Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


MỘT SỐ VẤN ĐỀ  VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN  VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
ĐTM 015/2019
Nội dung cơ bản  của tư tưởng nhà nước pháp quyền là: nhà nước mà trong đó mọi chủ thể ( kể cả các cơ quan nhà nước ) đều phải nghiêm chỉnh phục tùng pháp luật, một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những  giá trị cao cả nhất  của xã hội,  của con người. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền, đã có từ lâu đời trong lịch sử phát triển  của xã hội loài người. Tuy nhiên, nhà nước và pháp luật đều là công cụ thống trị  của một giai cấp đối với toàn xã hội, do vậy tư tưởng nhà nước pháp quyền trong các chế độ xã hội không thể giống nhau. Do vậy, tìm hiểu tư tưởng nhà nước pháp quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, giúp chúng ta quán triệt tư tưởng  của Đảng, góp sức mình biến tư tưởng  của Đảng thành hiện thực. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà  tệ tham nhũng, quan liêu đang trở thành quốc nạn, thì tư tưởng nhà nước pháp quyền  của Đảng là cơ sở lý luận để xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, xứng đáng là nhà nước  của dân, do dân, vì dân.
 Cùng với những  thành tựu  to lớn về nhiều mặt của công cuộc đổi mới, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng nhà nước ngày càng sáng rõ, cho phép Đảng ta khẳng định quyết tâm xây dựng nhà nước pháp quyền  của dân, do dân, vì dân. Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo  của Đảng. Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân, là nhà nước pháp quyền  của dân, do dân, vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật.
 Những  luận điểm nêu trên thể hiện những  nội dung cơ bản nhất về: bản chất, đặc điểm, tổ chức  của nhà nước pháp quyền ở nước ta. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, vừa là tiếp thu có chọn lọc tư tưỏng và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền đã có trong lịch sử, phù hợp với đặc điểm và quá trình xây dựng nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
Xây dựng nhà nước thực sự  của dân, do vì dân là quan điểm nhất quán  của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam trong toàn bộ tiến trình cách mạng. Vì vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay  thực chất là xây dựng nhà nước thực sự  của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền mà chúng ta xây dựng là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bản chất giai cấp  của nhà nước pháp quyền ở nước ta vẫn là bản chất giai cấp công nhân, khác hẳn với bản chất  của nhà nước pháp quyền tư sản .
Trong nhà nước pháp quyền ở nước ta, nhân dân thực sự là chủ thể  của quyền lực nhà nước, là người tổ chức ra nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động  của nhà nước; nhà nước là hình thức quyền lực  của nhân dân, thông qua nhà nước mà quyền lực  của nhân dân mang tính quyền lực nhà nước và có hiệu lực trên thực tế ở phạm vi cả nước. Sức mạnh và quyền lực  của nhà nước đều bắt nguốn từ nhân dân, chứ không phải nhà nước là người ban quyền lực cho nhân dân. Nhân dân là người uỷ quyền cho nhà nước, nhà nước và cán bộ công chức  của nhà nước phải thực thi đúng quyền lực mà nhân dân giao  cho.
Hồ Chí Minh đã căn dặn: các cơ quan  của chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc  của dân, nghĩa là ngánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như thời kỳ dưới quyền thống trị  của Nhật, Pháp. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Thấu suốt tư tưởng  của Hồ Chí Minh,  Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.”[1]

Khi bàn về chế độ dân chủ Các Mác cho rằng: chế độ dân chủ thực chất là chế độ do dân tự quy định nhà nước. Vì vậy, với tư cách là công cụ thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải chủ động tạo môi trường, cơ chế và điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, thực hiện quyền làm chủ  của mình trong tất cả các phương diện  của đời sống xã hội.
Trước hết, nhà nước phải tổ chức tốt quá trình dân chủ hoá trên các phương diện: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Về hoạt động lập pháp: cần tổ chức lấy ý kiến  của nhân dân vào các dự án luật, tổ chức trưng cầu ý kiến nhân dân về các vấn đề quan trọng  của đất nước; tổ chức quá trình làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp. Về hoạt động hành pháp: tổ chức cho nhân dân đóng góp ý kiến vào kế hoạch phát triển  kinh tế xã hội, vào các quá trình qủan lý; thu hút nhân dân tham gia thực hiện quản lý theo ngành, theo lãnh thổ; tổ chức cho nhân tham gia giải quyết những  tranh chấp, khiếu nại, tố cáo  của công dân trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước.
Về hoạt động tư pháp: thu hút, huy động tối đa khả năng  của nhân dân,  của các tổ chức xã hội và tổ chức nghề nghiệp tham gia rộng rãi các hoạt động tư pháp, thông qua đó năng cao năng lực làm chủ nhà nước và trách nhiệm chính trị  của nhân dân đối với nhà nước; tạo điều kiện để nhân dân làm quen với công việc quản lý nhà nước.
Nhà nước pháp quyền  của dân, do dân, vì dân ở nước ta, tất cả quyền lực mà nhân dân uỷ thác cho nhà nước  phải được tổ chức phù hợp để phát huy sức mạnh  của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực sự làm chủ trong kiểm tra, giám sát hoạt động  của các cơ quan nhà nước, tránh sự lạm dụng quyền lực từ phía nhà nước. Do đó, quyền lực nhà nước là tập trung, thống nhất, không phân chia quyền lực cho các cơ quan nhà nước theo kiểu chế ước lẫn nhau như  nhà nước pháp quyền tư sản. Mặt khác tập trung quyền lực luôn gắn chặt với sự phân công quyền lực cho các cơ quan nhà nước, phối hợp thực thi các chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Để tạo khuôn khổ cho quá trình thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân, nhà nước phải thường xuyên quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ nghiêm kỹ cương xã hội. Nhà nước thể chế hoá đướng lối, chủ trương lãnh đạo  của Đảng, thể chế hoá quyền, nghĩa vụ, lợi ích chính đáng  của nhân dân trong hệ thống pháp luật để khi ban hành nó có hiệu lực pháp lý cao, buộc mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ công chức và mọi công dân phải có nghĩa vụ chấp hành.
 Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh đó là nguyên tắc  của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồ Chí Minh đã dạy: giải quyết mọi công việc phải thấu lý  trọn tình, phải có lòng khoan dung độ lượng, nhưng pháp luật phải thẳng tay trừng trị những  kẻ bất liêm, bất kể kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, mặt trái  của cơ chế thị trường cũng đang thường xuyên tác động đến mọi mặt  của đời sống xã hội, đặc biệt là tệ quan liêu tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Không ít cán bộ, công chức nhà nước lợi dụng chức quyền để thực hiện hành vi tham nhũng, móc ngoặc tạo thành vây cánh để che chắn cho nhau trước pháp luật. 
Tệ tham nhũng đã trở thành một quốc nạn, là một trong bốn nguy cơ de doạ đến sự tồn vong  của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Để đấu tranh chống tệ quan liêu và tham nhũng thì một giải pháp có tính chất chiến lược là phải xây dựng được một nhà nước pháp quyền thực sự  của dân, do dân, vì dân.
 Muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự  của dân, do dân, vì dân thì vấn đề quan trọng hàng đầu là yếu tố con người. Phải lựa chọn, đào tạo những  con người có đủ phẩm chất và năng lực đứng vững trước những cám dỗ, cạm bẫy  của cơ chế thị trường. Mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, đòi hỏi phải có tiêu chuẩn khác nhau đối với những  cán bộ  của bộ máy nhà nước. Hơn bao giờ hết, hiện nay chúng ta càng thấm thía lời dạy  của Lê-nin: “ Trong vấn đề cải tiến bộ máy nhà nước, những  yêu cầu đối với con người không hoàn toàn giống như những  yêu cầu đối với thời chiến tranh” [2]. Muốn xây dựng bộ máy nhà nước thật sự có chất lượng, xứng đáng với với danh hiêụ nhà nước xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đầu tiên đối với con người  là phải có trình độ văn hoá cần thiết.
 Muốn có đủ trình dộ văn hoá cần thiết, cần phải học tập và chỉ có học tập, cứ không thể chỉ sử dụng bất cứ một trong những  đức tính tốt đẹp nhất  của con người; không thể thay thế kiến thức, học thức bằng sự sốt sắng, hấp tấp, vội vàng. Đồng thời việc học tập không phải nhằm mục đích tự thân; những  kiến thức đã học phải thực sự gắn với cuộc sống, phải trở thành một bộ phận khăng khít  của cuộc sống phục vụ đắc lực cho cuộc sống. Để phát huy hiệu quả  của đào tạo, phải bố trí sử dụng hợp lý, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và năng lực  của từng người.
Thực tế hiện nay ở nước ta còn có khoảng cách rất lớn giữa đào tạo và sử dụng trong toàn xã hội nói chung cũng như trong bộ máy nhà nước; nơi thừa, nơi thiếu, làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo, làm lãng phí thời gian và tiền bạc  của từng cá nhân cũng như toàn xã hội, hiệu quả công tác thấp. Để khắc phục được thực trạng nêu trên cân phải thực hiện nguyên tắc: xuất phát từ việc để bố trí người chứ không phải từ người mà bố trí việc.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự  của dân, do dân ,vì dân thì một nội dung không kém phần quan  trọng là: đội ngũ cán bộ công chức nhà nước phải được đãi ngộ một cách xứng đáng với lao động  của họ. Thu nhập  của cán bộ công chức nhà nước bảo đảm để họ có sống cao hơn mặt bằng chung  của xã hội. Tất nhiên, các khoản thu nhập phải được công khai hoá, tiền tệ hoá, chống các thu nhập có tính chất đặc quyền, đặc lợi. Với mức thu nhập như vậy, không cần tham nhũng cán bộ công chức  vẫn sống đàng hoàng.
Đi cùng với chế độ đãi ngộ xứng đáng thì cũng cần phải có những chế định về pháp luật và kinh tế, để cán bộ công chức nhà nước không dám tham nhũng. Trước hết về pháp luật cần quy định khung hình phạt nặng hơn đối với cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp luật; cùng một hành vi vi phạm, nhưng cán bộ giữ cương vị càng cao thì hình phạt càng nặng. Về kinh tế, nếu cán bộ công chức nhà nước tham nhũng gây thiệt hại về kinh tế thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về kinh tế; để tránh tẩu tán tài sản cho con, cháu, họ hàng, pháp luật cũng cần có quy định: con, cháu, họ hàng  của người tham nhũng phải chứng minh được tính hợp pháp tài sản  của mình, nếu không tài sản  của con, cháu, họ hàng sẽ bị tịch thu để bồi thường thiệt hại kinh tế  mà người tham nhũng đã gây ra.
Để chống tham nhũng có hiệu quả cần phải  tạo ra cơ chế để những  người muốn tham nhũng cũng không thể tham nhũng được. Muốn vậy phải thực hiện công khai, minh bạch mọi hoạt động  của bộ máy nhà nước: công khai công tác cán bộ; công khai thu nhập, quyền lợi và nghĩa vụ  của cán bộ, công chức nhà nước; công khai thu chi tài chính… Đồng thời với công khai phải phát huy được vai trò  của tổ chức Đảng, các tổ chức quần chúng trong việc giám sát mọi hoạt động  của cán  bộ và công chức nhà nước.
Đặc biệt là phải phải phát huy được vai trò giám sát  của nhân dân, vì  không có một hành vi nào có thể qua được tai mắt  của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, để nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cần phải có những  hình thức và biện pháp có hiệu quả để bảo vệ những  người  dũng cảm đứng ra tố cáo những  hành vi tham nhũng. Tham nhũng là quốc nạn, là giặc nội xâm, vì vậy những  người dũng cảm chống tham nhũng phải được khen thưởng xướng đáng kể cả vật chất và tinh thần, phải được tặng thưởng những  danh hiệu cao quý  của nhà nước. Thực hiện những nội dung trên đây chính là tạo ra một cơ chế để cán bộ, công chức nhà nước không cần, không dám, không thể tham nhũng.
Sự nghiệp đổi mới  của nước ta hiện nay, đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động  của bộ máy nhà nước theo định hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống tệ quan liêu tham nhũng. Quá trính đó đòi hỏi Đảng ta phải trung thành với học thuyết Mác- Lênin về nhà nước pháp luật; trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước  của dân, do dân, vì dân; tiếp thu có phê phán tư tưởng, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền và kinh nghiệm đấu tranh chống tham nhũng  của các nước trên thế giới. Trên cơ sở đó, phải không ngừng đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo, định ra phương hướng chủ trương giải pháp cụ thể để từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam  thực sự là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, đủ sức mạnh hoàn thành sứ mạnh vẻ vang xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000,T4, Tr.56,57
2. Lênin toàn tập, t45 Nxb tiến bộ M, tr  444







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét