XÂY DỰNG
LỰC
LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN LẤY XÂY DỰNG VỀ CHÍNH TRỊ LÀM CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN
MỚI.
ĐTM 012/2019
Lý luận và
thực tiễn đã khẳng định: xây dựng yêu tố chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng
vũ trang vững mạnh về mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến
đấu. Đây là một nguyên lý bất di, bất dịch. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch
sử, do bối cảnh của cuộc đấu tranh dân tộc trong nước và trên trường quốc tế;
do sự tác động của những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; do yêu
cầu của nhiệm vụ cách mạng, mà yêu cầu, nội dung xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị có sự phát
triển phù hợp.
Việc xây dựng
lực lượng vũ trang về chính trị trong giai đoạn hiện nay đặt ra những vấn
đề rất mới cả về nhận thức, tổ chức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải
phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù
hợp với những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam, góp phần nâng cao chất
lượng chính trị của xây dựng lực lượng
vũ trang đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
I. Xây dựng lực lượng vũ trang về
chính trị là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng của giai cấp công nhân.
1. xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo quan điểm
Mác – Lênin.
Cũng như
giai cấp và nhà nước, chiến tranh và quân đội là những hiện tượng chính trị xã
hội. Sự xuất hiện của chiến tranh và lực lượng vũ trang gắn chặt với sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. C.
Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin đã nghiên cứu lý luận về chiến tranh và lực lượng
vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với lý luận về giai cấp và nhà nước.
Lực lượng vũ trang là một hiện tượng lịch sử. Lực
lượng vũ trang ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người,
khi xuất hiện chế độ tư hữu và loài người bị phân chia thành các giai cấp. Đi
đôi với việc phân chia xã hội thành giai cấp, sự bất bình đẳng về sở hữu tài sản
càng trở nên sâu sắc, lực lượng vũ trang được tăng cường và có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ hơn. Khi xuất hiện bộ máy cưỡng bức đặc biệt là nhà nước, thì
cũng đẻ ra thiết chế xã hội mới về chất
là lực lượng vũ trang
Khi đã xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước,
nảy sinh mâu thuẫn đối kháng thì chiến tranh cũng xuất hiện trong đời sống xã hội.
đối với bọn bóc lột thì chiến tranh đã trở thành phương tiện và công cụ quan trọng
để nô dịch các dân tộc khác, để củng cố địa vị thống trị của chúng ở trong nước.
Ăng ghen đã viết: “ Quân đội là một tập đoàn người vũ trang có tổ chức, do nhà
nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công hoặc chiến tranh phòng
ngự”
Như vậy, sự xuất hiện của hiện tượng lực lượng vũ trang trong lịch sử gắn chặt với
sự xuất hiện của chế độ tư hữu, giai cấp, nhà nước và chiến tranh. Lực lượng vũ
trang là công cụ để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước
nhất định.
C. Mác, Ph.
Ăng ghen và Lênin xem xét vấn đề chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối
quan hệ chặt chẽ với chính trị. Phạm trù bạo lực, chiến tranh và lực lượng vũ
trang bao giờ cũng gắn liền với phạm trù chính trị - giai cấp. Chiến tranh là sự
kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực; lực lượng vũ trang là công cụ để tiến
hành chiến tranh, để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước
nhất định
Lực lượng vũ trang là lực lượng đặc biệt của một
giai cấp, là công cụ vũ trang chủ yếu của nhà nước để tiến hành chiến tranh nhằm
thực hiện mục đích chính trị của giai cấp. lực lượng vũ trang hiện và tồn tại gắn
liền với chính trị, bị chi phối bởi chính trị, là công cụ thực hiện chính trị.
Mọi mặt hoạt động của lực lượng vũ trang đều bị quy định bởi chính trị và phụ
thuộc vào chính trị. Chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối
quan hệ giữa lực lượng vũ trang với giai cấp, với chế độ xã hôi, với nhan dân,
với dân tộc. Lực lượng vũ trang bao giờ
cũng gắn chặt với giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu
sắc. Không có và không thể có lực lượng
vũ trang “phi giai cấp” hoặc “siêu giai cấp”, “quân đội phi chính trị” hoặc “đứng
ngoài chính trị”.
