình tác chiến chiến lược, chiến dịch, các hình thức chiến thuật, phù hợp với điều kiện tác chiến mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, coi trọng nghiên cứu các loại hình tác chiến mới, tác chiến trên hướng biển, đảo, biên giới, các địa bàn chiến lược. Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, sẵn sàng huy động bảo đảm cho tác chiến thắng lợi (nếu chiến tranh xảy ra).

Đối ngoại là lĩnh vực có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần kiến tạo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Vì thế, trong xây dựng tiềm lực đối ngoại, Chiến lược chỉ rõ phải coi trọng xây dựng các chính sách đối ngoại và đội ngũ những người làm công tác đối ngoại trong điều kiện đất nước thời bình, sẵn sàng chuyển vào hoạt động đối ngoại khi có tình huống quốc phòng. Để hiện thực hóa, cần thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, không ngừng nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Thúc đẩy các mối quan hệ song phương đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững lâu dài, ưu tiên quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống và các nước khác, chủ động giải quyết các mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong lĩnh vực quốc phòng, đối ngoại và đối ngoại quốc phòng phải lấy mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ xung đột và chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” là trước hết. Đồng thời, chủ động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm công tác đối ngoại, chuẩn bị đầy đủ các phương tiện phục vụ công tác đối ngoại và các chính sách đối ngoại, sẵn sàng huy động tăng cường hoạt động đấu tranh ngoại giao trong các tình huống quốc phòng, an ninh.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Để tiềm lực quốc phòng trở thành nhân tố cốt lõi, cơ bản, tạo nên sức mạnh quốc phòng của quốc gia, đòi hỏi phải có sự gắn kết chặt chẽ các nguồn lực nêu trên trong một tổng thể thống nhất. Đi liền với đó, phải triển khai thực hiện với nhiều giải pháp đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới./.

ST.

Phương châm an ninh toàn diện trong bảo đảm an ninh quốc gia hiện nay

Phương châm an ninh toàn diện trong bảo đảm an ninh quốc gia đòi hỏi việc nhận thức và giải quyết vấn đề phải đặt trong tính tổng thể, song đồng thời thấy được các mặt, các yếu tố, các lĩnh vực trọng tâm, cấp bách để Đảng và Nhà nước ta có những định hướng, giải pháp phù hợp nhằm giữ vững an ninh quốc gia trong giai đoạn hiện nay.

Hiện nay, trên thế giới, vấn đề “an ninh” được tiếp cận ở nhiều phương diện khác nhau, điển hình như: an ninh tập thể (collective securty); an ninh chung (common security); an ninh con người (human security); an ninh toàn diện (comprehensive security)… Quan điểm “an ninh toàn diện” được chính thức đưa ra dưới thời chính phủ Ohira ở Nhật Bản vào giữa thập niên 70 của thế kỷ XX để chỉ các mối đe dọa quân sự và phi quân sự đối với sự phát triển của một quốc gia. Để đối phó với những mối đe dọa đó, theo quan điểm này, cần huy động tổng hợp nguồn lực, từ nguồn lực chính trị đến nguồn lực kinh tế, văn hóa, ngoại giao; trong đó, nguồn lực kinh tế được coi là công cụ hữu hiệu, có vai trò quan trọng trong đối phó với các vấn đề liên quan đến an ninh. Quan điểm này được cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á ủng hộ, do đó, được mở rộng từ phạm vi an ninh quốc gia đến an ninh khu vực với sự ra đời của Tuyên bố Khu vực hòa bình, tự do và trung lập được ký kết vào ngày 27-11-1971, tại Malaysia, với mong muốn hòa bình, ổn định, cũng như ý thức về tự cường khu vực. Với tinh thần đó, năm 2003, Tuyên bố về Thỏa ước ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) II (Tuyên bố Bali II) nhấn mạnh: “Cộng đồng an ninh ASEAN tán thành nguyên tắc an ninh toàn diện như là những khía cạnh rộng về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội. Năm 2007, Hiến chương của ASEAN tiếp tục khẳng định: “Đối phó hữu hiệu với tất cả các mối đe dọa, các loại tội phạm xuyên quốc gia và các thách thức xuyên biên giới, phù hợp với nguyên tắc an ninh toàn diện”.

Phương châm “an ninh toàn diện” được tiếp cận, xem xét trên nhiều mặt, từ an ninh quốc gia, an ninh khu vực, an ninh quốc tế; từ an ninh truyền thống đến an ninh phi truyền thống; từ an ninh chính trị đến an ninh kinh tế, an ninh văn hóa - tư tưởng, an ninh con người, an ninh mạng… Cần phải nhận rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của từng loại an ninh để có những chính sách, biện pháp xây dựng và phát huy cho phù hợp. Song, yếu tố đầu tiên của an ninh là an ninh quốc gia, là an ninh đối với chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của nhà nước và nhân dân. Việc theo đuổi an ninh khu vực và quốc tế phải dựa trên cơ sở an ninh quốc gia; vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống quan hệ mật thiết với nhau. Những vấn đề an ninh phi truyền thống, như: an ninh môi trường, an ninh lương thực, an ninh sức khỏe... ngày càng có vai trò quan trọng trong bối cảnh hiện nay.

Nguyên tắc xác định phương châm an ninh toàn diện trong bảo đảm an ninh quốc gia

Luật An ninh quốc gia (2004) quy định: “An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Theo đó, “bảo đảm an ninh quốc gia” là sự cam đoan, làm cho an ninh quốc gia có được sự vững chắc, mạnh mẽ; phát huy sức mạnh tổng hợp, củng cố mọi tiềm lực và chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn từ sớm, từ xa, đấu tranh làm thất bại các hoạt động ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.

Diễu binh trong Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát cơ động_Ảnh: TTXVN

Từ Đại hội VII, Đảng ta đã chỉ ra những nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ, của an ninh quốc gia, bao gồm: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về mặt kinh tế, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ nạn quan liêu, nguy cơ “diễn biến hòa bình”. Các nguy cơ này, cho đến nay, vẫn còn hiện hữu, thậm chí có một số mặt diễn biến có tính chất phức tạp hơn. Bên cạnh đó là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự khó khăn trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, nguy cơ mất ổn định chính trị - xã hội ở một số địa bàn. Những mối đe dọa về an ninh phi truyền thống xen lẫn các mối đe dọa an ninh truyền thống đang dần gia tăng. Đó là sự căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, bệnh dịch, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,… tiếp tục diễn biến phức tạp”.

