TĂNG
CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI PHÒNG CHỐNG
“ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” Ở
CÁC VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
ĐTM
013/2019
Mỗi
quốc gia, dân tộc trong quá trình tồn tại, phát triển hướng tới sự hưng thịnh bền
vững của mình đều phải quan tâm đến việc tập hợp lực lượng, tạo dựng nguồn động lực phù hợp với đặc thù của hoàn cảnh
lịch sử. Đối với Việt Nam, đại đoàn kết toàn dân là một truyền thống quý báu, một
giá trị tinh thần bền vững, một điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển
của dân tộc. Để phát huy truyền thống quý báu đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã luôn quan tâm sâu sắc đến công tác vận động quần chúng trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng.
Quân
đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân, vì dân, ngay từ khi mới
thành lập đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ vừa là đội quân
chiến đấu, vừa là đội quân công tác và lao động sản xuất, là lực lượng chính trị
tin cậy của Đảng, của Nhà nước và nhân dân. Do đó, tiến hành công tác dân vận
(CTDV) là nhiệm vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu của quân đội,
là vấn đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Thực tiễn hơn
60 năm qua, mỗi bước trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta đều luôn gắn
liền với việc đẩy mạnh CTDV, đều được dựa chắc vào thế trận lòng dân.
Các
dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số nhưng lại
cư trú trên địa bàn rộng, chiếm phần lớn diện tích của cả nước, chủ yếu ở các
vùng cao, trung du và ven biên giới, những vùng có vị trí rất quan trọng cả về
chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa.
Hiện
nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang đẩy mạnh thực hiện âm mưu
chia rẽ dân tộc, kích động ly khai, hòng chống phá cách mạng Việt Nam. Cuộc đấu
tranh giữ đất, giữ dân ở các vùng đồng bào DTTS giai đoạn hiện nay vì cuộc sống
hạnh phúc của nhân dân và bình yên đất nước là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả
hệ thống chính trị. Vì vậy, việc tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và
tăng cường hơn nữa CTDV của quân đội ở các vùng DTTS là yêu cầu cấp bách, là
nhiệm vụ trực tiếp đặt ra đối với quân đội ta hiện nay; đòi hỏi phải được tiếp
tục nghiên cứu với nhiều nội dung, nhiều góc độ và vận dụng có hiệu quả trong
thực tiễn. Trong phạm vi chủ đề tiểu luận: “tăng cường công tác dân vận của
quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới”, tác giả tập trung
làm rõ 2 vấn đề:
-
Sự cần thiết phải tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc
thiểu số trong tình hình mới
-
Giải pháp tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số
trong tình hình mới
1.
Sự cần thiết phải tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc
thiểu số trong tình hình mới
1.1. Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng,
nhiệm vụ, mục tiêu công tác dân vận của quân đội trong tình hình mới
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung
thành và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng; khẳng định
sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ nhân dân. Quan hệ mật thiết với nhân dân là mối
liên hệ bản chất của Đảng, của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, CTDV luôn được coi
là một công tác cơ bản của Đảng.
Công tác dân vận của Quân đội nhân dân
Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một bộ phận trong CTDV của Đảng
Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt động công tác chính trị trong quân đội, nhằm vận
động cách mạng đối với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối quan hệ, đoàn kết
quân dân.
CTDV có tầm quan trọng chiến lược
trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta. Tầm
quan trọng đó được khẳng định dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quần chúng, công tác vận động
quần chúng và bài học thực tiễn CTDV của quân đội.
Các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã chỉ rõ: quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, là người chủ chân chính
của lịch sử, là lực lượng đông đảo của cách mạng. Do đó, phải tiến hành công
tác tuyên truyền vận động quần chúng.
Lênin cho rằng: “Không có sự đồng tình
và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội ngũ tiên phong của mình,
tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được.
Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó không thể có ngay được và không phải do những
cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài,
khó khăn, gian khổ mới giành được”[1]. Người
cũng chỉ rõ: sức mạnh của cách mạng là ở sự ủng hộ của quần chúng, chủ nghĩa xã
hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; chỉ có tranh thủ
quần chúng và chỉ có như thế chúng ta mới có cơ sở vững chắc cho thắng lợi của
cuộc đấu tranh giai cấp; chỉ có người nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào
nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân, mới là người chiến thắng và giữ được
chính quyền. “Một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là
khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phê phán được mọi
cái và đi vào hành động một cách có ý thức”[2]. Vì vậy, khi đánh giá
thành tích một Đảng, phải căn cứ vào cách đối xử đúng đắn với quần chúng, căn cứ
vào cách vận động quần chúng của Đảng.
Kế thừa những tư tưởng đó, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến công tác vận động quần chúng. Người chỉ rõ:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải công việc của một, hai
người. Lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng. Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng
hái, rất anh hùng. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản,
mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi
không ra. Có lực lưọng dân chúng thì việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được.
Vì vậy: “Cách mạng trước hết phải làm cho dân giác ngộ”[3], phải tuyên truyền, vận động,
thuyết phục nhân dân, phải biết tôn trọng nhân dân và dựa vào dân.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sự cần thiết phải làm công tác vận động nhân dân
và Đảng Cộng sản là người phải tiến hành vận động và tổ chức nhân dân. Theo Người:
“Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót
một người nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên
làm, những công việc chính phủ và đoàn thể giao cho”[4]. Tiến hành CTDV là trách nhiệm
của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị.
Quân
đội nhân dân Việt Nam ra đời và trưởng thành từ trong phong trào cách mạng của
quần chúng nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp
tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Quân đội ta vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội
quân chính trị, có nhiệm vụ tiến hành công tác vận động quần chúng trong mọi điều
kiện hoàn cảnh và mọi tình huống. Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Tên Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội quân
tuyên truyền”. Như vậy, ngay từ ngày đầu thành lập lực lượng vũ trang cách mạng,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ CTDV của quân đội là một vấn đề thuộc chức năng, một nhiệm vụ chính trị của
quân đội kiểu mới.
Qua
các giai đoạn cách mạng, lúc khó khăn cũng như lúc thuận lợi, trong chiến tranh
hay hoà bình, quân đội ta luôn dựa vào nhân dân, bảo vệ nhân dân, chia ngọt sẻ
bùi với nhân dân, được nhân dân che chở, đùm bọc, tin cậy. Không có sự giúp đỡ
của nhân dân, quân đội ta không thể thực hiện được nghệ thuật chiến tranh nhân
dân, không thể giành thắng lợi vẻ vang. Dù ở Đồng bằng hay miền núi, quân đội
ta luôn sống trong lòng dân, CTDV của quân đội luôn trở thành một kênh chuyển tải
các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đến với đồng bào, vận động, hướng
dẫn, giúp đỡ đồng bào đưa đường lối chính sách vào cuộc sống. Vì vậy, nó góp phần
quan trọng xây dựng lòng tin của dân đối với Đảng, tin vào thắng lợi của cách mạng.
Dù ở những nơi xa xôi hẻo lánh nhất, những nơi khó khăn ác liệt nhất, nhờ có
CTDV mà quân đội luôn sống trong dân, dân luôn bảo vệ quân đội. Đó là nền tảng
chính trị tinh thần vững chắc cho mọi thắng lợi của quân đội, của cách mạng.
Làm
tốt CTDV, quân đội ta không chỉ góp phần thực hiện có hiệu quả một trong ba chức
năng của quân đội, mà còn thể hiện rõ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bản chất
cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội kiểu mới, gắn bó máu thịt với
nhân dân qua mọi thử thách.
Công
tác dân vận là một trong những nội dung CTĐ, CTCT của quân đội, trực tiếp góp
phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp
phần giáo dục cho bộ đội về ý thức trách nhiệm của người quân nhân cách mạng,
thực hiện quân với dân một ý chí. CTDV của quân đội do chính chủ thể CTĐ, CTCT
tiến hành, đồng thời nó là trách nhiệm của mọi quân nhân. Dân vận tốt chính là
góp phần giữ vững, tăng cường đoàn kết quân dân, quan hệ giữa Đảng với dân, khối
đại đoàn kết toàn dân, góp phần trực tiếp vào cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, giữ vững trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát huy bản
chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.
Trong
tình hình hiện nay, nhiệm vụ CTDV của quân đội là tuyên truyền vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, củng
cố lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xẫ hội chủ nghĩa; thực sự là một
mũi tiến công chính trị có hiệu quả trong phòng chống chiến lược “diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị của
đất nước. CTDV tham gia tích cực xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện,
trước hết là về chính trị; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến
tranh nhân dân vững chắc, thực hiện chính sách dân tộc - tôn giáo của Đảng, Nhà
nước; tham gia có hiệu quả vào các phong trào, các cuộc vận động cách mạng, các
chương trình phát triển kinh tế xẫ hội, giúp dân xoá đói giảm nghèo, khắc phục
hậu quả thiên tai, ổn định đời sống nhân dân nhất là ở các vùng trọng điểm chiến
lược. Đồng thời, CTDV còn giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ về bản lĩnh chính trị,
đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác dân vận, giữ nghiêm kỷ luật
trong quan hệ với nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí.
1.2. Xuất phát từ đặc điểm, vai trò của
các DTTS và tình hình CTDV của quân đội ở các vùng DTTS hiện nay
Các nhà nghiên cứu về Dân tộc
đã chỉ rõ: trong quốc gia đa dân tộc, dân tộc chủ thể là dân tộc chiếm đa số hoặc
tuyệt đại đa số dân cư. Dân tộc thiểu số là cộng đồng ít người, cùng sống trong
một khu vực, có chung nguồn gốc huyết thống, chung ngôn ngữ, văn hoá, phong tục
tập quán, tâm lý tư tưởng và trình độ phát triển. Trong tiếng Việt, từ “DTTS”
chỉ có nghĩa để phân biệt số đông và số ít, chứ hoàn toàn không
có nghĩa là phân biệt đối xử trong quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng dân tộc,
quốc gia.
* Đặc điểm và vai trò của các
DTTS nước ta
Nước
ta là một quốc gia đa dân tộc. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm hơn 86%, còn lại 53
dân tộc anh em khác khoảng 10 triệu người, chỉ chiếm 14% dân số cả nước[5]. Với
đặc điểm số dân như vậy, các dân tộc này được gọi chung theo khái niệm “Các
DTTS”.
Mỗi
dân tộc và mỗi vùng DTTS ở nước ta đều có những nét đặc thù riêng, song tựu
trung lại có những đặc điểm chung nhất do hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa chính
trị, kinh tế, văn hoá quy định. Những đặc điểm của các vùng DTTS nước ta gắn liền
với CTDV của quân đội trong giai đoạn hiện nay được thể hiện nổi bật trên mấy vấn
đề sau đây:
-
Đặc điểm địa bàn, dân cư: Các DTTS nước ta có số dân ít, thậm
chí rất ít, nhưng lại cư trú trên địa bàn rộng chiếm tới 3/4 diện tích của cả
nước, chủ yếu ở miền núi, bao gồm các vùng cao và trung du, đồng thời tiếp giáp
3.000km biên giới, với nhiều cửa khẩu quan trọng.
Đồng
bào thường cư trú tập trung thành từng cụm dân cư theo các buôn làng, bản làng,
phum, sóc, trên các triền núi cao, trong thung lũng, ven rừng, trên các giồng đất,
cát cao hoặc các vùng nông thôn ven biển. Nhìn chung, đây là các vùng có khí hậu
khắc nghiệt, ảnh hưởng cả đến sản xuất và sức khoẻ, đời sống của đồng bào. Dân
cư các vùng vừa tập trung tại các cụm, vừa phân tán giữa các cụm với cự ly rất
xa, có nơi với cự li phải đi nhiều ngày đường. Điều kiện giao thông, đi lại hết
sức khó khăn, nhiều dốc cao, vực thẳm. Thậm chí, có vùng việc đi lại không thể
sử dụng phương tiện giao thông mà chủ yếu bằng đi bộ, đi ngựa. Vào các mùa mưa
lũ, không ít vùng đồng bào bị cô lập trong nhiều ngày.
Do
quá trình giao lưu, xâm nhập, quá trình di cư có tổ chức và di cư tự do, cũng
đã tạo nên đặc điểm có sự chung sống xen kẽ giữa cư dân các dân tộc, chủ yếu là
người Kinh với các DTTS khác. Đây vừa là đặc điểm thuận lợi vừa là những điều
kiện nhạy cảm dễ phát sinh mâu thuẫn nội bộ các vùng đồng bào trong điều kiện
hiện nay, khi mà kẻ thù lợi dụng xuyên tạc, kích động.
Đặc
điểm chung nổi bật của các DTTS nước ta là thường cư trú ở các vùng địa bàn có
vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về nhiều lĩnh vực. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ bảy BCHTW khoá IX đã nhận định: “Các DTTS nước ta cư trú xen kẽ trên địa
bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế,
an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái”.
-
Đặc điểm văn hoá, tín ngưỡng tôn giáo: Một trong những điều kiện thuận lợi
cho CTDV ở các vùng đồng bào DTTS là truyền thống văn hoá lâu đời của các dân tộc,
biểu hiện ở sự đoàn kết gắn bó keo sơn trong nội tộc và với các dân tộc khác. Ý
chí và tình cảm của mỗi tộc người, mỗi buôn, bản, phum sóc thường được biểu hiện
tập trung ở các già làng, trưởng bản, ở các sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật
thể được gìn giữ, lưu truyền và bổ sung, phát triển qua muôn đời. Tuy đời sống
kinh tế chưa cao, chưa được ổn định, nhưng tình làng, nghĩa xóm, lòng trung
thành với tín ngưỡng, tập quán tốt đẹp, truyền thống nội tộc được thể hiện rõ
nét. Tín ngưỡng, tôn giáo là nét in đậm trong quá trình hình thành bản sắc văn
hoá mỗi dân tộc. Tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trong các DTTS luôn gắn liền với
nhau. Trong các vùng dân cư, tồn tại nhiều loại chùa triền, miếu thờ, đền thờ,
nhiều loại hình lễ hội dân gian phong phú cả về nội dung, tính chất, quy mô,
nghi thức...có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tâm linh của mỗi dân tộc.
Trong
các vùng DTTS, tồn tại nhiều loại hình tôn giáo như Hoà Hảo, Cao Đài, Phật
Giáo, Nho Giáo, Đạo Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo... Có những tôn giáo
đông hàng trăm ngàn tín đồ, nhưng cũng có những tôn giáo số tín đồ chỉ tính bằng
hàng chục hoặc hàng trăm người. Tôn giáo trong các vùng DTTS là vấn đề nhạy
cảm trong các địa bàn nhạy cảm hiện nay mà kẻ thù đang triệt để lợi
dụng để chống phá ta.
Nhìn chung trên các địa bàn vùng DTTS còn ảnh
hưởng nặng nề của tàn dư tư tưởng phong kiến, tập quán thói quen lạc hậu và cả
những tệ nạn xã hội mới nảy sinh. Những tập quán như du canh, du cư, không dùng
thuốc mà cúng ma để chữa bệnh, phân biệt đối xử, sinh hoạt khép kín trong các tộc
người...là những tàn dư lạc hậu cần phải từng bước xoá bỏ.
Một
số vùng dân tộc vừa có ngôn ngữ riêng, vừa biết sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt phổ
thông. Tuy nhiên không ít dân tộc chỉ sử dụng ngôn ngữ riêng, thậm chí chỉ có
tiếng nói mà không có chữ viết riêng. Đây là một đặc điểm lớn tác động đến công
tác vận động quần chúng tại các vùng dân cư DTTS.
Trình
độ dân trí thấp, văn hoá, giáo dục chậm phát triển, thiếu các trung tâm văn
hoá; nhà trường, bệnh viện thưa thớt và chất lượng thấp. Tỷ lệ mù chữ, trẻ em
thất học hoặc tái mù chữ còn cao. Các dịch vụ văn hoá báo chí, phát thanh, truyền
hình, phim ảnh...còn không ít “vùng trắng”.
-
Đặc điểm kinh tế, xã hội: Đại bộ phận đồng bào sống bằng nghề sản xuất
nhỏ gắn với địa bàn cư trú, chủ yếu là nương rẫy, đánh bắt nhỏ, khai thác rừng
tạp. Mức phát triển kinh tế và đời sống thấp, nhiều vùng sâu, vùng xa tụt hậu rất
xa so với miền xuôi và các trung tâm đô thị. Những nhu cầu thiết yếu về ăn ở,
đi lại, học hành, chữa bệnh còn gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng bệnh tật, trẻ
em suy dinh dưỡng và số hộ thiếu đói còn nhiều. Một số vùng thiếu đất canh tác,
thiếu vốn, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Nếu tính theo chuẩn nghèo mới nhất
được công bố táng 12 năm 2005 thì tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng DTTS tăng lên rất
cao.
Địa
bàn cư trú rộng, dân cư thưa thớt, kinh tế chậm phát triển, giao thông, thông
tin liên lạc khó khăn, trong khi đó, điều kiện và trình độ quản lý của các cấp
chính quyền địa phương còn chưa chặt chẽ, chưa nắm chắc được đồng bào. Đội ngũ
cán bộ, nhất là ở cơ sở còn yếu, chưa đủ trình độ tổ chức quản lý trong những
điều kiện phức tạp. Đội ngũ cán bộ, đảng viên là người các DTTS có tỷ lệ rất thấp
và nhìn chung trình độ còn bất cập.
Việc
qua lại biên giới dễ dàng, tạo thuận lợi trong giao lưu về kinh tế, văn hoá, xã
hội của đồng bào ta với nhân dân với các nước lánh giềng. Tuy nhiên, chính đặc
điểm này tạo ra nhiều mâu thuẫn trong bảo vệ chính trị, quốc phòng, an ninh, trật
tự xã hội cho ta. Hàng năm, địch thường lợi dụng các điều kiện này để trà trộn
với đồng bào dân tộc, xâm nhập trái phép qua biên giới, len lỏi, chui sâu vào nội
địa nước ta để móc nối hoạt động chống phá cách mạng. Những năm qua đã xuất hiện
nhiều điểm nóng do kẻ thù lợi dụng như ở vùng Tây Bắc, Tây Nghệ An, Tây Nguyên
Và Tây Nam Bộ.
Từ
những đặc điểm trên, chúng ta khẳng định, các DTTS có vai trò rất
quan trọng, là những bộ phận hữu cơ, gắn bó máu thịt trong cộng đồng 54 dân tộc
anh em trên đất nước Việt Nam. Lịch sử hình thành, tồn tại, phát triển của mỗi
dân tộc và vùng DTTS luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của cả dân
tộc Việt Nam.
Quần
cư trên một địa vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nên để tồn tại, con người
Việt Nam phải nương tựa vào nhau, đùm bọc và đoàn kết với nhau. Hơn nữa, xét về
địa - chính trị, đất nước Việt Nam là địa bàn rất quan trọng, có vị trí là đầu
mối Bắc - Nam, Đông - Tây, đất liền và hải đảo, là khu vực thường diễn biến phức
tạp của quá trình tộc người, luôn bị các cuộc thôn tính chinh phục của các đế
chế phong kiến và các đế quốc thực dân. Toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên và chính trị
đó khiến dân tộc Việt Nam thường xuyên phải đương đầu với các thế lực xâm lược
hùng mạnh. Một dân tộc nhỏ, đứng trước hoạ xâm lăng, muốn không bị đồng hoá hoặc
bị tiêu diệt tất yếu phải đứng lên tự bảo vệ với ý thức đoàn kết, tự lực, tự
cường cao nhất. Chỉ có đoàn kết, tự cường mới có thể tồn tại và phát triển.
Trong
suốt quá trình lịch sử đó, ý chí và tình cảm của đồng bào các vùng DTTS luôn
hoà quyện chung vào tinh thần yêu nước, ý thức cố kết cộng đồng của toàn dân tộc
Việt Nam. Qua hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các DTTS luôn kề
vai sát cánh cùng cả nước chiến đấu chống kẻ thù chung, giành độc lập dân tộc
và thống nhất Tổ quốc. Mặc dù kẻ thù lợi dụng trình độ dân trí còn thấp dùng mọi
thủ đoạn kinh tế, chính trị, tôn giáo để mua chuộc lôi kéo hoặc ra sức đàn áp, gom dân, bắt lính nhưng đồng bào vẫn kiên
cường chống lại âm mưu thâm độc đó.
Trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, những cống hiến của đồng bào các
vùng DTTS tiếp tục được giữ vững và phát huy; vẫn một lòng, một dạ tin theo Đảng,
thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên,
trước những tác động và diễn biến sâu sắc, mau lẹ của tình hình chính trị, kinh
tế trên thế giới và khu vực, đặc biệt là tình hình về vấn đề dân tộc, tôn giáo,
kẻ thù lợi dụng chống phá, kích động, đã có một số vùng xảy ra điểm nóng, xảy
ra bạo loạn chính trị.
*
Tình hình CTDV của quân đội ở các vùng DTTS hiện nay
Trong
những năm qua, Đảng Uỷ quân sự trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị trong toàn quân đẩy mạnh thực hiện chức
năng đội quân công tác, coi CTDV là một nhiệm vụ chính trị cơ bản, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phòng chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận lòng dân.
Quán
triệt và thực hiện Nghị quyết số 08b/ NQ-HN-TW của BCHTW khoá VI, Chỉ thị
137/ĐUQSTW, Chỉ thị 127/CT của Chủ nhiệm TCCT, CTDV của các đơn vị ở vùng đồng
bào DTTS đã được tổ chức thực hiện đồng bộ với các nội dung, hình thức, biện
pháp thiết thực, hiệu quả.
Trên
cơ sở quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị, quán triệt nhiệm vụ cụ thể
và thông qua hoạt động thực tiễn, nhận thức của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các
đơn vị đóng quân trên vùng đồng bào DTTS đã có chuyển biến cơ bản, nêu cao ý thức
và trách nhiệm trong CTDV, đã nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng, mục
tiêu, nội dung, nhiệm vụ và yêu cầu cấp bách phải tăng cường CTDV đối với đồng
bào, đặc biệt là các địa bàn trọng điểm.
Do
thống nhất được nhận thức, cấp uỷ và chỉ huy các đơn vị đã lãnh đạo, chỉ đạo,
triển khai CTDV một cách toàn diện, đồng bộ, theo một cơ chế thống nhất, chặt
chẽ với nhiều nội dung, hình thức phong phú. CTDV ở các vùng DTTS đã có sự phát
triển cả bề rộng và chiều sâu, chuyển mạnh xuống cơ sở. Nội dung CTDV đã bám
sát và đi sâu vào thực tế các lĩnh vực đời sống xã hội, vận động mọi tầng lớp
dân cư, nhất là đồng bào các dân tộc, tôn giáo trên địa bàn vùng sâu, vùng xa,
vùng xung yếu và địa bàn trọng điểm chiến lược.
Bốn
hình thức công tác có tính phổ biến cơ bản mà Hội nghị CTDV của quân đội đã tổng
kết là: Kết nghĩa; hành quân dã ngoại, làm công tác dân vận; hoạt động của tổ,
đội công tác và cử cán bộ tăng cường cho cơ sở, đã được vận dụng một cách
linh hoạt, hiệu quả. Đã có 100% đơn vị cấp cơ sở tổ chức kết nghĩa với các đơn
vị địa phương, phát huy tác dụng trong xây dựng cơ sở, vành đai an toàn. Đã tổ
chức trên 11.000 lượt hành quân dã ngoại làm dân vận từ cấp đại đội, tiểu đoàn
đến cấp trung, lữ đoàn; đã góp phần tham gia xây dựng 2.436 lượt xã, phường, cơ
sở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc.
Từ
năm 2002, thực hiện chỉ thị 123/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về “Củng
cố, kiện toàn và hoạt động của các tổ đội công tác tăng cường trên các địa bàn
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và biên giới Việt Lào”, các quân khu 2, 4,
5, 7, 9, và Quân đoàn 3 đã thành lập 216 đội công tác, với 1658 sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp và hạ sĩ quan chiến sĩ tham gia về 25 tỉnh, trên 100 huyện,
240 xã trọng điểm, tổ chức tuyên truyền tập trung 3.348 buổi, có 29 vạn đồng
bào các dân tộc tham gia; góp phần củng cố 222 lượt tổ chức cơ sở đảng, 579 tổ
chức chính quyền cấp xã, thôn, 1.118 lượt tổ chức quần chúng, xây dựng 1.027 lượt
tổ an ninh nhân dân; củng cố huấn luyện quân sự cho 61 đơn vị dân quân tự vệ;
tham gia cùng địa phương xoá đói giảm nghèo cho 245 hộ với 1.552 nhân khẩu,
giúp địa phương giải quyết kịp thời, dứt điểm 715 vụ việc phức tạp phát sinh ở
cơ sở[6].
Đồng thời các đơn vị đã kết hợp tốt các hình
thức mới như tham gia chương trình phổ cập tiểu học, chương trình quân - dân y,
liên kết ứng dụng khoa học kỹ thuật, tạo nguồn cán bộ cơ sở, giao lưu văn nghệ,
thể thao...
Các
đoàn kinh tế quốc phòng trên các địa bàn trọng điểm chiến lược đã góp phần quan
trọng giữ vững ổn định chính trị cùng với bộ đội biên phòng bảo vệ vững chắc chủ
quyền an ninh biên giới quốc gia, góp phần xoá đói giảm nghèo vùng đồng bào
DTTS, vùng biên giới. Các đơn vị này đã thực sự trở thành chỗ dựa của cấp uỷ,
chính quyền cơ sở, được đồng bào các dân tộc tin cậy, yêu mến.
Những
kết quả CTDV của quân đội ở các vùng DTTS đạt được là rất quan trọng. Song từ
thực tiễn hoạt động và những diễn biến mới nảy sinh, CTDV ở các vùng DTTS cũng
đặt ra nhiều vấn đề bất cập:
-
Nhận thức vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung, yêu cầu nhiệm vụ CTDV ở
các vùng DTTS của không ít cán bộ, chiến sĩ, thậm chí có cả cán bộ chủ trì đơn
vị cơ sở còn thiếu sâu sắc, thiếu toàn diện.
-
Một số đơn vị tiến hành các hình thức CTDV còn thiếu linh hoạt, thậm chí còn có
biểu hiện hình thức, chạy theo thành tích, chưa coi trọng chất lượng, hiệu quả;
một số ít trường hợp lợi dụng công tác dân vận để mưu lợi cá nhân.
-
Năng lực tiến hành CTDV trong điều kiện tiếp xúc với đồng bào các DTTS của số
không ít cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế, thiếu hiểu biết về đặc điểm văn hoá,
truyền thống, phong tục, tập quán, những điều cấm kỵ riêng biệt...hiện tượng
không biết, không hiểu ngôn ngữ dân tộc còn khá phổ biến, cản trở lớn đến công
tác vận động, mặc dù đã có chủ trương thúc đẩy học tiếng dân tộc trong thời
gian qua.
-
Có không ít trường hợp biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác đối với âm mưu, thủ đoạn
chống phá của kẻ thù, thiếu kiên định, vững vàng khi gặp phải những trường hợp
phức tạp nảy sinh về chính trị, xã hội, tỏ ra lúng túng do không nắm vững chủ
trương, chính sách, kiến thức công tác quần chúng.
-
Các đơn vị còn thiếu thốn nhiều về cơ sở vật chất trong tiến hành CTDV ở các
vùng DTTS, trang bị còn đơn điệu, không thiết thực.
Toàn
bộ tình hình đó phản ảnh một tình trạng chung của CTDV của quân đội ở các vùng
DTTS là còn biểu hiện thiếu tính hệ thống, còn tình trạng manh mún, kém hiệu quả,
chưa thực sự vững chắc.
1.3.
Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc
chống phá cách mạng nước ta
Đối
với các DTTS, âm mưu xuyên suốt của kẻ thù là chia rẽ dân tộc, nhất là chia rẽ
các DTTS với người Kinh, chia rẽ nhân dân các DTTS với Đảng, Nhà nước và chế độ,
chia rẽ nội bộ nhân dân các dân tộc; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, kích động
ly khai, xúi dục đòi tự trị dân tộc hòng chia rẽ, xé nhỏ nước ta, làm suy yếu rồi
đi đến thôn tính Việt Nam.
Từ
âm mưu đó, đối với từng vùng DTTS cụ thể, các thế lực thù địch lại có những âm
mưu, thủ đoạn riêng mà chúng cho là thích hợp với từng vùng:
- Đối với các DTTS khu vực phía Bắc:
Chúng kích động đồng bào đòi thành lập “Vương quốc Hmông tự trị”, “Khu tự trị
người Thái”, tuyên truyền tư tưởng “Đại Thái”, kích động gây phỉ, xưng vua, tổ
chức đón rước gây bạo loạn.
-
Đối với các DTTS vùng Tây nguyên: Âm mưu, thủ đoạn của chúng là nhằm tạo
ra sự ly khai, chia rẽ. Để thực hiện âm mưu này, bọn đế quốc và các thế lực thù
địch bên ngoài đã chỉ đạo, kích động các đối tượng trong nước đòi thành lập
“Nhà nước Đề Ga độc lập”, lập ra “Tin lành Đề Ga” (tách khỏi Tin lành của người
Kinh) để hoạt động chống phá ta. Chúng không ngừng phát triển thứ đạo Tin lành
theo kiểu Mỹ.
-
Đối với dân tộc chăm: Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề lịch sử, kích
động đấu tranh đòi phục hồi “Vương quốc Chăm”.
-
Đối với vùng Tây Nam Bộ: Thủ đoạn chủ yếu của chúng là gây thù hằn, chia
rẽ người Khơme với người Kinh, giữa Việt Nam với Campuchia, tuyên truyền vận động
theo một luận điệu phản động là đòi “trả” vùng Khơme Nam Bộ về Campuchia, lập
“Nhà nước Khơme Campuchia Krôm độc lập”.
Trước
đây, chúng thường hoạt động lén lút, bí mật, ta khó phát hiện. Nay chúng chuyển
sang phương thức hoạt động mới, núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, vừa
bí mật, vừa “công khai hoá”, “quốc tế hoá”, kêu gọi bên ngoài can thiệp khi bị
xử lý.
Hoạt động cụ thể đối với từng vùng DTTS có
khác nhau và có sự thay đổi tuỳ theo tình hình, khả năng của chúng. Nhưng nổi
lên trong giai đoạn hiện nay là các thủ đoạn sau:
+
Tăng cường tập hợp lực lượng phản động lưu vong ở bên ngoài vào các tổ chức, hội,
nhóm, đẩy mạnh liên kết với nhau và câu kết với các phần tử chống đối trong nước
hoạt động chống phá ta. Bọn phản động người Chăm lưu vong lập ra các tổ chức:
“Văn phòng Chămpa quốc tế”, “Hội bảo tồn văn hoá Chămpa tại Hoa Kỳ”, “Hội văn
hoá truyền thống Chămpa”...tại Hoa Kỳ và Pháp, trong đó chủ yếu là các phần tử
chống đối cũ, gồm cả chức sắc bất mãn, bọn FULRO.
Bọn
phản động người H mông, người Thái, người Dao lưu vong tại Mỹ, Pháp thành lập
các tổ chức: “Hội người Hmông thế giới”, “Hội văn hoá cổ truyền người H mông”,
“Liên hiệp những người Dao”, “Trung tâm nghiên cứu Thái học”...
+
Lợi dụng chính sách mở cửa của ta và sự phát triển khoa học kỹ thuật về mạng
thông tin quốc tế toàn cầu, từ bên ngoài chúng tăng cường tác động vào các vùng
DTTS nước ta. Ngoài việc đưa người trực tiếp móc nối, chỉ đạo lực lượng phản động
trong nước, chúng đã và đang lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng
(sách, báo, đài phát thanh...), phương tiện kỹ thuật hiện đại (điện thoại, Fax,
Internet...) để tác động vào trong nước. Lợi dụng chính sách mở cửa, đa dạng
hoá, đa phương hoá, thông qua hoạt động du lịch, thăm thân nhân, tài trợ, hợp
tác, hoạt động từ thiện để đưa người, tài liệu vào hoạt động móc nối, gây cơ sở,
lôi kéo, kích động tư tưởng chống đối vào số trí thức, cán bộ người DTTS.
Thông qua đài phát thanh, báo chí bằng
tiếng dân tộc để tuyên truyền, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc
chính sách, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, tư tưởng hướng ngoại, tuyên
truyền phát triển đạo trái phép vào các vùng DTTS, đặc biệt là vùng Tây Bắc và
Tây Nguyên.
Thông qua việc gửi tiền, hàng, tài liệu
phản động, các văn hoá phẩm độc hại vào các vùng DTTS trong nước để tuyên truyền
cuộc sống phồn vinh ở nước ngoài, kích thích tư tưởng hướng ngại, gieo rắc tư
tưởng hoài nghi trong nhân dân các dân tộc đối với Đảng, với chế độ. Chúng đặc
biệt chú ý lợi dụng các hoạt động nghiên cứu văn hoá dân tộc để thâm nhập vào nội
bộ, đi sâu xuống tận cơ sở thu thập tin tức, lôi kéo tranh thủ cán bộ, trí thức,
chức sắc người DTTS, âm mưu tạo dựng “ngọn cờ” nhằm tập hợp quần chúng, hình
thành tổ chức, lực lượng bên trong, tạo cớ can thiệp và bạo loạn khi có cơ hội.
+ Đẩy mạnh các hoạt động chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc bằng các thủ đoạn: Khơi lại vấn đề lịch sử,
sưu tầm tài liệu, thu thập “bằng chứng” về quá trình hình thành, phát triển và
diệt vong của mỗi dân tộc nhằm mục đích lừa bịp các dân tộc thiêu số rằng họ bị
dân tộc Kinh “xâm lược”, cai trị, đồng hoá nên các dân tộc nhỏ bé bị mất nước, kích động đòi phục hồi các quốc
gia xa xưa. Lợi dụng những khó khăn về đời sống, khuyết điểm và thiếu
sót trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và kinh tế - xã hội ở
vùng dân tộc, chúng tuyên truyền xuyên tạc, kích động chống đối trong đồng bào.
Chúng khơi lại các mâu thuẫn, xung đột xảy ra giữa các dân tộc trong quá
khứ nhằm kích động sự chống đối trong người DTTS đối với người Kinh. Đối với
các DTTS phía Bắc: các thế lực thù địch tuyên truyền vấn đề “Vương quốc Hmông”.
Đối với vùng Khơme Nam Bộ: Chúng tuyên truyền vùng đất Nam Bộ trước đây là của
Campuchia bị Việt Nam xâm chiếm, và rằng
“ở đâu có cây thốt nốt, có chùa Khơme thì ở đó là đát Khơme...”. Chúng tuyên
truyền luận điệu người Kinh phá chùa, giết sư sãi, cấm đạo, cấm học chữ Khơme,
đồng hoá người Khơme. Đối với dân tộc Chăm: chúng tuyên truyền rằng lịch sử
Chămpa đã từng có nhà nước hưng thịnh, quá trình diệt vong của Vương quốc
Chămpa là do người Việt gây nên, kích động đòi phục hồi “Nhà nước Chămpa”. Đối
với vùng Tây Nguyên: Chúng tuyên truyền luận điệu rằng người Kinh lên chiếm đất
và tài nguyên của người dân tộc, phân biệt đối xử với người dân tộc.
+ Lợi dụng chính sách đổi mới và chính
sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước ta để đẩy mạnh hoạt động
tuyên truyền, phát triển đạo vào các vùng DTTS với âm mưu “tôn giáo hoá dân tộc”.
+ Tác động, móc nối, lôi kéo cán bộ,
trí thức người dân tộc; già làng, trưởng bản; người đã có thời gian tham gia tổ
chức nguỵ, đảng phái phản động cũ; thân nhân các đối tượng bị ta xử lý.
+ Hoạt động nhen nhóm, lập tổ chức
chính trị, tôn giáo để tập hợp lực lượng, khi có thời cơ điều kiện thì gây bạo
loạn chính trị.
1.4. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX và Nghị quyết Hội nghị TW8 khoá IX đã xác định mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới là: Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo vệ lợi
ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền
văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết số 152/NQ-ĐUQSTW ngày
1-8-2003 của ĐUQSTW về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận của lực
lượng vũ trang trong thời kỳ mới, đã chỉ rõ: “Bảo vệ không chỉ là phòng ngừa
mà trước hết phải chăm lo xây dựng cho mình mạnh lên, kết hợp chặt chẽ giữa xây
dựng và bảo vệ trong mỗi con người, mỗi cơ sở; việc gì có lợi cho dân, cho nước,
có ích cho độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải quyết tâm
làm”.
Công tác dân vận của quân đội ở các vùng
DTTS hơn lúc nào hết cần quán triệt sâu
sắc mục tiêu, quan điểm đó trong toàn bộ mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ kế hoạch
hoạt động. Chỉ có như vậy công tác dân vận ở các vùng DTTS mới không rơi vào
tình trạng manh mún, thiếu hệ thống, kém hiệu quả; mới thực sự trở thành động lực
tinh thần to lớn của mọi cán bộ, chiến sĩ, của toàn thể các cấp uỷ, chính quyền
địa phương, đồng bào các DTTS, tạo nên sức mạnh tổng hợp và hiệu quả thực sự vững
chắc trong thực tế.
2. Giải pháp tăng cường công tác dân vận
của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới
Tăng cường CTDV
của quân đội ở các vùng DTTS trong tình hình mới là tăng cường toàn diện cả về
lãnh đạo, chỉ đạo, cả lực lượng, phương tiện, tăng cường về mức độ và hiệu quả
tác động, phát triển cả bề rộng và chiều sâu, coi trọng chất lượng và bảo đảm
tính hệ thống, biến CTDV của quân đội thành công tác tự vận động, tự xây dựng,
tự bảo vệ của các DTTS, cùng cả dân tộc Việt Nam dựng nước và giữ nước.
Trong những điều kiện mới, CTDV cuả quân đội ở các vùng DTTS cần thực hiện tốt
các giải pháp sau:
2.1. Nâng cao nhận thức, phát huy
trách nhiệm, bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác dân vận ở vùng dân tộc thiểu
số cho mọi lực lượng trước hết là các cấp uỷ đảng, cơ quan chính trị, cán bộ
chính trị, các tổ đội công tác
Đây
là giải pháp rất quan trọng, xuyên suốt và tạo cơ sở cho các giải pháp khác. Có
nhận thức đúng đắn sẽ củng cố động cơ, định hướng và thúc đẩy hành động tích cực
của cán bộ, chiến sĩ. Nhận thức càng sâu sắc, càng sát thực tiễn thì động cơ
càng mạnh mẽ, vai trò định hướng và thúc đẩy hành động càng rõ rệt. Trong đó, đặc
biệt là nhận thức của lãnh dạo, chỉ huy và cơ quan có vai trò rất quan trọng.
Nhưng
nhận thức của cán bộ, chiến sĩ không phải tự phát hình thành mà phải thông qua
hoạt động tư tưởng và tổ chức một cách đồng bộ, và phải thường xuyên, có kế hoạch,
có mục đích, phương pháp cụ thể thiết thực, nghiêm túc, kiên trì, bền bỉ.
Thực tiễn CTDV các vùng DTTS của các
đơn vị cho thấy, ở đâu cấp uỷ và người chỉ huy có nhận thức đúng, trách nhiệm
cao thì ở đó đội ngũ cán bộ, chiến sĩ được giáo dục quán triệt, bồi dưỡng
phương pháp, tác phong chu đáo. Họ luôn có nhận thức đúng về vị trí, tầm quan
trọng của CTDV đối với đồng bào các DTTS; phương pháp năng lực thực hành luôn
được củng cố, đơn vị đó luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngược lại, hầu
hết các khuyết điểm trong CTDV ở các vùng DTTS thời gian qua đều có nguyên nhân
từ sự thiếu quan tâm, trách nhiệm không cao, nhận thức đơn giản của các cấp uỷ,
người chỉ huy.
Để
CTDV của quân đội ở các vùng DTTS phát triển cả bề rộng và chiều sâu, có hiệu
quả cao, đòi hỏi phải làm tốt hơn nữa công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao
nhận thức, trách nhiệm cho mọi tổ chức, mọi lực lượng tham gia. Trong tình hình
hiện nay, công tác giáo dục, quán triệt cần đạt được các yêu cầu sau:
-
Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính toàn diện, chuyên sâu, phù hợp với trình độ
nhận thức, chức trách, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, lực lượng, sát với tình hình địa
bàn và đối tượng tuyên truyền, vận động. Kết hợp giáo dục nhận thức với bồi dưỡng
phẩm chất, đạo đức tác phong, trang bị kiến thức kinh nghiệm, phương pháp tiến
hành CTDV cho bộ đội. Kết hợp giữa định hướng tư tưởng với hướng dẫn hành động,
rèn luyện bản lĩnh, sự nhạy cảm, khả năng phát hiện và đấu tranh phê phán, loại
bỏ những quan điểm tư tưởng, nhận thức, hành động sai trái.
-
Hình thức, phương pháp giáo dục phải phong phú, đa dạng, chặt chẽ, bảo đảm tính
thường xuyên, liên tục và gắn với các nhiệm vụ, hoạt động khác của đơn vị.
-
Phát huy cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và chỉ huy các cấp; vai trò
tham mưu và tổ chức thực hiện của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và các tổ
chức quần chúng trong giáo dục, nâng cao nhận thức cho bộ đội.
Để
đạt được các yêu cầu đó, công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cần
tập trung vào những nội dung sau:
-
Giáo dục những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo, công tác vận động quần chúng của Đảng,
của quân đội trong giai đoạn mới. Kết hợp giáo dục lý luận với việc bồi dưỡng
cho bộ đội nắm vững những vấn đề cơ bản về đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước; các chủ trương, chương trình kế hoạch phát triển, các phong
trào cách mạng của địa phương nơi đóng quân trên các lĩnh vực đời sống xã hội;
nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị hiện nay.
-
Tăng cường bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn tiến hành CTDV đối với đồng bào DTTS
cho cán bộ, chiến sĩ để họ nâng cao trách nhiệm và tự tin, chủ động trong thực
hiện nhiệm vụ.
Coi
trọng việc giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao hiểu biết về phong tục, tập
quán, tín ngưỡng của đồng bào từng khu vực, từng dân tộc; bởi vì các tín ngưỡng,
tôn giáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào. Mặc
dù có nguồn gốc xuất xứ bản địa hay du nhập từ nước ngoài, ít nhiều đồng bào vẫn
tìm thấy trong các tín ngưỡng, tôn giáo một chỗ dựa tinh thần nào đó khi trong
cuộc sống, trong nhận thức, trong tình cảm gặp những khó khăn, rủi ro, bất trắc
do tự nhiên hay xã hội đưa lại; họ đều muốn hướng tới sự yên ổn, tu tâm dưỡng
tính, hướng thiện, chống lại cái ác; trừ các loại tà giáo hoặc âm mưu lợi dụng
của các thế lực thù địch.
Trong
tình hình hiện nay, hiểu biết và tôn trọng, có thái độ đúng đối với tín ngưỡng,
tôn giáo của đồng bào các DTTS là một yêu cầu rất cao của người làm CTDV nơi
đây.
Bên
cạnh đó, cần tập trung làm rõ âm mưu và những thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo để chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối
với các vùng dân tộc và trên từng địa bàn đóng quân của từng đơn vị.
-
Bồi dưỡng xây dựng phương pháp, tác phong làm việc khoa học cho cán bộ, chiến
sĩ trong CTDV. Đó là tác phong sâu sát thực tế, cụ thể tỷ mỷ, thực hiện phương
châm nghe đồng bào nói, nói để đồng bào hiểu, hướng dẫn đồng bào, làm để đồng
bào tin và rèn luyện phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân”, có trách nhiệm
với đồng bào. Chống biểu hiện quan liêu, hách dịch, xa rời thực tế, thiếu sâu
sát với đồng bào.
-
Bồi dưỡng cho cán bộ chiến sĩ có phương pháp tiếp cận tốt với đồng bào, biết
chào hỏi đồng bào theo đúng phong tục, thể hiện lòng thân ái, biết tránh các điều
kiêng kỵ, biết giao lưu văn hoá văn nghệ, nhất là các điệu múa của đồng bào các
dân tộc.
2.2. Tăng cường giáo dục và duy trì
nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân đối với mọi cán bộ, chiến sĩ.
Các đơn vị quân
đội dù ở đồng bằng hay miền núi đều thường dóng quân trong các khu vực dân cư,
quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện SSCĐ, công tác đều thường xuyên tiếp
xúc với đồng bào. Nếu không có nhận thức đúng và giữ nghiêm kỷ luật dân vận sẽ
không những không vận động được đồng bào mà còn làm tổn hại đến uy tín đơn vị,
quân đội đến lòng tin của nhân dân.
Trong
thực tế thời gian qua, không ít trường hợp vi phạm kỷ luật dân vận, thiếu tôn
trọng, quậy phá, lừa dối hoặc lợi dụng đồng bào để làm việc sai trái đã xảy ra,
ảnh hưởng xấu đến CTDV, lòng tin và tình đoàn kết quân dân. Vì vậy, giáo dục và
duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân là một nội dung biện pháp rất
quan trọng, vừa cơ bản lâu dài vừa cấp bách hiện nay.
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng.
Trong giáo dục phải quan tâm đến chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng;
các quy định của điều lệnh, điều lệ quân đội, 12 điều kỷ luật trong quan hệ
quân dân, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, truyền thống của
đơn vị...làm cơ sở bồi dưỡng, rèn luyện tính tự giác, gương mẫu trong chấp hành
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; có phương pháp tác
phong khiêm tốn, giản dị, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân; thành
khẩn tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm, tạo sự tự tin cho đồng bào.
Đặc
biệt, với đồng bào các dân tộc thiểu số, do điều kiện ngôn ngữ và các tập tục,
tín ngương riêng của từng dân tộc, việc giữ nghiêm kỷ luật không chỉ dừng lại ở
các chế độ, nền nếp kỷ luật chung đã quy định, mà còn là ý thức và hành động
đúng, phù hợp với lễ giáo, thuần phong, mỹ tục của từng vùng.
Giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ gương mẫu
chấp hành pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật dân vận, tôn trọng kỷ cương xã hội, tôn
trong phong tục, tập quán của đồg bào các DTTS. Giáo dục phải đi đôi với tổ chức
quản lý, duy trì kỷ luật vững chắc, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm.
2.3. Nắm vững và vận dụng có hiệu quả
các hình thức công tác dân vận của quan đội.
Có
nhận thức đúng, nội dung chương trình công tác đúng muốn biến thành kết quả, hiệu
quả thực tế phải có các hình thức CTDV đúng. Coi trọng rút kinh nghiệm và vận dụng,
phát huy tốt hiệu quả của bốn hình thức công tác dân vận đã được tổng kết.
Trong
thời kỳ mới, cơ cấu thành phần dân cư ở các vùng, miền tiếp tục biến đổi theo
xu hướng ngày càng đa dạng, hoạt động kinh tế xẫ hội của các tầng lớp nhân dân
trở nên phức tạp, điều này đòi hỏi CTDV phải luôn đổi mới hình thức phù hợp với
từng đối tượng, từng địa bàn.
Để
thực hiện tốt giải pháp này, cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
-
Cấp uỷ và chỉ huy các cấp quan tâm giáo dục, bòi dưỡng nâng cao phẩm chất năng
lực cho các tổ chức, các lực lượng, các tổ đội trực tiếp làm CTDV.
-
Cần xây dựng nội dung, kế hoạch, chương trình dạy tiếng dân tộc cho cán bộ chiến
sĩ; trước hết ưu tiên cho các dối tượng cán bộ dân vận chuyên trách, cán bộ
tham gia cấc đội công tác 123, cán bộ và chiến sĩ đội vận động quần chúng của
các đồn biên phòng.
Bồi
dưỡng trình độ hiểu biết tiếng dân tộc cho lực lượng chuyên trách làm CTDV, bởi
vì có trình độ chuyên môn giỏi nhưng chưa biết tiếng dân tộc, thì sẽ hết sức
khó khăn. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cán bộ chuyên trách phải tích cực,
chủ động tự học tiếng dân tộc, tối thiểu là những từ ngữ phổ biến trong giao tiếp;
mặt khác các cơ quan đơn vị phải quan tâm gửi đội ngũ cán bộ này đi học tiếng
dân tộc ở các trường trong và ngoài quân đội. Thành thạo tiếng dân tộc là cơ sở
để người cán bộ nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào. Đồng thời với vấn
đề học tiếng dân tộc, cần tập trung và phát huy lực lượng các quân nhân là người
DTTS cùng tham gia tiến hành CTDV.
-
Quan tâm bảo đảm kinh phí, phương tiện cần thiết cho lực lượng chuyên trách làm
công tác tuyên truyền vận động đồng bào.
-
Đối với các tổ đội, các cán bộ tăng cường cho cơ sở thì phải có kế hoạch kiểm
tra, đôn đốc, động viên kết hợp nhắc nhở kịp thời, tránh khoán trắng cho các lực
lượng này.
2.4. Kết hợp tốt việc tuyên truyền,
giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống
và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh.
Hiệu quả CTDV xét cho cùng phụ thuộc
vào chính kết quả đời sống mọi mặt của đồng bào. Vì vậy, kết hợp tốt việc tuyên
truyền, giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định
đời sống và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh là yêu cầu tất yếu.
Các đơn vị quân đội cần quan tâm, tham
gia giúp đỡ đồng bào lao động sản xuất, cùng địa phương phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào. Điều đó có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, thể hiện phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
Đẩy mạnh vận động đồng bào định canh,
định cư, ổn định đời sống. Chú trọng giúp đỡ đồng bào biết tổ chức sản xuất,
xoá đói, giảm nghèo. Đối với các vùng có điều kiện, động viên hướng dẫn đẩy mạnh
sản xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, khai thác thế mạnh
trong sản xuất của từng hộ, từng địa phương, phấn đấu làm giàu cho gia đình,
đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đẩy
mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc;
tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền
hình, tăng cường các hoạt động văn hoá - thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở...
Tham mưu cho địa phương xây dựng các dự
án, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp
với quốc phòng ở các vùng đồng bào dân tộc; quan tâm đầu tư đồng bộ, có trọng
điểm vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Giúp địa
phương thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm,
nước sạch. Phối hợp cùng các ban, ngành địa phương thực hiện chương trình xoá
mù chữ, giảm tái mù chữ, phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ dân trí. Tiến hành
các hoạt động văn hoá, duy trì các lễ hội truyền thống, giữ gìn phát huy bản sắc
văn hoá các dân tộc; đồng thời đấu tranh bài trừ các hủ tục văn hoá lạc hậu, đấu
tranh phòng ngừa văn hoá xấu độc thâm nhập vào đồng bào các dân tộc.
Đồng bào các DTTS thường sinh sống
trên các địa bàn có điều kiện khí hậu thời tiết khắc nghiệt, thường xuyên bị
thiên tai, lũ lụt, lũ quét, động đất, bệnh tật đe doạ. Bên cạnh đó, kẻ thù lợi
dụng khó khăn, tăng cường hoạt động phá hoại sản xuất, đời sống của đồng bào.
Nhiều trường hợp ở nhiều vùng biên giới cửa khẩu, kẻ xấu đã lợi dụng đồng bào để
làm ăn phi pháp, buôn lậu, phá rừng, vi phạm pháp luật.
Vì
vậy, trong tiến hành CTDV của các đơn vị, phải hết sức coi trọng các biện pháp
tích cực chủ động, kiên quyết bảo vệ đồng bào được an toàn cả về tính mạng, tài
sản, sự bình yên cuộc sống trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi tình huống. Hướng
dẫn, động viên đồng bào biết và có khả năng tự bảo vệ trước sự tàn phá của cả
thiên nhiên khắc nghiệt và các thế lực thù địch, các đối tượng xấu.
2.5. Phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ,
chính quyền địa phương nhằm xây dựng cơ sở chính trị địa bàn vững mạnh; tham
gia giải quyết có hiệu quả những yếu tố gây mất ổn định và xử lý các tình huống
phức tạp ở các địa phương.
Xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn
diện là một mục tiêu chủ yếu của CTDV, nhằm thực hiện tư tưởng chỉ đạo xây dựng
chính là để phòng ngừa, là để bảo vệ tích cực, chủ động. Nội dung CTDV tham gia
xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở phải hướng
vào xây dựng thực lực chính trị, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn trong
lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý Nhà nước của các tổ chức trong hệ thống chính trị
địa phương.
Trong điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội
các vùng dân tộc thiểu số còn hết sức khó khăn, điều kiện cán bộ, cơ sở vật chất
hoạt động của các tổ chức còn hạn chế, CTDV của quân đội tham gia xây dựng cơ sở
phải nghiên cứu kỹ tình hình, xác định nội dung, chương trình phải thiết thực
hiệu quả, tránh hình thức, hời hợt. Đặc biệt chú trọng việc tạo nguồn và giúp bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, vùng
biên giới.
Hoạt động dân vận của các đơn vị phải
góp phần xây dựng thế trận và tiềm lực quốc phòng - an ninh ở cơ sở, xây dựng
khu vực phòng thủ và các phương án tác chiến trên từng địa bàn, từng cơ sở. Đẩy
mạnh tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và xử
lý kịp thời các vụ việc nảy sinh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo và dân tộc, gây chia rẽ đoàn kết quân dân của các thế lực thù địch.
Tham gia củng cố, xây dựng các tổ chức
cơ sở đảng vững mạnh là vấn đề cốt lõi để nâng cao hiệu lực thực tế của công
tác dân vận. Khéo vận động đồng bào cùng tham gia xây dựng các tổ chức đảng, khắc
phục những mặt yếu kém, các hiện tượng tiêu cực trong lãnh đạo, củng cố nâng
cao uy tín của các tổ chức đảng với đồng bào.
Tích cực tham gia xây dựng, củng cố tổ
chức chính quyền ở cơ sở vững mạnh đủ sức quản lý, điều hành mọi hoạt động của
địa phương, bảo đảm chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Các tổ đội công tác kịp thời phát hiện
và đánh giá đúng những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ đồng bào, tham mưu giúp
chính quyền và cùng chính quyền giải quyết tốt các mâu thuẫn đó. Tăng cường xây
dựng mối quan hệ mật thiết giữ cấp uỷ đảng, chính quyền, đơn vị và nhân dân, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của địch.
Tham gia xây dựng các tổ chức đoàn thể vững
mạnh là một biện pháp rất quan trọng. Biết tổ chức giúp đỡ các tổ chức như: Mặt
trận tổ quốc, Hội cựu chiến binh, các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội
chữ thập đỏ kiện toàn tổ chức, thu hút hội viên, hoạt động có hiệu quả theo chức
năng của từng tổ chức.
Đẩy mạnh hoạt động kết nghĩa giữa đơn vị
với các tổ chức địa phương nhằm trao đổi kinh nghiệm và có điều kiện giúp đỡ địa
phương đẩy mạnh các phong trào quần chúng, góp phần tăng cường mối quan hệ đoàn
kết quân dân.
Tham gia xây dựng, vận động phát huy mặt
tích cực của các thiết chế văn hoá xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc,
cùng thực hiện tốt các chủ trương, kế hoạch, các phong trào, các cuộc vận động
của địa phương.
Bằng những nội dung, hình thức, phương
pháp phù hợp, có lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức chặt chẽ, các đơn vị quân đội phải
cùng với cấp uỷ chính quyền địa phương giải quyết tốt những vấn đề bức xúc nổi
lên như: tranh chấp đất đai, khiếu kiện đặc biệt, vượt biên trái phép, buôn lậu
qua cửa khẩu, tụ tập nghe truyền đạo trái phép; tụ tập kích động kỳ thị dân tộc,
các tệ nạn xã hội, phá rẫy, khai thác rừng trái phép... Để đảm bảo hiệu quả, giải
quyết vụ việc phải trên cơ sở phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến đồng bào, cùng
đồng bào bàn bạc, thảo luận trước khi xử lý các vấn đề liên quan đến lợi ích đồng
bào, lợi ích của từng buôn, bản, làng, phum sóc... theo đúng chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tạo niềm tin cậy của đồng bào với Đảng,
Nhà nước, với chính quyền địa phương; bảo vệ đồng bào trong mọi điều kiện hoàn
cảnh.
Công tác dân vận của Quân đội nhân dân
Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một bộ phận trong CTDV của Đảng
Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội, nhằm vận động
cách mạng đối với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối quan hệ, đoàn kết quân
dân. Tiến hành CTDV là nhiệm vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu
của quân đội, là vấn đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
CTDV có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng
và chiến đấu của quân đội ta.
Các DTTS ở Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ
trong dân số nhưng là bộ phận hữu cơ, có vai trò cực kỳ quan trọng trong khối đại
đoàn kết toàn dân, trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước với mọi tiến trình lịch
sử và cách mạng. Trách nhiệm và vinh dự của toàn Đảng, toàn quân, của cả hệ thống
chính trị là phải không ngừng tiến hành vận động, thực hiện có hiệu quả bền vững
công cuộc dựng xây vì sự nghiệp đại đoàn kết, đại thắng lợi của cả đại gia đình
các dân tộc Việt Nam. Đó là nhiệm vụ cấp bách, là truyền thống, là đạo lý Việt
Nam.
Công tác dân vận của quân đội ở các
vùng DTTS thời gian qua đã thu được những kết quả hết sức quan trọng, song cũng
còn bộc lộ nhiều yếu kém bất cập do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan
tác động. Trong khi đó, kẻ thù đang ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để
chống phá cách mạng nước ta. Do đó, thực hiện tốt và tăng cường công tác dân vận
của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Để tăng cường CTDV của quân đội ở các vùng
DTTS đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, cần vận dụng đồng bộ và có trọng
điểm các giải pháp nêu trên. Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò riêng, có cơ sở
lý luận và thực tiễn, yêu cầu và nội dung khác nhau, nhằm tác động trên từng mặt,
từng mức độ, song các giải pháp là một hệ thống có quan hệ chặt chẽ.
Vì
vậy, quá trình vận dụng tránh hiện tượng tách rời, hoặc cứng nhắc mà phải vận dụng
đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm, linh hoạt, coi trọng chất lượng, hiệu quả,
góp phần thúc đẩy CTDV của quân đội ở các vùng DTTS ngày càng được tăng cường
và đi vào chiều sâu, vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
[5] TCCT,
Về vấn đề
dân tộc
ở
Nam Bộ
và Tây Nguyên hiện nay, Tài liệu phục vụ
lãnh đạo, H. 2003, tr. 8.