Trong khi chăm lo xây dựng sức mạnh toàn diện của lực
lượng vũ trang, để làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới thực sự trung thành và
phục vụ lợi ích của giai cấp vô sản, Mác, Ăng ghen và Lênin hết sức chăm lo xây
dựng lực lượng vũ trang về chính trị, nhất
là chăm lo củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ
trang, coi đó là vấn đề sống còn của lực lượng vũ trang cách mạng, là một trong
những nguyên tắc hết sức cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới.
Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị; xây dựng, củng
cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang C. Mác, Ph.
Ăng ghen và V.I Lênin đã thường xuyên
quan tâm xây dựng cả 3 phương diện chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là sự
kiên định và thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp công nhân;
giáo dục hệ tư tưởng Mác – Lênin, thực hiện đường lối, nguyên tắc tổ chức của
giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ quan lực lượng vũ trang theo
quan điểm, đường lối của giai cấp công nhân. Mặt khác, C. Mác, Ph. Ăng ghen và
V.I Lênin rất quan tâm xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa lực lượng
vũ trang với nhân dân, coi đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng
trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới
khác về chất với các kiểu lực lượng vũ trang của giai cấp, nhà nước bóc lột trước
đây. Đồng thời, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin rất quan tâm đến tăng cường
xây dựng các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, nhất là mối quan hệ
giữa cán bộ và chiến sĩ trên tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, trên cơ sở
thống nhất về nghĩa vụ và quyền lợi; tăng cường củng cố và phát triển mối quan
hệ hữu nghị giữa lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa trên tinh thần quốc
tế vô sản.
V.I Lênin đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành công tác tưởng, công tác tổ
chức trong lực lượng vũ trang, coi đó là một nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ
trang kiểu mới, trực tiếp nâng cao chất lượng chính trị, góp phần nâng cao sức
mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. V.I Lênin đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ
luận điểm sai lầm và phản động của giai cấp tư sản coi lực lượng vũ trang “ là
trung lập đứng ngoài chính trị”, từ đó đi tới phủ nhận nội dung giai cấp trong
xây dựng lực lượng vũ trang.
Những thảm kịch ở Liên Xô và Đông Âu đầu những năm
90 vừa qua là bài học đau xót và lời cảnh tỉnh cho những ai xa rời những nguyên
lý, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới,
nhất là vấn đề xây dựng lực lượng vũ
trang về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của lực
lượng vũ trang kiểu mới.
2. Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng
Hồ Chí Minh
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng lực lượng
vũ trang kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu
về xây dựng lực lượng vũ trang trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc,
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng
lực lượng vũ trang về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho lực lượng vũ trang ta luôn là lực
lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.
Bằng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại
cho chúng ta di sản quý báu, thể hiện ở một số nội dung sau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề
xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị,
lấy xây dựng chính trị làm cơ sở cho mọi mặt khác, coi việc xây dựng nhân tố
chính trị tinh thần là một trong những yêu tố quyết định đến tiến trình và kết
cục của chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhiệm vụ quân sự phải
phục tùng nhiệm vụ chính trị” và “Quân sự mà không có chính trị như cây không
có gốc, vô dụng lại có hại”
Tư tưởng coi trọng nhân tố chính tri – tinh thần,
coi trọng nguyên tắc xây dựng về chính trị thể hiện tập trung ở vấn đề cốt lõi
là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, bảo
đảm cho lực lượng vũ trang ta luôn luôn là lực lượng chính trị trung thành tin
cậy của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân
Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng
vũ trang ở một nước mà thành phần tham gia lực lượng vũ trang là con em của các
tầng lớp nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, là đóng góp lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về lý luận xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công
nhân. Đồng thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận
về sự thống nhất gắn bó giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và
tính dân tộc của lực lượng vũ trang nhân dân.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ
cơ bản như quan hệ giữa lực lượng vũ trang với Đảng, với Nhà nước, với nhân
dân, quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, quan hệ giữa lực lượng vũ trang
ta với lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa – những mối quan hệ cơ bản
quyết định quá trình hình thành, phát triển bản chất cách mạng và truyền thống
tốt đẹp của quân đội ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị gắn liền với
những quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải
qua thực tiễn hơn sáu thập kỷ qua những tư tưởng đó ngày càng được bổ sung, hoàn
thiện và trở thành những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng lực lượng vũ trang. Đó là nguyên tắc coi trọng
xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị,
lấy xây dựng vững mạnh về chính trị là “gốc”, là cơ sở cho xây dựng lực lượng
vũ trang vững mạnh toàn diện; không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân, tinh nhân dân, tính dân tộc; giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác lập và không ngừng nâng cao hiệu lực công tác
đảng, công tác chính trị; xây dựng tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong
sạch, vững mạnh và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Thực tiễn hơn 60 năm xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, chúng ta đã tạo dựng được sức mạnh chính trị – tinh thần to lớn của
lực lượng vũ trang để chiến đấu và chiến thắng những lực lượng vũ trang xâm lược
nhà nghề có số lượng đông, có vũ khí, trang bị, kỹ thuật hiện đại. Lực lượng vũ
trang ta đã lập nên những chiến công vẻ vang, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp đấu
tranh giành quyền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những giá trị lý luận xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị của Chủ tịch
Hồ Chí Minh cần được bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong giai đoạn hiện
nay – giai đoạn lực lượng vũ trang phải tập trung sức tạo ra bước chuyển biến mạnh
mẽ về chất lượng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở.
3. Những yếu tố tác động
đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính
trị trong giai đoạn hiện nay
a-
Tình hình thế giới khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng
những yếu tố khó lường đang tác động mạnh mẽ sâu sắc, nhiều mặt đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.
Cục diện
kinh tế, chính trị thế giới thay đổi sâu sắc, nhanh chóng, nhất là sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu làm cho tương quan so sánh lực
lượng giữa cách mạng và phản cách mạng thay đổi bất lợi cho chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục
diễn ra trong điều kiện mới, với những nội dung mới, hình thức phức tạp mới, dưới những sắc thái mới, mà tính chất của
chúng không kém phần gay go, quyết liệt
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát
triển với tốc độ phi thường đưa tới những tiến bộ to lớn, làm xuất hiện nhiều
nhân tố mới trong kinh tế và cả trên các mặt của đời sống xã hội … đồng thời,
làm nảy sinh những khó khăn thánh thức mới cực kỳ gay gắt.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù định thay đổi
chiến lược tiến công chủ nghĩa xã hội và các phong trào cách mạng tiến bộ trên
thế giới, từ xâm lược bằng vũ trang là chủ yếu sang xâm lược bằng phi vũ trang,
bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” là chủ yếu, kết hợp với răn đe quân sự, sẵn
sàng tiến hành chiến tranh xâm lược, kể cả tiến hành chiến tranh bằng vũ khí
công nghệ cao.
b-
Sự phát triển của đất nước trong tiến trình đổi mới, đẩy mạnh cong nghiệp hoá,
hiện đại hoá đặt ra những vấn đè mới đối với xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.
Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ ai thắng ai”
giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa của đời sống xã hội những nhân tố kinh tế, chính trị xã hội, giai cấp, tư
tưởng đang biến đổi và tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị
trên các mặt chủ yếu sau đây:
Sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế
thị trường đến xây dựng lực lượng vũ
trang về chính trị
Sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của
đất nước đã tác động tích cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm
lý của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang: lòng tin vào Đảng, vào chế độ
được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp xây dựng lực lượng
vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, làm
tăng thêm sức mạnh chính trị – tinh thần của lực lượng vũ trang .
Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tích cực, thì mặt
trái của nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những
tiêu cực mới, tác động không nhỏ đến lực lượng vũ trang như: ý thức giác ngộ
chính trị; nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự thoái hoá biến chất,
chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Vì vậy, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã lựa chọn là vấn đề cốt tử trong xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.
Sự tác động của những biến đổi về cơ cấu xã hội –
giai cấp ở nước ta hiện nay đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Trong
quá trình vận động, biến đổi, các giai cấp và tầng lớp xã hội có xu hướng xích lại gần nhau,
liên kết, hợp tác với nhau, trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặt khác với cơ cấu xã hội – giai cấp không thuần
nhất, phát triển đa dạng, đan xen, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự
không thuần nhất về chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính
trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng khác nhau thậm
chí đối lập nhau sẽ tác động đến quá trình xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay phải giải quyết mâu
thuẫn giữa việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân cho lực lượng vũ trang với thành phần tham gia lực lượng vũ trang từ các
giai cấp, tầng lớp khác nhau của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá
độ.
c-
Sự tác động của cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh ý thức hệ đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị
Hiện nay cùng với những tàn dư của tư tưởng phong
kiến, tư tưởng tiểu tư sản là hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa chống cộng và chủ
nghĩa cơ hội hữu khuynh, xét lại đang tấn công toàn diện và mạnh mẽ vào bản chất
cách mạng của quân đội ta.
Bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch coi trọng chống phá ta về chính trị, tư tưởng và văn
hoá, chúng tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng “về sự phá sản của chủ nghĩa Mác –
Lênin”, rêu rao luận điệu “ Phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang làm tha hoá về
tư tưởng, đạo đức, lối sóng của cán bộ, chiến sĩ ta, làm cho lực lượng vũ trang
biến chất về chính trị.
Đây là cuộc
chiến tranh không có khói lửa, không có tiếng súng, không dễ dàng nhận rõ mặt kẻ
thù như trong chiến tranh vũ trang trước đây, chúng ta không chỉ chống lại chiến
lược “Diễn biến hoà bình” mà còn chống lại cả nguy cơ “Tự diễn biến” từ bên
trong.
Trong những điều kiện đó việc giáo dục chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tư tưởng đó trở thành hệ tư tưởng
chủ đạo trong đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang, là một nội dung rất cơ
bản, có tính chất quyết định đến xây dựng
lực lượng vũ trang về chính trị.
d-
Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Quán triệt đường lối cách mạng của Đảng qua các thời
kỳ và từ thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta từ sau năm 1975 đến
nay, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có sự phát triển từng bước và đổi
mới mạnh mẽ trong quá trình đổi mới đất nước.
Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ chủ yếu là tư duy về
quân sự, về chiến tranh đã phát triển một cách toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong thời bình, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
ngoại giao, quân sự; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân để chủ động ứng phó với mọi tình huống,
ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà bình để xây dựng đất nước, đồng thời
chuẩn bị sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
Phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng – an ninh với đối
ngoại; quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước
theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong khi đặt nhiệm vụ trọng tâm vào nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, luôn coi trọng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ gắn
bó chặt chẽ, quan hệ khăng khít với nhau
Yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn hiện nay được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau
đây:
Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc gắn chặt với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị,
an ninh kinh tế, an ninh tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ
cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy
lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động,
bất ngờ.
Xây dựng và phát triển chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện,
vững mạnh, đồng thời phải trực tiếp bảo vệ từng tế bào của chế độ một cách kiên
quyết và thường xuyên. Xây dựng và bảo vệ xâm nhập lẫn nhau, diễn ra một cách
phổ biến, thường xuyên ở mọi lúc mọi nơi, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt
động, trong mỗi tổ chức, mỗi con người.
Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, một mặt nhấn mạnh tích cực xây dựng đất nước
về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác không coi nhẹ các biện
pháp vũ trang bảo đảm có đủ sức mạnh cần thiết để răn đe, giữ vững hoà bình và
sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược. điều đó đòi hỏi:
Phải chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước:
tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị – tinh thần, tiềm lực khoa học – công nghệ
và tiềm lực quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
bảo vệ, giữ gìn hoà bình, không để xảy ra chiến tranh là thượng sách để giữ nước.
Xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là tạo ra sức mạnh
lớn nhất để bảo vệ đất nước, là quá trình bảo vệ tích cực nhất, chủ động nhất.
Mỗi bước phát triển của quá trình xây dựng là tạo nên một sức mạnh mới để bảo vệ
Tổ quốc
Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình
huống.
Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng an ninh và đối ngoại
trong công cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ động đối
phó có hiệu quả và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động chống phá từ bên
trong và tấn công quân sự từ bên ngoài của các thế lực thù địch.
e- Vai trò của lực lượng vũ
trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay:
Cùng
toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo
loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng
thế trận chiến tranh nhân dân ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh
xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến
đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới
Luôn
luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữa vững
ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển
kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong
giai đoạn mới.
Tích cực tham gia, xây dựng
kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang
lao động sản xuất trong giai đoạn mới.
II- Những giải pháp cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân về
chính trị trong giai đoạn hiện nay.
1. Nâng cao giác ngộ, lập
trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang.
Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị
là vấn đề rất cơ bản, làm cơ sở tạo ra sức mạnh của lực lượng vũ trang. Chỉ có
giác ngộ chính trị cao, lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng thì lực lượng
vũ trang mới kiên định với mục tiêu lý tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc,
với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao
Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị
là yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh chính trị, tư tưởng, tinh thần, làm cơ sở tạo
thành sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang. Lập trường, bản lĩnh chính trị
còn là cơ sở để cán bộ, chiến sĩ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
trong thực hiện nhiệm vụ. Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là
điều kiện cơ bản để cán bộ, chiến sĩ nhận thức, xem xét và giải quyết đúng đắn
các sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã hội; nhận thức đúng kẻ thù, không mơ
hồ ảo tưởng, lẫn lộn bạn – thù, địch – ta; có thái độ kiên quyết, đấu tranh bảo
vệ cái đúng, phê phán cái xấu, cái sai.
Lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ
trang còn là một trong những điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị,
làm cho lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà
nước, nhân dân
Nội dung nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường, bản
lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang bao gồm:
Nâng cao nhân thức, giác ngộ cho cán bô, chiến sĩ về mục tiêu, lý tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tin tưởng vào con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; kiên định, không giao động, hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường
đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; xây dựng ý chí, động cơ, quyết tâm
thực hiện mục tiêu lý tưởng; đấu tranh với những quan điểm sai trái, hiện tượng
hòai nghi, dao động về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu, học tập, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, bảo
vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước; lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của lực lượng vũ trang. Thường
xuyên tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho
hệ tưởng của Đảng giữ vai trò chủ đạo chi phối, định hướng nhận thức và hành động
của lực lượng vũ trang. Thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí
minh, bổ sung, hoàn thiện đường lối. đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại,
các trào lưu tư tưởng tư sản, phản động, những quan điểm, hiện tượng sai trái,
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thường xuyên quán triệt, phổ biến tình hình, nhiệm
vụ cách mạng nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, của từng đơn vị. Làm cho cán bộ
chiến sĩ trong lực lượng vũ trang luôn thấu triệt nhiệm vụ, nắm vững tình hình
mọi mặt, có động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện mọi nhiệm vụ được giao.
Giáo dục âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, xây dựng ý thức cảnh giác sẵn sàng chiến
đấu cho cán bộ, chiến sĩ.
Thường xuyên giáo dục truyền thống, lịch sử vẻ vang
của dân tộc, của Đảng, của quân đội, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu Đảng,
yêu chế độ, yêu nhân dân. Xây dựng tình cảm, trách nhiệm giữ gìn và phát huy
truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc và quân đội.
Bồi dưỡng, xây dựng, hình thành ở cán bộ, chiến sĩ
thế giới quan khoa học và cách mạng, có quan điểm và phương pháp xem xét, giải
quyết các sự kiện, hiện tượng một cách đúng đắn, có lập trương, bản lĩnh chính
trị vững vàng, có thái độ kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái mới, cái tiến
bộ, phê phán cái xấu, cái sai, cái tiêu cực, lạc hậu
Đấu tranh khắc phục, ngăn chặn những hiện tượng
thoái hoá, biến chất về chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu kiên định, thiếu nhạy
cảm về chính trị, “dĩ hoà vĩ quý” “ gió chiều nào che chiều ấy”, cơ hội, thủ đoạn
về chính trị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh…
2. Giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước đối với lực lượng vũ trang.
Kiên trì, giữ vững sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, kết
hợp với nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang, lĩnh
vực quốc phòng, an ninh. Đấu tranh chống thủ đoạn “phi chính trị hoá” quân đội
của các thế lực thù địch.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối
với quân đội. Củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng uỷ Quân sự
Trung ương.
Xây dựng các tổ chức trong lực lượng vũ trang trong
sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của quân đội.
Thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ đảng
gắn với kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ trì, cán bộ chủ chốt.
Coi trọng củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là xây dựng chi bộ
trong sạch vững mạnh, cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Kết hợp
chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, có
chất lượng cao, số lượng phù hợp, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, với
xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giữ vững và thực hiện nghiêm túc các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm
việc. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật Đảng.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng, thực hiện ché độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị
viên trong quân đội. Chế độ một người chỉ huy và chế độ chính uỷ, chính trị
viên đều là bộ phận trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Người chỉ
huy và người chính uỷ, chính trị viên hoạt động dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng
uỷ cùng cấp. Người chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chủ
trì công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị. Quan hệ giữa người chỉ huy
và người chính uỷ, chính trị viên là quan hệ hợp đồng công tác.
Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, tăng cường hiệu lực
quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững
sự lãnh đạo của Đảng với tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với lực lượng
vũ trang. Không đối lập sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước. Khắc
phục quan niệm sai lầm đòi tăng cường sự quản lý của Nhà nước bằng cách buông lỏng
sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
3.3 Nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tư, công tác tổ chức trong lực lượng vũ trang
Nắm vững đường lối, nhiệm vụ chính trị; bám sát đối
tượng và tình hình thực tiễn, đổi mới nội dung hình thức, tiến hành công tác tư
tưởng, công tác tổ chức phù hợp, thiết thực kịp hời. đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tư tưởng, văn hoá, nhất là công tác giáo dục chính trị, công
tác tư tưởng lý luận, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; xây dựng và tuyên
truyền đường lối, chính sách, giải thích có lý, có tình những hiện tượng của đời
sống xã hội; đấu tranh tư tưởng lý luận; xây dựng, củng cố niềm tin vào mục
tiêu lý tưởng, xây dựng động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cho
cán bộ, chiến sĩ. Đổi mới công tác tổ chức
xây dựng Đảng, công tác cán bộ, công tác quần chúng, công tác chín sách…kết hợp
chặt chẽ công tác tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách để tiến
hành có hiệu quả mọi nhiệm vụ, mọi lĩnh vực hoạt động của lực lượng vũ trang
3.4. Xây dựng và phát
huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị
trong xây dựng lực lượng vũ trang về
chính trị
Đội ngũ cán bộ là lực lượng nòng cốt tạo thành tổ
chức, tạo thành quân đội. Đường lối, chính sách và cán bộ là nhân tố quyết định
sự nghiệp cách mang, xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang. Bản chất
giai cấp công nhân, bản chất chính trị xã hội, sức mạnh chính trị của lực lượng
vũ trang được thể hiện tập trung ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ. Đội
ngũ cán bộ là người trực tiếp chỉ huy đơn vị, giáo dục rèn luyện chiến sĩ, tổ
chức xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh
làm cơ sở để xây dựng các đơn vị lực lượng vũ trang vững mạnh vè chính trị, giáo dục, rèn luyện
chiến sĩ. Để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị phải hết sức
coi trọng xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ chủ trì về chính trị.
3.5. Xây dựng các tổ chức
chính trị - xã hội trong lực lượng vũ trang vững mạnh, hoạt động đúng chức
năng, đảo bảo chất lượng, hiệu quả.
Các tổ chức chính trị trong lực lượng vũ trang gồm:
đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ, Công đoàn, Hội đồng quân
nhân. Đây là một bộ phận của hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động ở các
đơn vị lực lượng vũ trang để đại diện, bảo vệ lợi ích và thực hiện, phát huy quyền
làm chủ của các thành viên, hội viên. Cùng với việc xây dựng tổ chức đảng trong
sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện thì xây dựng tổ chức chính
trị, xã hội vững mạnh sẽ trực tiếp góp
phần xây dựng, củng cố thể chế chính trị trong lực lượng vũ trang vững mạnh – một
nội dung cơ bản xây dựng lực lượng vũ
trang về chính trị.
3.6. Tăng cường củng cố
sự đoàn kết thống nhất, phát huy dân chủ, tăng cương kỷ luật, giải quyết tốt
các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang.
Quan hệ chính trị của lực lượng vũ trang được thể
hiện trước hết ở quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang. Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng
xây dựng củng cố và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng
vũ trang, đó là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, quan hệ đồng chí đồng đội,
quan hệ cá nhân với tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy với phục tùng… Đây là mối quan hệ
nội tại bên trong của quân đội cách mạng, được thể hiện trên cơ sở giác ngộ sâu
sắc về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, thống nhất lợi ích. Vì vậy, các mối quan hệ
đó phải được thực hiện trên cơ sở tuân
thủ nghiêm ngặt những quy định của điều lệnh, kỷ luật của lực lượng vũ trang đồng
thời phải thực sự dân chủ, bình đẳng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ,
lợi ích. Cá mối quan hệ đó phải được xây dựng và giải quyết trên nền tảng của
tình cảm đồng chí, đồng đội, luôn sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ để hoàn
thành nhiệm vụ. Đó phải là mối quan hệ đoàn kết, thương yêu, đùm bọc giúp đỡ lẫn
nhau được tạo lập và phát triển từ yêu càu của hoạt động lực lượng vũ trang, hoạt
động chiến đấu.