Trong những năm gần đây, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục diễn ra gay gắt, trên nhiều lĩnh vực, phạm vi ảnh hưởng rộng; vấn đề hợp tác và xung đột, chiến tranh và hòa bình tồn tại đan xen nhau, tạo ra nhiều thách thức đối với việc bảo đảm an ninh quốc gia. Vì vậy, phải thật sự quán triệt phương châm an ninh toàn diện, nghĩa là quan tâm chú ý thực hiện trên mọi phương diện, mọi lĩnh vực, tránh phiến diện, một chiều. Điều này phải được thể hiện từ mục tiêu, quan điểm, chính sách đến nguyên tắc, nhiệm vụ, biện pháp bảo đảm an ninh quốc gia; từ việc kết hợp giữa phòng ngừa và đấu tranh; từ lý luận về bảo đảm an ninh quốc gia đến thực tiễn hiện thực hóa điều đó...

Phương châm an ninh toàn diện trong bảo đảm an ninh quốc gia cần thiết phải chú ý đến mối liên hệ giữa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, coi đây là hai vấn đề gắn bó chặt chẽ và cần thiết giải quyết đồng bộ. Trong Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia của Đảng nhấn mạnh: “Sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống”.

Những mối liên hệ đến an ninh quốc gia, bảo đảm an ninh quốc gia tuy khách quan, phổ biến, nhưng đồng thời cũng có tính đa dạng, có vai trò, vị trí, tầm quan trọng khác nhau. Bởi vậy, cách nhìn nhận tổng thể khi quán triệt phương châm an ninh toàn diện trong bảo đảm an ninh quốc gia đòi hỏi cần tiến hành vừa bao quát về diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm, xác định được yếu tố, lĩnh vực, mặt hoạt động nào là cơ bản, cần thiết, cấp bách là bên trong, chủ yếu, bản chất, phải tập trung giải quyết trước; yếu tố, lĩnh vực, mặt hoạt động nào là bên ngoài, không bản chất, có thể giải quyết sau.

Phương châm an ninh toàn diện đòi hỏi trong xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, phải “đặt độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết, đồng thời phải luôn coi trọng lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân”; chủ động tiến công, tích cực phòng ngừa, lấy phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào dân, yên dân là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. Đặc biệt, trong giải quyết các vụ, việc phức tạp về an ninh quốc gia, phải từ cơ sở, dưới sự chỉ huy, chỉ đạo của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương theo phương châm “chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ và hậu cần tại chỗ”; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó công an nhân dân đóng vai trò tham mưu, nòng cốt.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Phải xây dựng và lãnh đạo vững chắc lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân, bảo đảm đánh thắng bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào”. Theo đó, một nguyên tắc quan trọng trong bảo đảm an ninh quốc gia từ phương châm an ninh toàn diện chính là “công tác bảo vệ an ninh quốc gia phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của các cấp, các ngành; người đứng đầu cấp ủy, chính quyền chịu trách nhiệm chính”.

Việc bảo đảm an ninh quốc gia theo phương châm an ninh toàn diện thời gian qua ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu. Theo đó, chúng ta đã “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, để phát triển đất nước… Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, thế trận lòng dân được chú trọng”. Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, việc bảo đảm an ninh quốc gia còn có những hạn chế nhất định, như lý luận về bảo đảm an ninh quốc gia chưa hoàn thiện; công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược có lúc thiếu chủ động; tội phạm và các tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; an ninh trên một số địa bàn chưa thật vững chắc, nhất là an ninh mạng, an ninh trong đầu tư nước ngoài. Một số yếu tố ảnh hưởng đến an ninh, an toàn con người chưa được quan tâm xử lý triệt để. Việc kết hợp giữa bảo đảm an ninh quốc gia với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở một số địa phương thiếu chặt chẽ, hiệu quả.

Lực lượng hải quan và biên phòng phối hợp tuần tra tại cảng Đà Nẵng_Ảnh: TTXVN

Phát huy vai trò của phương châm an ninh toàn diện trong bảo đảm an ninh quốc gia hiện nay

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu này đã thể hiện rõ tầm nhìn tổng thể, toàn diện trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Đảng ta; đồng thời, xác lập nguyên tắc hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia: “Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động quốc phòng, an ninh và đối ngoại”. Cùng với mục tiêu, nguyên tắc bảo đảm an ninh quốc gia, thì các biện pháp để thực hiện bảo đảm an ninh quốc gia cũng cần thiết phải được xem xét một cách toàn diện.

Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong bảo đảm an ninh quốc gia theo phương châm an ninh toàn diện, cần đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, nhận thức một cách toàn diện, tổng thể các vấn đề có liên quan đến bảo đảm an ninh quốc gia, hoàn thiện lý luận về quốc phòng, an ninh; gắn chặt lý luận với thực tiễn; nắm tình hình một cách khách quan, đầy đủ, tránh bị động, thiếu thông tin; kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm an ninh quốc gia với các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội; tuyệt đối không để xảy ra tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế cục bộ mà coi nhẹ an ninh; xem xét và chủ động có biện pháp giải quyết tất cả những yếu tố, lĩnh vực, mặt hoạt động, những nguy cơ đối với an ninh quốc gia, từ an ninh quốc gia tới khu vực và an ninh quốc tế; từ an ninh truyền thống đến an ninh phi truyền thống; lưu ý đến những vấn đề mới nảy sinh trong bảo đảm an ninh quốc gia, không để sót phương diện nào.

Thứ hai, trong quá trình nghiên cứu, xem xét, giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo đảm an ninh quốc gia, cần có sự phân loại, xác định các nội dung cần thiết, trọng tâm, cấp bách và chủ động có những quan điểm, giải pháp tác động phù hợp. Kiên định bảo đảm an ninh quốc gia theo phương châm đặt độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; giữ vững nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với việc bảo đảm an ninh quốc gia; kịp thời xử lý có hiệu quả những vấn đề chiến lược, cấp bách, phức tạp nổi lên trên lĩnh vực an ninh; phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; giữ vững thế chủ động chiến lược, không để bị động, bất ngờ, không để xảy ra khủng bố, phá hoại; kiềm chế gia tăng tội phạm, tạo sự chuyển biến tích cực về an ninh, trật tự tại các địa bàn chiến lược; chủ động phòng ngừa từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy”, trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc. Nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số an ninh, an sinh, an toàn quốc gia nhằm phát triển bền vững; rà soát, bổ sung, điều chỉnh, luyện tập, diễn tập các phương án bảo vệ an ninh quốc gia; xây dựng đề án bảo đảm an ninh, trật tự ở các cấp, các lĩnh vực.

Thứ ba, xây dựng công an, quân đội - lực lượng nòng cốt trong bảo vệ an ninh quốc gia - cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, trên cơ sở phát huy vai trò, nguồn lực của các tầng lớp nhân dân trong xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước. Thúc đẩy phát triển các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh,… trong một chỉnh thể gắn kết, thống nhất, phối hợp với các yếu tố của khoa học - công nghệ của thời đại, như xã hội số, công dân số, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp, nguồn lực quan trọng trong bảo đảm an ninh quốc gia. Đồng thời, xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo trong hệ thống chính trị, trên các lĩnh vực có tầm nhìn chiến lược, tư duy sáng tạo, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt đẹp, tinh thần nêu gương, nói đi đôi với làm; có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có kiến thức về quốc phòng - an ninh, nhận thức đúng đắn về bảo vệ an ninh quốc gia để không chỉ bảo đảm được an ninh, quân sự, mà còn bảo đảm vững chắc toàn diện trên các trận địa an ninh chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, ngoại giao...; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo đảm an ninh quốc gia. Thúc đẩy hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Để giải quyết các vấn đề an ninh, trong đó có an ninh môi trường, an ninh năng lượng… thì không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được. Theo đó, thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Đồng thời, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc./.

ST.

Mấy giải pháp đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam

Dân chủ, nhân quyền là những giá trị của văn minh nhân loại, luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội và con người. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng hòng chống phá cách mạng Việt NamVì vậy, cần nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc về vấn đề này.

Dân chủ và nhân quyền có mối quan hệ mật thiết với nhau; trong đó, nhân quyền là nền tảng, lý tưởng của dân chủ; ngược lại, dân chủ là điều kiện để thực hiện quyền con người, là thể chế chính trị bảo đảm, thực thi quyền con người. Mỗi giai đoạn phát triển của dân chủ đều phản ánh sự tiến bộ của nhân quyền, dân chủ càng phát triển thì nhân quyền càng được khẳng định. Theo học thuyết Mác - Lênin, quyền con người là quyền của tất cả mọi người, xuất phát từ phẩm giá vốn có của con người được pháp luật công nhận, tôn trọng, bảo vệ. Với việc thông qua Hiến chương Liên hợp quốc (ngày 26/6/1945) và Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (ngày 10/12/1948), lần đầu tiên trong lịch sử, quyền con người được công nhận, bảo vệ rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới; đồng thời, đặt ra nghĩa vụ, trách nhiệm của các quốc gia phải duy trì các biện pháp bảo vệ và ngăn chặn vi phạm.

Đối với Việt Nam, việc bảo đảm dân chủ, nhân quyền được thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp, pháp luật và luôn được đề cao, nỗ lực thực thi trong thực tiễn. Đảng ta khẳng định: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân,… bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”1 và “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”2. Tuy nhiên, với âm mưu, dã tâm xấu độc, các thế lực thù địch, phản động luôn lợi dụng, chính trị hóa vấn đề dân chủ, nhân quyền nhằm hiện thực hóa chiến lược “Diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng Việt Nam thông qua một số luận điệu, chiêu bài, như:

Thứ nhất, họ cho rằng, Việt Nam muốn thực sự dân chủ và phát triển, cần thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đây là luận điệu mang tính mị dân, dễ gây sự ngộ nhận, mơ hồ, lẫn lộn nhằm tạo điều kiện cho việc ra đời, công khai, hợp pháp hóa các tổ chức chính trị đối lập; từ đó, hướng lái xã hội, tiến tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

Thứ hai, họ xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ dẫn đến tập trung quan liêu, độc tài, mất dân chủ; bác bỏ những nội dung cốt lõi, nguyên tắc cơ bản trong đường lối chính trị; vu cáo Đảng “độc đoán, toàn trị” và cho rằng: trong quá khứ Đảng có được nhiều thành công nhưng đến nay đã hết vai trò lịch sử,… vì vậy, cần xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi Đảng ta phải từ bỏ vai trò độc quyền lãnh đạo, chúng coi đây là vấn đề “căn bản”, “then chốt” của chế độ dân chủ.

Thứ ba, họ triệt để lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trước hết, họ tìm mọi cách tạo “môi trường”, cung cấp tài chính, phương tiện thành lập các tổ chức chính trị đối lập dưới danh nghĩa “xã hội dân sự”, lấy tên gọi, khẩu hiệu rất “ấn tượng”, như: “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Hội Cựu tù nhân lương tâm”, “Hội Phụ nữ nhân quyền”, “Hội Bầu bí tương thân”, “Hội Nhà báo độc lập”, “Hội Anh em dân chủ”,... để tập hợp lực lượng. Bên cạnh đó, một số phần tử chống đối tự xưng đại diện cho các tổ chức “xã hội dân sự” tham gia các buổi điều trần ở nước ngoài, vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, kêu gọi trả tự do cho số đối tượng chống đối trong nước bị bắt vì vi phạm pháp luật. Đặc biệt, chúng triệt để lợi dụng những yếu kém, sai phạm, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên để tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ uy tín, thanh danh của Đảng.

Thứ tư, họ tập trung khoét sâu vào vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, kích động ly khai ở các vùng dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoạt động này được thực hiện thường xuyên, liên tục, lúc bí mật, lúc công khai, có sự cấu kết chặt chẽ giữa lực lượng chống đối ở trong nước với các tổ chức phản động, khủng bố ở nước ngoài nhằm làm mất ổn định tình hình, gây tiếng vang, tạo cớ Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của ta. Điển hình như vụ khủng bố tấn công vào trụ sở Ủy ban nhân dân xã Ea Ktur và Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, ngày 11/6/2023.

Có thể thấy, âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch rất nham hiểm, là một “mũi nhọn” trong Chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Do đó, với vai trò là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, Quân đội cần tích cực, chủ động tham gia đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền  chống phá cách mạng nước ta; trong đó, tập trung thực hiện có hiệu quả một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau.

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân chủ, nhân quyền. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức của toàn dân, toàn quân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, địa bàn dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo trong nhận diện và đấu tranh với các thủ đoạn, hoạt động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá cách mạng nước ta. Nội dung tuyên truyền, giáo dục tập trung vào quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân chủ, nhân quyền; trọng tâm là quyền bình đẳng, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng của nhân dân; thực tiễn việc bảo đảm, thực thi các quyền công dân trong xã hội, v.v. Thông qua đó, nêu cao cảnh giác, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Tăng cường đoàn kết lương giáo, vận động đồng bào tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”, cùng nhau xây dựng quê hương, đất nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm của Đảng: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam”3. Đồng thời, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, từng cá nhân trong tham gia đấu tranh với việc lợi dụng, chống phá của kẻ địch.

Hai là, xây dựng, bồi dưỡng lực lượng nòng cốt tham gia đấu tranh, phản bác quan điểm, luận điệu sai trái lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị; trong đó, Quân đội là một trong những lực lượng nòng cốt. Vì vậy, từng cơ quan, đơn vị trong toàn quân, nòng cốt là Ban Chỉ đạo 35, lực lượng 47 các cấp cần phát huy trò tiên phong, xung kích tập hợp, hướng dẫn các lực lượng khác tham gia đấu tranh. Cấp ủy, chỉ huy các cấp chủ động xây dựng kế hoạch, xác định nội dung, hình thức tập huấn, bồi dưỡng toàn diện cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là lực lượng nòng cốt, các “hạt nhân” cả về trình độ, kiến thức lý luận và phương pháp, kỹ năng đấu tranh; kinh nghiệm khai thác, sử dụng các trang mạng xã hội (facebook, zalo, telegram,…) để lan tỏa, đấu tranh. Thường xuyên cập nhật âm mưu, thủ đoạn, những vấn đề mới nảy sinh về dân chủ, nhân quyền, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo sinh sống; phân tích, đánh giá, xử lý kịp thời, chính xác, hiệu quả các tình huống.

Ba là, chủ động phối hợp với các lực lượng trong nắm, dự báo tình hình, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Trong đó, tập trung nắm, dự báo chính xác mục tiêu, âm mưu, thủ đoạn, những vấn đề bức xúc, bất đồng, mâu thuẫn,… của nhân dân mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng kích động; quy mô, hình thức, phương thức, kế hoạch, phương án chống phá; đối tượng cầm đầu, thành phần, lực lượng tham gia; nguồn tài chính, vật chất, phương tiện, vũ khí, trang bị sử dụng; thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động chống phá, v.v. Từ đó, tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ quan chức năng có phương án, đối sách xử lý phù hợp. Để nâng cao chất lượng nắm, dự báo cần rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, quy định phối hợp giữa các lực lượng trong nắm tình hình an ninh chính trị trên địa bàn. Cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ an ninh thuộc các cơ quan, đơn vị thường xuyên phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh ở địa phương, cơ sở nắm chắc, dự báo đúng tình hình. Đặc biệt, cần chú trọng dựa vào hệ thống chính trị cơ sở và nhân dân kịp thời phát hiện, nắm bắt, phân loại các đối tượng và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Bốn là, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở chính trị trên địa bàn vững mạnh. Căn cứ vào tình hình và điều kiện cụ thể của từng địa bàn, các đơn vị Quân đội, nhất là các đoàn kinh tế - quốc phòng chủ động tham mưu, phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể địa phương tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội; các chính sách an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước. Tăng cường hỗ trợ, hướng dẫn, giúp nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo gắn với giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo tốt đẹp của đồng bào các dân tộc, đặc biệt là trên địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Đồng thời, tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở địa phương vững mạnh; phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Quân đội tham gia đảm nhiệm các chức danh cán bộ ở địa phương, cơ sở; làm tốt công tác phát triển Đảng, xóa tình trạng thôn, bản trắng đảng viên, chi bộ. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng cụm thôn, bản ở khu vực biên giới, vùng dân tộc thiểu số, tôn giáo; xây dựng lực lượng nòng cốt trong vận động, hướng dẫn nhân dân thực hiện các phong trào, cuộc vận động trên địa bàn, xây dựng “phòng tuyến nhân dân”, góp phần đấu tranh, phòng ngừa từ sớm, từ xa.

Năm là, thường xuyên củng cố quốc phòng, an ninh, chủ động xây dựng, luyện tập phương án phối hợp giải quyết các “điểm nóng” trên địa bàn. Đây là giải pháp trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả Quân đội tham gia đấu tranh với các hoạt động lợi dụng vấn đề về “dân chủ”, “nhân quyền”. Theo đó, các cơ quan, đơn vị tiếp tục xây dựng, củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân mà nòng cốt là “thế trận lòng dân” vững chắc trên từng địa bàn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Chủ động tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng phương án, kế hoạch phòng, chống bạo loạn, khủng bố; thường xuyên luyện tập, bổ sung hoàn chỉnh phương án sát đặc điểm, tình hình thực tiễn. Quá trình thực hiện, các đơn vị chú trọng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, kỷ luật của Quân đội, pháp luật Nhà nước; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc phức tạp liên quan đến dân chủ, nhân quyền, không để hình thành các “điểm nóng”, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn./.

ST.

Phê phán thói vô cảm, “vì dân suông” của một bộ phận cán bộ, đảng viên

Một trong những biểu hiện suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra là: “Không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân”; “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”.

Không chỉ vậy, một số cán bộ, đảng viên thời nay còn có biểu hiện mị dân, “vì dân suông”, từ đó tạo khoảng cách với dân, gây mất niềm tin trong nhân dân. Do đó, chúng ta phải đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện vô cảm, “vì dân suông” để góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành, mẫn cán, thật sự vì dân, vì nước.

Tinh vi những biểu hiện mị dân, “vì dân suông”

Phê phán thói tiền hậu bất nhất, nói nhiều làm ít, dân ta có câu ca dao: “Nói chín thì phải làm mười/ Nói mười làm chín, kẻ cười người chê”. Hàm ý sâu sắc hơn, câu ca dao muốn nhắn nhủ, nhắc nhở con người phải luôn coi trọng giữ gìn chữ “tín”, nói đi đôi với làm; còn nếu ai mà nói nhiều hơn làm, dù làm chỉ kém nói một chút thôi thì cũng đáng coi thường, chê trách.

Phê phán thói vô cảm, “vì dân suông” của một bộ phận cán bộ, đảng viên
 Ảnh minh họa: Dân trí 

Thời nay, một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện chỉ nói mà không làm, chỉ hứa rồi để đấy, chỉ thề thốt mà không hành động, người dân gọi đó là những kẻ nói suông, hứa suông, thề suông.

Cách đây 8 năm, ngày 27-5-2016, phát biểu tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác dân vận, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ cảnh báo một số cán bộ, đảng viên có thái độ coi thường quần chúng, không lắng nghe ý kiến, không học hỏi người lao động, mà còn có biểu hiện “vì dân suông”, tức là chỉ nói mà không làm, hay hô hào, kêu gọi vì dân, nhưng lại không có những việc làm cụ thể, thiết thực để mang lại quyền, lợi ích chính đáng cho nhân dân.

Những biểu hiện “vì dân suông” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn ra khá tinh vi. Có cán bộ gần dân mà vẫn không hiểu lòng dân. Những cán bộ này tuy đến với dân, nhưng chỉ tuyên truyền, vận động, giải thích cho dân theo ý chỉ đạo áp đặt của mình mà không thành tâm lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân. Giả sử nếu có lắng nghe thì cũng “nghe để biết”, nhưng thực chất là bỏ ngoài tai, không tìm cách giải quyết thấu đáo những ý kiến, băn khoăn, vướng mắc của dân và cả những mong muốn chính đáng của bà con. Trong cuộc tiếp xúc cử tri ngày 14-10-2023 tại Hà Nội trước kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc nhở cán bộ, đảng viên nói chung, đại biểu Quốc hội và HĐND nói riêng cần khắc phục bệnh hình thức, khi tiếp xúc, đối thoại với dân thì phải “tuyệt đối tránh tình trạng hình thức, ngồi ra vẻ chú ý lắng nghe nhưng lại không nghe”.  

Ngoài ra còn có những cán bộ tuy bề ngoài gần dân mà thực chất lại sống xa dân. Số cán bộ này khi gặp dân thì vẫn “mồm năm miệng mười”, cố gắng không làm mếch lòng người khác, nhưng bản thân và gia đình lại có một cuộc sống biệt lập, khác xa người dân. Nhờ các mối quan hệ “bôi trơn” và biết kiếm chác mà họ có nhà to, xe đẹp, thu nhập khủng, gia đình ung dung hưởng thụ một cuộc sống đề huề trong nhung lụa, mặc cho bao người dân lao động vẫn quanh năm tảo tần, lam lũ vì miếng cơm, manh áo. Với họ, tiếp xúc với dân chỉ là nghĩa vụ đơn thuần chứ không thực sự tâm huyết với dân, chung sức đồng lòng gánh vác bao nỗi lo toan hằng ngày của người dân. Bởi nếu thương yêu quần chúng cần lao, họ đâu lợi dụng kẽ hở pháp luật, đục nước béo cò để nhăm nhăm vun vén lợi lộc cho cá nhân, cốt để vinh thân phì gia. 

Điều đáng nói, những động thái “vì dân suông” thường được bao bọc một lớp hào nhoáng, tinh vi mà không phải người dân nào cũng dễ nhận diện. Hơn nữa, để dễ bề che mắt thiên hạ, bên ngoài thì bao giờ họ cũng đề cao quan điểm “dĩ dân vi bản” (lấy dân làm gốc) và luôn chủ định làm một vài việc bề nổi nào đó nhằm vừa tránh bị mang tiếng là không thân thiện với dân, vừa phần nào lấy lòng dân. Suy cho cùng, một khi cán bộ coi việc gần dân chỉ là tấm bình phong, là màn kịch để che giấu những mục đích, động cơ thiếu trong sáng của mình thì đó là một thứ gần dân hình thức, giả dối, thực chất là mị dân.

Tác hại của thói vô cảm, “vì dân suông”

Thói vô cảm, “vì dân suông” là một trong những biểu hiện suy thoái đáng báo động đối với một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đề cập vấn đề này, Đảng ta cho rằng, trong điều kiện hiện nay, nếu không chăm lo một cách cụ thể, thiết thực đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thì dù có nói bao nhiêu về quan điểm quần chúng, về quyền làm chủ của nhân dân cũng đều là vô nghĩa và không có sức thuyết phục.

Sau khi Liên Xô vừa sụp đổ, một số học giả nước này đã làm cuộc điều tra xã hội học rất đáng suy ngẫm. Trong phiếu điều tra, trả lời câu hỏi “Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho ai?", thì có tới 85% ý kiến cho là đại diện của giới cán bộ quan chức nhà nước quan liêu, chỉ có 11% cho là đại diện của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Một đảng cộng sản cầm quyền mà tỷ lệ giới chức quan liêu, xa rời quần chúng, vô cảm với dân lớn đến mức nghiêm trọng như vậy, thế nên lúc gặp sóng gió không được nhân dân ủng hộ và bị các thế lực khác tước quyền lãnh đạo cũng không có gì khó hiểu!

Đâu chỉ có chuyện cán bộ sống quan liêu, “vì dân suông” xảy ra bên Liên Xô, mà ngay ở nước ta cũng cần nhắc lại vụ việc một bộ phận cán bộ, đảng viên vô cảm, sống xa dân nên để lại một bài học xương máu về mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Năm 1997, một bộ phận không nhỏ nông dân tỉnh Thái Bình tụ tập đông người phản đối cấp ủy, chính quyền có nguyên nhân chủ yếu là do quyền làm chủ của người dân đã bị vi phạm nghiêm trọng, chính quyền cơ sở huy động quá sức dân, thậm chí lạm thu nhiều khoản bất chính, trong khi đó một số cán bộ chủ chốt ở địa phương giàu lên một cách bất minh và lại có lối sống xa hoa, kệch cỡm, nên càng gây bất bình trong nhân dân. Sau sự kiện đáng buồn này đã có hơn 2.000 cán bộ, đảng viên vi phạm bị xử lý kỷ luật, hơn 70% số tổ chức cơ sở đảng phải thay từ một nửa đến hai phần ba cấp ủy. 

Nhắc lại những ví dụ nêu trên để thấy rằng, quần chúng nhân dân nhìn nhận, đánh giá Đảng chủ yếu là thông qua phẩm chất, tư cách, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Nói quần chúng giảm sút lòng tin đối với Đảng không phải là giảm sút lòng tin đối với lý tưởng, sự nghiệp của Đảng, mà là đối với những cán bộ, đảng viên đã thoái hóa, hư hỏng và không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo, chỉ biết lo vun vén lợi lộc cho bản thân, gia đình mà không có hành động thiết thực để góp phần chăm lo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Cán bộ, đảng viên cần trọng dân thực tâm, chăm lo cho dân thật lòng

Từ những thăng trầm, hưng vong của các vương triều phong kiến Việt Nam trong lịch sử, từ những thành bại trong việc huy động lòng dân, phát huy sức dân trong các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha đã đúc kết những lời thấm thía và trở thành bài học nhắc nhở muôn đời cho con cháu hôm nay và mai sau, đó là: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi); “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước” (Trần Hưng Đạo); nước phải lấy dân làm gốc, vì “Gốc có vững, cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (Hồ Chí Minh).

Cách đây 12 năm, ngày 7-6-2012, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Quy định số 101-QĐ/TW “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, đã quy định 7 nội dung cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm nêu gương, trong đó có 2 nội dung liên quan đến ý thức, tác phong, phong cách ứng xử của cán bộ với nhân dân, gồm: “Nêu gương về tác phong sâu sát thực tế, gần gũi để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng”; “Nêu gương về ý thức phục vụ nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, làm việc với thái độ khách quan, công tâm, tập trung sức giải quyết những lợi ích chính đáng của nhân dân”. Thực chất của những quy định này là yêu cầu cán bộ, đảng viên không vô cảm, không “nói suông” với nhân dân, không sống xa dân.

Hơn ai hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thời nay phải khắc cốt ghi tâm lời Bác Hồ chỉ dẫn: “Được lòng dân, thì việc gì cũng làm được, trái ý dân, thì chạy ngược chạy xuôi”. Nếu cấp ủy đảng, chính quyền nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng mà cứ phải tất ta tất tưởi “chạy ngược chạy xuôi” bởi lòng dân phân tâm, ly tán thì nguy cơ tan rã niềm tin của dân với Đảng, với chế độ ta là khó tránh khỏi. Đó là bài học không thể xem thường.

Muốn được lòng dân thì cán bộ, đảng viên phải thực tâm nói đi đôi với làm, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin, tuyệt đối tránh những biểu hiện vô cảm, mị dân, “vì dân suông”. Khi được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, nhất định khối sức mạnh đại đoàn kết toàn dân sẽ được củng cố, tăng cường và trở thành sức mạnh dời non lấp biển, từ đó chúng ta có thể đạp bằng mọi chông gai, vượt qua mọi khó khăn, thử thách trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang từng nhấn mạnh: “Chúng ta không sợ bất cứ kẻ thù nào dù là hung bạo nhất, chỉ sợ mất lòng dân. Lòng dân, đó là quốc bảo dựng nước và giữ nước Việt Nam”./.

ST.

Phê phán luận điệu xuyên tạc quan điểm của V.I.Lênin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”

Một trong những luận điểm khoa học cơ bản trong học thuyết của V.I.Lênin về bảo vệ Tổ quốc là: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”. Tuy nhiên, sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch, phản động đã bóp méo, xuyên tạc quan điểm đúng đắn của Lenin.

Tỉnh táo trước âm mưu xuyên tạc không cần bảo vệ Tổ quốc XHCN

Ngay từ năm 1916, đêm trước của cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga, Lênin chỉ rõ: “Không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hòa XHCN, thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp thống trị không bao giờ nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà còn có khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để tự bảo vệ lấy mình”; và: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”. Bởi tự vệ là để bảo vệ chính quyền và bảo vệ các thành quả cách mạng đã giành được là một tất yếu khách quan, mang tính chính nghĩa, đó là một trong những vấn đề có tính quy luật của cách mạng vô sản. Lenin còn cho rằng, “không phải cách mạng có thể biết ngay được cách tự vệ”, vì “cách tự vệ là một khoa học và nghệ thuật của cách mạng, cách mạng chỉ có thể đi tới thành công đến nơi đến chốn khi biết cách tự vệ đúng".

Sau khi tư tưởng “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” của Lênin ra đời đã bị các thế lực thù địch, phản động chống phá quyết liệt. Chúng phủ nhận việc bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp vô sản khi tiến hành cách mạng thành công. Theo chúng, cách mạng vô sản giành thắng lợi xong không cần lập nên chính quyền nhà nước vì đã thành công rồi. Để đập tan luận điệu này, ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Lenin chỉ rõ: “Kể từ ngày 25-10-1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ tổ quốc. Chúng ta tán thành "bảo vệ tổ quốc", nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc XHCN, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là tổ quốc". 

Thời gian qua, lợi dụng hệ thống XHCN thoái trào và sự biến động mau lẹ, khó lường của tình hình thế giới, các thế lực thù địch, phản động càng ra sức chống phá các nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam. Chúng cho rằng hiện nay không cần phải bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN vì không còn kẻ thù xâm lược và nếu có bảo vệ thì chỉ bảo vệ Tổ quốc chứ không bảo vệ chế độ XHCN. Đây là luận điệu hết sức thâm độc, dễ gây sự ngộ nhận trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của công dân Việt Nam hiện nay.

Cả về phương diện lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, mọi cuộc cách mạng nổ ra đều gắn với một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại và bao giờ vấn đề giành chính quyền cũng đều là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng gắn với một quốc gia, dân tộc cụ thể. Như vậy, không bao giờ có Tổ quốc tách rời với một chế độ xã hội, mà bao giờ cũng gắn chặt với một chế độ xã hội nhất định như chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ xã hội phong kiến, chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa, chế độ XHCN.

Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở mỗi thời kỳ lịch sử đều gắn liền với chế độ ở giai đoạn lịch sử, quốc gia, dân tộc đó. Đáng tiếc là, ngoài sự chống phá của các thế lực phản động, thù địch, một số người trong nước vẫn ngộ nhận, chủ quan, không thấy hết các nguy cơ của đất nước và chế độ, không nhận thức được sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta nên có biểu hiện coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN; không nhận thức đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Thậm chí một số người Việt Nam tuy mang trong mình dòng máu Lạc Hồng và đang được hưởng thành quả cách mạng nhưng quay lưng lại với dân tộc, ra sức công kích, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, rắp tâm phá hoại thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, cuộc sống thanh bình của nhân dân. 

Phê phán luận điệu xuyên tạc quan điểm của V.I.Lênin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”
Ảnh minh họa: Internet 

Tăng cường sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN

Việc trung thành, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” có ý nghĩa rất quan trọng trong thời đại ngày nay. Vì vậy, chúng ta cần quán triệt, thực hiện hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa XIII.

Thấm nhuần tư tưởng nêu trên của Lênin và kế thừa truyền thống, quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta, ngay sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước thế giới dứt khoát rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Kể từ đó, xuyên suốt cuộc trường chinh 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối, cả nước cùng bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thực tiễn cho thấy, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20 đã chứng minh rằng việc giành chính quyền đã khó nhưng giữ gìn, sử dụng chính quyền để xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN còn khó hơn nhiều. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự sụp đổ đó là do sai lầm của các đảng cộng sản trong quá trình cải tổ, cải cách, sự mất cảnh giác và tự làm suy yếu, mất sức đề kháng từ bên trong của các đảng cộng sản và lực lượng cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch.

Đúng như Lênin đã từng cảnh báo: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta nếu chúng ta không mắc sai lầm, tự đánh đổ mình”. Như vậy, bài học thành công và thất bại về công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN từ sau Cách mạng Tháng Mười ở các nước XHCN không chỉ khẳng định tư tưởng của Lenin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” mà còn là cơ sở để xác định ý chí, quyết tâm trong nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi chúng ta trong đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.

Giải pháp quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự cần thiết phải bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đó là cơ sở để củng cố lập trường chính trị giai cấp, niềm tin và sự kiên định vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. 

Bên cạnh đó, cần chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng, đối tác và mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự phân định đối tác, đối tượng là rất cần thiết, tuy nhiên cần phải mềm dẻo, uyển chuyển trong nhận thức. Trong thực tế, ranh giới giữa đối tác và đối tượng đôi khi rất mong manh, có tính tương đối, nhận thức không phải dễ dàng, đơn giản. Do đó, cần xác định rõ những tiêu chí và quan điểm trong nhận thức và xử lý vấn đề này. Một trong những tiêu chí rất quan trọng để xác định đối tác đó là lợi ích. Bởi lợi ích (hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó) phải được bảo đảm cho cả hai phía: Phía chúng ta và phía đối tác, làm sao để đôi bên cùng có lợi, phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tiêu chí “cùng có lợi” trở thành cơ sở của quan hệ giữa các đối tác. Trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong xác định đối tượng và đối tác là: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.

Về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là toàn diện, bảo vệ cả phương diện tự nhiên-lịch sử và phương diện chính trị-xã hội trong chỉnh thể thống nhất bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8, khóa XIII đã chỉ ra: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN, nền văn hóa và lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng XHCN”.

Trong bối cảnh hiện nay, cần làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức đúng phương châm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy, với nhiều kế sách linh hoạt, mềm dẻo, kiên quyết tạo thành sức mạnh tổng hợp vững chắc trong công cuộc giữ nước. 

Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt, trụ cột. Đó là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học-công nghệ, văn hóa, đối ngoại, biểu hiện trong sức mạnh vật chất, tinh thần của khoảng 100 triệu dân Việt Nam trong nước và hơn 5 triệu người Việt Nam sinh sống, học tập, lao động, công tác ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc. Đó là sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay./.

ST.

Trị bệnh giáo điều của cán bộ, đảng viên ở cơ sở

Cán bộ, đảng viên là hạt nhân xây dựng tổ chức cơ sở đảng, là cầu nối giữa Ðảng với nhân dân; thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Chất lượng của cán bộ, đảng viên cơ sở nói chung, năng lực quán triệt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận vào thực tiễn ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của các tổ chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động đến hiệu quả quán triệt, triển khai và thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.

Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận vào thực tiễn, còn có những biểu hiện của bệnh giáo điều đặt ra những yêu cầu mới cần ngăn ngừa kịp thời, có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Nhận diện bệnh giáo điều

Bệnh giáo điều là khuynh hướng cường điệu hóa vai trò của lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử, cụ thể. Những người bị bệnh giáo điều thường tiếp thu lý luận một cách đơn giản, phiến diện mang tính chất cảm tính; biến lý luận thành những công thức chết cứng, chìa khóa vạn năng cho mọi hành động hoặc áp dụng rập khuôn, máy móc kinh nghiệm của người khác, địa phương khác. Cho nên, khi xác định biện pháp lãnh đạo, không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể, xa rời thực tiễn.

Bệnh giáo điều thường biểu hiện dưới dạng hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn, quá lạm dụng sách vở; nghiên cứu học tập lý luận nhưng không chuyển hóa được lý luận vào thực tiễn công tác. Nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ, ở những nguyên lý chung chung, trừu tượng, mượn những lời của Mác, Lênin để làm cho người ta lầm lẫn mà không thâu tóm được bản chất cách mạng và khoa học, không xuất phát từ thực tiễn để vận dụng lý luận.

Trị bệnh giáo điều của cán bộ, đảng viên ở cơ sở
 Một lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho đoàn viên thanh niên. Ảnh minh họa: nhandan.vn

Điều này dẫn đến hình thành tư duy lối mòn, thiếu sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo những người giáo điều thường làm trái với chỉ thị của Lênin; họ không phân tích rành mạch việc gì hết; họ viết hoặc họ nói đều là trống rỗng, họ gây nên một tác phong rất xấu trong Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. 

Những người giáo điều thường đọc dăm ba quyển sách, thuộc dăm ba câu chữ để khoe khoang, “lòe thiên hạ” chứ không phải đem những điều học được để phân tích và giải quyết các vấn đề thực tế trong công tác. Hoặc lý luận chỉ là tổng số những công thức máy móc, đơn điệu, phiến diện, làm cho lý luận không có sức sống, xa rời thực tiễn, không chỉ đạo được thực tiễn. Từ đó lại xuất hiện tư tưởng coi thường lý luận hoặc nói một đằng, làm một nẻo. Nói chỉ là nói lý luận suông, làm thì theo kinh nghiệm vụn vặt của cá nhân.

Xét về tính chất, bệnh giáo điều biểu hiện trên cả hai phương diện lý luận và kinh nghiệm: Giáo điều lý luận là thuộc lòng lý luận một cách máy móc nhưng không hiểu, không nắm được bản chất khoa học, cách mạng của lý luận; nặng về diễn giải sách vở, thoát ly thực tiễn; áp dụng lý luận nhưng không nghiên cứu điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể.

Giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên xi kinh nghiệm đã có sẵn một cách rập khuôn, máy móc mà không có sự sáng tạo, kế thừa, chọn lọc. Xét về phương pháp, giáo điều là xa rời, đối lập với biện chứng; bị kìm hãm, tự kìm hãm bởi tư duy, phương pháp siêu hình nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong trạng thái nhất thành bất biến, không thay đổi, cô lập chúng khỏi những sự vật khác, trong những mối quan hệ khác. 

Xét về thái độ, giáo điều thường rất dễ rơi vào định kiến, trì trệ và bảo thủ, dẫn đến chậm thay đổi, ngại thay đổi, lệ thuộc vào những thói quen đã định hình nên khó đổi mới, thậm chí chống lại đổi mới chỉ vì những hạn chế, bất cập trong tư duy, nhận thức, không theo kịp sự vận động, phát triển của thực tiễn.

Tác hại của bệnh giáo điều làm cản trở sự phát triển của tư duy lý luận khoa học, làm hạn chế tính năng động, sáng tạo. V.I.Lênin cảnh báo, giáo điều là thói quen đáng sợ nhất, vì nó làm cho cán bộ, đảng viên rơi vào định kiến, trì trệ và bảo thủ, ở một mức độ nào đó, bệnh giáo điều là sức ỳ, sự trì trệ, bảo thủ sẽ cản trở phát triển, là lực cản của đổi mới. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng vì kém lý luận cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào thì làm thế ấy; không biết áp dụng lý luận vào giải quyết thực tiễn trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, cho nên thường thất bại trong lãnh đạo, chỉ đạo và công tác. 

Ngoài ra, bệnh giáo điều còn biểu hiện ở khuynh hướng tả khuynh, chủ quan và cực đoan, quy kết vội vàng, áp đặt vô nguyên tắc; cản trở sự tìm tòi, sáng tạo, không kích thích phản biện khoa học từ đó dẫn đến mất dân chủ, tự do, tùy tiện, dẫn đến việc quán triệt, triển khai, tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước không sát thực tiễn, không hiệu quả, thậm chí dẫn đến sai lầm, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Ngăn ngừa bệnh giáo điều bằng cách nào?

Trong thời gian qua, công tác giáo dục lý luận chính trị đã đạt được những kết quả quan trọng, đội ngũ cán bộ, đảng viên có bước phát triển toàn diện, vững chắc; năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn ngày càng được nâng lên. Song nhìn chung, chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng lý luận vào thực tiễn chưa sát, hiệu quả chưa cao.

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: Ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, việc cụ thể hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng chưa kịp thời, chưa sát thực tế; ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu khả thi.

Trong đó, bệnh giáo điều vẫn tồn tại ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, ảnh hưởng đến quá trình đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống; làm cho quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và các chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên không được vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Do đó, để ngăn ngừa bệnh giáo điều của cán bộ, đảng viên, cần thực hiện một số biện pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Cấp ủy các cấp cần xác định công tác giáo dục lý luận chính trị là một nhiệm vụ quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại, gắn lý luận với thực tiễn; đưa việc giáo dục, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng gắn với bảo đảm tính thống nhất, tính kế thừa và tính liên thông, khắc phục sự trùng lặp ở các cấp học, bậc học và đối tượng.

Đổi mới phương pháp giảng dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm; rèn luyện về phương pháp tư duy. Gắn đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục với phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả. 

Thứ hai, nâng cao năng lực nắm bắt, đánh giá thực tiễn của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên (nhất là ở cơ sở) cần tăng cường bám nắm thực tiễn, tích cực nghiên cứu thực tiễn, gần dân, sát dân; chống các biểu hiện làm việc bàn giấy, xa rời thực tiễn. Quá trình nắm bắt, đánh giá thực tiễn sẽ giúp cán bộ, đảng viên tự đánh giá, điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, làm cho hoạt động đúng mục đích, đúng hướng, có cơ sở khoa học, tránh được sự mò mẫm, tự phát.

Thứ ba, nâng cao năng lực vận dụng lý luận vào nhận thức và hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên. Nâng cao trình độ lý luận và vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo vào thực tiễn; tích lũy kinh nghiệm, vốn sống, năng lực tổng kết thực tiễn một cách có lý luận; biết sử dụng lý luận như một phương pháp để tổng kết thực tiễn, làm cho thực tiễn được lý luận hóa, bên cạnh đó, khắc phục bệnh giáo điều nhưng phải đề phòng chủ nghĩa xét lại; không ngừng học tập, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tri thức phải được kiểm nghiệm thông qua hoạt động thực tiễn chứ không dừng lại ở việc nói, viết theo kiểu chủ nghĩa kinh viện, tầm chương trích cú. 

Thứ tư, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở tổ chức cơ sở đảng. Cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy phải thực sự gương mẫu trong chấp hành các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, trong thực hiện nhiệm vụ đảng viên, trong sinh hoạt, lối sống.

Các tổ chức cơ sở đảng cần xây dựng cơ chế thông tin đa chiều, thực hiện minh bạch, công khai thông tin, tăng cường đối thoại, trao đổi, tiếp xúc giữa cán bộ, đảng viên và nhân dân gắn với thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng./.

ST.