3.7. Nâng cao chất lượng
công tác dân vận, giữ vững, tăng cường quan hệ đoàn kết quân dân.
Lực lượng vũ trang ta là lực lượng vũ trang của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân là thể hiện
bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang. Hơn nữa,
cơ sở chính trị xã hội vững chắc của quân đội là nhân dân, sức mạnh từ gốc của
lực lượng vũ trang là trận địa lòng dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân, vì nhân
dân mà chiến đấu… Là tiêu chí để phân biệt quân đội cách mạng với phản cách mạng,
đồng thời thể hiện tập trung bản chất chính trị của lực lượng vũ trang. Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng
giữ vững, tăng cường quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tiến hành và nâng
cao công tác dân vận.
3.8. Thường xuyên quán
triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát huy vai trò nòng
cốt của lực lượng vũ trang trong giữ vững ổn định chính trị .
Hồ Chí Minh khẳng định: Chính trị của lực lượng vũ
trang phải được thể hiện trong lúc đánh giặc. Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị được thể hiện
bằng những hoạt động chính trị, giải quyết các mối quan hệ chính trị, được hội
tụ ở việc tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
Cần thực hiện thống nhất và thực hiện tốt chức năng
đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất, đội quân công tác của lực lượng vũ trang
trong thời kỳ mới. Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững đường lối,
chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh, nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. xây dựng quân đội cách
mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên
hùng hậu, vững chắc; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp mọi nơi nòng cốt
cho nhân dân địa phương đánh giặc. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu,
trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Tổ chức thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Ngăn chăn làm thất bại mọi
mưu đồ xâm lược, “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch.
3.9. Tích cực đấu tranh
trên mặt trận chính trị, tư tưởng, phong, chống “diễn biến hoà bình” “phi chính
trị hoá” lực lượng vũ trang.
Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị phải kết hợp
chặt chẽ với đấu tranh chống những âm mưu, thủ đoạn, quan điểm, hiện tượng sai
trái thù địch. Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang sử dụng
chiến lược diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá toàn diện sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Một trong những thủ đoạn cơ bản của chiến lược
đó là chống phá trên lĩnh vực chính trị tư tưởng – văn hoá, “phi chính tri hoá”
lực lượng vũ trang . Phòng, chống, đấu tranh, ngăn chặn và làm thất bại những
âm mưu thủ đoạn đó sẽ góp phần trực tiếp xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang về
chính trị.
Tích cực, kiên quyết đấu tranh vạch trần những thủ
đoạn xuyên tạc phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội và trong lực lượng vũ
trang; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận lịch sử, truyền thống hào hùng của Đảng,
dân tộc, lực lượng vũ trang, những luận điệu “ đa nguyên về chính trị, đa đảng
đối lập”; ca ngơi, cổ vũ những giá trị của chủ nghĩa tư bản, văn hoá, lối sống
phương tây; những thủ đoạn kích động đối lập Đảng với Nhà nước, với hệ thống
chính trị, với lực lượng vũ trang; xuyên tạc, phủ nhận bản chất, mục tiêu, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, tầm
thường hoá, vô hiệu hoá vai trò của lực lượng vũ trang trong thời bình.
Xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân vững mạnh lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở là yêu cầu
khách quan, là nguyên tắc bất di, bất dịch trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải toàn diện, cả về chính trị, quân sự, hậu
cần, kỹ thuật… trong đó xây dựng về chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu, có
ý nghĩa quyết định đối với hoàn thành nhiệm vụ được giao của các lực lượng vũ
trang, sự sống còn của chế độ. Để đáp ứng
yêu cầu đó, Đảng phải nắm vững những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam xác định quan điểm chỉ đạo xây dựng lực
lượng vũ trang đúng đắn, nhằm xây dựng lực lượng vũ trang trở thành lực lượng
nòng cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
mọi tình huống. Ngày nay thường xuyên quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân về chính trị; nhất là trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO. Thực hiện
tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo
của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân. Thực hiện tốt Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị trong
quân đội… Đảm bảo: Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” lực lượng vũ
trang nhân dân.
Tài liệu
tham khảo
1.
Lênin, Toàn tập, tập 12, 41, Nxb
Mátxcơva, 1980.
2. Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 3, 5, 6, 7, 9 và 11, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000.
3.
Văn kiện Đại hội Đảng IX, X, Nghị quyết Trung ương VIII Khoá IX.
4.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VII, VIII.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét