Thứ Năm, 11 tháng 6, 2020

“Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.


Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Chương trình xác định tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.

Chương trình Chuyển đổi số quốc gia hướng tới mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với một số chỉ số cơ bản. Trong đó, về phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động, các mục tiêu cơ bản đến năm 2025 của chương trình là: 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật Nhà nước).
100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế-xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ; 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, đăng ký doanh nghiệp, tài chính, bảo hiểm được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; từng bước mở dữ liệu của các cơ quan Nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời, một lần khai báo, trọn vòng đời phục vụ người dân và phát triển kinh tế-xã hội.
50% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý Nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý; và Việt Nam thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
Về phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, các mục tiêu đến năm 2025 là đưa kinh tế số Việt Nam chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; năng suất lao động hằng năm tăng tối thiểu 7%.
Cùng với đó, chương trình cũng hướng tới mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về CNTT (IDI), nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI) và thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII).
Đối với phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số, các mục tiêu cơ bản đến năm 2025 bao gồm: Hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình, 100% xã; phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; và Việt Nam thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Thủ tướng Chính phủ cũng xác định rõ 6 quan điểm, cách tiếp cận của chương trình, trong đó: Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số; người dân là trung tâm của chuyển đổi số; thể chế và công nghệ là động lực của chuyển đổi số; phát triển nền tảng số là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả; bảo đảm an toàn, an ninh mạng là then chốt để chuyển đổi số thành công và bền vững, đồng thời là phần xuyên suốt, không thể tách rời của chuyển đổi số; và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia của toàn dân là yếu tố bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số. 
Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đã vạch ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần triển khai nhằm tạo nền móng chuyển đổi số; phát triển chính phủ số; phát triển kinh tế số và phát triển xã hội số. Cụ thể, để tạo nền móng chuyển đổi số, chương trình xác định, cần chuyển đổi nhận thức về sứ mệnh, sự cần thiết, tính cấp bách của chuyển đổi số trong xã hội, lan truyền từ điểm tới diện, từ một nhóm tổ chức, cá nhân tiên phong tới cộng đồng, bằng những câu chuyện thành công điển hình, có tính thuyết phục cao.
Triển khai nhiệm vụ nêu trên, 4 giải pháp cụ thể được đưa ra là: Người đứng đầu chịu trách nhiệm trực tiếp về chuyển đổi số trong cơ quan, tổ chức, lĩnh vực, địa bàn mình phụ trách; thành lập và duy trì hoạt động hiệu quả liên minh chuyển đổi số để truyền cảm hứng, đi tiên phong; xây dựng bộ nhận diện chung cho chương trình chuyển đổi số quốc gia; mỗi địa phương chủ động lựa chọn một xã/phường để triển khai thử nghiệm công tác truyền thông, phổ biến các kỹ năng số cơ bản cho người dân.
Về kiến tạo thể chế, theo Chương trình, nhiệm vụ này cần được triển khai theo hướng khuyến khích, sẵn sàng chấp nhận sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số, thúc đẩy phương thức quản lý mới đối với những mối quan hệ mới phát sinh, bao gồm: Chấp nhận thử nghiệm sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số; xây dựng khung pháp lý thử nghiệm; rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực chuyên ngành; rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh.
Cùng với đó, cần nghiên cứu đề xuất, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về CNTT và truyền thông; Nghiên cứu chính sách, quy định cụ thể về thuế, phí để khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng, cung cấp các dịch vụ số; Rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật dân sự, hình sự và các luật chuyên ngành theo hướng tăng nặng mức và hình phạt cho các hành vi lừa đảo, gian lận khi giao dịch trên không gian mạng. 
Đối với nhóm nhiệm vụ, giải pháp phát triển hạ tầng số, yêu cầu đặt ra là sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối và xử lý dữ liệu, các chức năng về giám sát mạng lưới đến từng nút mạng và bảo đảm an toàn, an ninh mạng được tích hợp sẵn ngay từ khi thiết kế, xây dựng.
Để triển khai nhiệm vụ này, 4 giải pháp cụ thể sẽ được tập trung triển khai, đó là: Xây dựng, phát triển hạ tầng băng rộng; Nâng cấp mạng di động 4G, triển khai mạng di động 5G, kết hợp với yêu cầu tích hợp công nghệ 4G, 5G đối với các sản phẩm điện thoại di động và phổ cập điện thoại di động thông minh; Mở rộng kết nối internet trong nước, phổ cập tên miền .vn; Phát triển hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT) và tích hợp cảm biến để chuyển đổi hạ tầng truyền thống thành một bộ phận cấu thành quan trọng của hạ tầng số.
Trong nhóm nhiệm vụ, giải pháp này, việc phổ cập điện thoại di động thông minh - mỗi người dân một điện thoại di động thông minh và phổ cập hạ tầng băng rộng - mỗi hộ gia đình một đường cáp quang có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số. Cũng để tạo nền móng chuyển đổi số, Chương trình Chuyển đổi số quốc gia còn đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về Phát triển nền tảng số; Tạo lập niềm tin, bảo đảm an toàn, an ninh mạng; Hợp tác quốc tế, nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong môi trường số.
BCH


Việt Nam làm được là bài học hết sức quý giá cho các nước


Đến thời điểm này, có thể coi cuộc chiến chống “giặc Covid-19” của Việt Nam đã giành thắng lợi. Ngay từ đầu, khi Covid-19 tràn qua biên giới, Việt Nam đã nhận biết và đánh giá đúng tác hại không thể lường trước nếu lơ là, mất cảnh giác, coi thường nó và đã xác định ngay chống Covid-19 như chống giặc.

Trong khi Việt Nam đã giành thắng lợi cơ bản thì không ít quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đang đương đầu với đại dịch Covid-19. Nhiều nước trên thế giới đã ca ngợi thành công của Việt Nam, một đất nước tiềm lực kinh tế còn hạn chế nhưng đã không chịu khuất phục "giặc Covid-19", đã chiến đấu kiên cường và giành thắng lợi một cách ngoạn mục. Cho đến cuối tháng 5 vừa qua, khi Việt Nam đã là một trong những nước mở cửa sớm nhất để phục hồi nền kinh tế thì trên hệ thống truyền thông của nhiều nước vẫn không ít nhận xét, đánh giá về thành công của Việt Nam và cho rằng những gì Việt Nam làm được là bài học hết sức quý giá cho các nước; ngay từ đầu, Việt Nam đã tiến hành cách ly người về từ ngoài biên giới để đánh chặn Covid-19; cách phòng dịch sớm, chủ động phòng ngừa từ xa của Việt Nam là cách ít tốn kém nhất và đem lại kết quả tốt nhất… Chính vì vậy, thành công đáng nể nhất là Việt Nam đã bảo vệ được mạng sống người dân của mình hiệu quả nhất. Cũng từ thành công của Việt Nam, truyền thông nhiều nước, các chính trị gia, nhà kinh tế khẳng định Việt Nam sẽ là một trong số ít nước trên thế giới kinh tế tăng trưởng dương trong năm 2020.
Vậy mà khi thế giới đang hết lời khâm phục Việt Nam thì lại có những giọng điệu lạc lõng, những luận điệu xảo trá của những kẻ bất mãn chế độ, của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm xuyên tạc, bôi đen, bóp méo sự thật, muốn phủ nhận sạch trơn thành quả chống "giặc dịch" của chúng ta. Họ cho rằng Việt Nam chống được dịch Covid-19 là vì Việt Nam đàn áp nhân dân. Họ gọi những thôn, xã, phường cách ly là những "nhà tù" không hơn không kém. Việt Nam không minh bạch thông tin, bóp nghẹt tự do ngôn luận để che giấu tổn thất do dịch. Trắng trợn hơn, họ còn cao giọng nói rằng Việt Nam chống được dịch là vì thể chế “độc đảng”… Rõ ràng những luận điệu ấy còn nguy hại hơn cả dịch. Trớ trêu thay, trong số những người lên giọng phủ nhận ấy có người lại đang sống trên chính đất nước mình. Những ngày cả đất nước gồng mình chống chọi với "giặc Covid-19", những con người ấy cũng được chứng kiến và thụ hưởng thành quả chống dịch, được cả guồng máy xã hội bảo vệ mạng sống… Tôi không muốn liệt kê ra những giọng điệu lạc lõng, có ý đồ xuyên tạc bởi vì thực tế không thể khác, những giọng điệu ấy không đánh lừa được ai.
Cả đất nước đang bước vào trạng thái bình thường mới nhằm khôi phục lại nền kinh tế vừa trải qua một "cơn bão bệnh dịch". Thời điểm này cũng là lúc chúng ta cần nhìn thẳng vào thực tế để hiểu những gì chúng ta đã trải qua sau hơn 3 tháng cả nước gồng lưng chống "giặc Covid-19". Nhìn thẳng để tin dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, cả nước đã đồng sức, đồng lòng vượt qua cái chết bằng trí và lực của chính mình. Trong suốt hơn 3 tháng cam go chống "giặc dịch", Chính phủ hầu như từ 2 đến 3 ngày lại có một cuộc họp chỉ đạo; các thành viên Chính phủ tỏa khắp các tỉnh, thành phố chỉ đạo, kiểm tra, truyền đạt ý chí quyết tâm từ Trung ương xuống các địa phương để ổn định tình hình, kịp thời phát hiện và ngăn chặn dịch lây lan trong cộng đồng.
Ngày 30-3-2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của Đảng và Nhà nước, kiên quyết chiến thắng đại dịch Covid-19. Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước như lời hịch hội tụ sức mạnh truyền thống dân tộc trước hiểm họa của "giặc dịch". Lời kêu gọi có đoạn: “… Với tinh thần coi sức khỏe và tính mạng của con người là trên hết, tôi kêu gọi toàn thể đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hãy đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống dịch”.
Trên thực tế, ngay từ những ngày đầu, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch Covid-19, các ngành, các cấp, các địa phương, cả hệ thống chính trị đã đoàn kết "chung lưng đấu cật", không quản ngại gian khổ, hy sinh, triển khai quyết liệt nhiều biện pháp đồng bộ để chống dịch. Thành công của những ngày đầu tiên thể hiện sức mạnh đoàn kết dân tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương, các tổ chức chính trị, xã hội… đã sát cánh cùng nhau chống "giặc dịch". Trên tuyến đầu, các y sĩ, bác sĩ dốc sức, dốc lòng cứu người bệnh; quân đội, công an trở thành lực lượng nòng cốt giúp đồng bào trong nước, ngoài nước trở về, nhường cơm sẻ áo, nhường nhà, nhường doanh trại cho người cách ly… Trong đại dịch, không chỉ xuất hiện nhiều nhà từ thiện cùng góp công, góp sức, góp tiền của cho cuộc chiến chống dịch mà từ trong nhân dân cũng xuất hiện nhiều tấm gương, tấm lòng hướng về các y sĩ, bác sĩ nơi tuyến đầu chống dịch thật sự xúc động. Người có tiền giúp tiền, người có gạo giúp gạo, có người chỉ mớ rau, củ, quả cũng đem đến giúp đỡ người ở tuyến đầu… Những tấm lòng thơm thảo của đồng bào, đồng chí như tiếp thêm năng lượng cho các y sĩ, bác sĩ đang không quản ngại hy sinh.
Sự nỗ lực không biết mệt mỏi của ngành y tế, quân đội, công an và các ban, bộ, ngành Trung ương, sự vào cuộc kịp thời của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, cộng đồng doanh nghiệp… làm tăng thêm niềm tin trong nhân dân về thành công của cuộc chiến chống dịch. Chính từ niềm tin ấy, mọi quyết sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ được nhân dân đồng lòng, đồng sức ủng hộ.
Với tinh thần coi sức khỏe và tính mạng của con người là trên hết, trong hiểm nguy của đại dịch, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ là không để ai bị bỏ lại phía sau, không ai bị bỏ ngoài xã hội. Gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng của Chính phủ đã thể hiện điều đó. Các đối tượng chính sách, người nghèo, người không nơi nương tựa, người bán vé số; đối tượng kinh tế vỉa hè, người yếu thế đều có quyền thụ hưởng. Giữa cơn đại dịch Covid-19, ở Việt Nam, tất cả mọi người đều được bình đẳng chữa trị, trong nước cũng như nước ngoài về. Tính đến đầu tháng 6 này, trên thế giới đã có hơn 7 triệu người nhiễm Covid-19 và hơn 400.000 người tử vong nhưng Việt Nam không có ai tử vong. Nhiều người nước ngoài bị nhiễm Covid-19 đến Việt Nam được chữa trị khỏi, khi trở về nước đã không cầm lòng được, chỉ biết thốt ra lời: “Cảm ơn Việt Nam!”…
Một đất nước trong cơn hoạn nạn đã đoàn kết, đồng sức, đồng lòng xung quanh Đảng, Nhà nước, Chính phủ để chống dịch. Một đất nước trong cơn hoạn nạn không một ai bị bỏ lại phía sau, kể cả người nước ngoài và người Việt ở nước ngoài về. Một đất nước mà quyền cao nhất của con người là được sống, được bảo vệ mạng sống... đó không phải là giá trị cao nhất của nhân quyền ư?
PTH



HẬU QUẢ TỪ TIN GIẢ-BỊA ĐẶT

    Những ngày gần đây, trên internet xuất hiện khá nhiều trang báo mạng với đủ các thể loại (viết, hình, nói) đề cập đến một số vụ án hình sự vừa được các cấp tòa của Việt Nam xét xử. Chưa bàn đến tính chất, nội dung của các bản án, bởi để có được một bản án công minh, đúng người, đúng tội thì phải có một quá trình thực hiện tố tụng, xét xử chặt chẽ, khoa học, theo đúng luật định. Nhưng cái cách tiếp cận vụ án của một số trang mạng xã hội rõ ràng là “có vấn đề”, bởi dường như họ muốn dẫn dắt dư luận theo cách nghĩ của họ, khiến dư luận nhìn nhận các vụ án một cách méo mó, đầy nghi ngờ. Mục tiêu cuối cùng của nhiều trang mạng là hướng tới xuyên tạc, phủ nhận nền tư pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.

   Hiểu cho đúng về một nền tư pháp dân chủ xã hội chủ nghĩa

   Nền tư pháp của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (trước đây là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) hình thành sau khi nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng lên đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại chính quyền, thiết lập một nhà nước Việt Nam tự do, độc lập. Năm 1946, thể theo nguyện vọng của toàn dân, Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Đây là văn bản luật đầu tiên của nước Việt Nam mới, thể hiện đầy đủ quyền tự do, dân chủ mà người dân Việt Nam xứng đáng được hưởng và được Nhà nước bảo hộ. Cũng từ văn bản luật gốc này, từ thực tiễn cuộc sống, nhu cầu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội (CNXH), các văn bản luật khác dần được hình thành, ra đời.

Việt Nam mở cửa trở lại nền kinh tế, Phương Tây học được gì?

Trang tin Global Policy Journal của Anh ngày 5/6 đăng bài nêu bật những thành công của Việt Nam khi bắt tay vào khôi phục mọi lĩnh vực của cuộc sống hậu COVID-19.

Kinh tế Trung Quốc hiện nay ra sao sau Covid 19?

Theo đánh giá và bình luận của báo chí Malaysia, năm 2020 là năm Trung Quốc hoàn thành mục tiêu xây dựng xã hội khá giả, nhưng theo Thủ tướng Lý Khắc Cường, nước này vẫn có tới 600 triệu người với thu nhập hàng tháng chỉ đạt 1.000 nhân dân tệ (146 USD), khó đủ tiền thuê nhà ở thành phố loại trung bình. Sau đó, người đứng đầu chính phủ Trung Quốc còn thúc đẩy phát triển “kinh tế vỉa hè”. Dường như, đây đều là những việc làm “vạn bất đắc dĩ”, cho thấy tình hình kinh tế và vấn đề việc làm ở Trung Quốc đều rất trầm trọng.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hòa bình thế giới


Theo tạp chí Moderndiplomacy (New York), ngày 19/5, Thế giới đang tổ chức các hoạt động kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2020).

Từ bài học quan hệ Mỹ - Đài và Mỹ - Phi, ngẫm về chủ nghĩa thực dụng Mỹ

Khi căng thẳng Mỹ - Trung càng gia tăng, Mỹ càng ngọt ngào với Đài Bắc. Theo đài RFI, hiếm khi nào Đài Loan lại chiếm một vị trí quan trọng trong chính sách ngoại giao của Mỹ như ở vào thời điểm này.

Việt Nam lạc quan về triển vọng kinh tế của đất nước

Theo trang tin DW (Làn sóng Đức) ngày 22/5, bất chấp khủng hoảng kinh tế toàn cầu và khả năng suy thoái ở một số quốc gia láng giềng, Việt Nam vẫn đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5% trong năm nay.

Tổng thống Trump cảm ơn Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hợp tác chống đại dịch COVID-19

Theo một thông cáo của Nhà Trắng cho biết, ngày 6/5, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã điện đàm với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc để thảo luận về đại dịch COVID-19.

Phòng chống “Diễn biến hòa bình” trên không gian mạng

        Hiện nay, trước những vấn đề, sự kiện chính trị lớn của đất nước, các thế lực thù địch, phản động đều tính toán rất tinh vi, phối hợp trong - ngoài nhịp nhàng, tổ chức bài bản thông qua Internet và có mục tiêu cụ thể, đặc biệt là lợi dụng mạng xã hội để phát tán thông tin, xuyên tạc, chống phá, kích động biểu tình, gây bạo loạn. Hiện một số Blog, trang mạng được lập cách đây vài năm, thông tin rất ít nhưng đến khi Đảng ta chuẩn bị triển khai Đại hội XIII thì mới liên tiếp tung tin xuyên tạc. Lợi dụng việc chúng ta điều tra, xử lý một số vụ án tham nhũng lớn trong thời gian qua, chúng tung ra những luận điệu cho rằng “đây là đấu đá nội bộ, tranh giành quyền lực trong các phe nhóm của Đảng” nhằm gieo rắc tư tưởng hoài nghi, mất lòng tin vào tình hình phát triển của đất nước, vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; vào Nghị quyết Đại hội Đảng; kích động ý thức thù hận; tư tưởng chống đối, ý thức phản kháng, phản loạn trong một bộ phận nhân dân; gieo rắc tâm lý mong đợi về sự thay đổi chế độ bằng những tư tưởng mới, khác lạ.Chúng lợi dụng các hoạt động của Trung Quốc trên biển Đông; sự cố môi trường biển để tuyên truyền, gây chia rẽ mối quan hệ Việt - Trung, chia rẽ trong nội bộ Đảng, chúng xuyên tạc trong Đảng ta có “phe thân Mỹ” và “phe thân Trung Quốc”; qua đó kích động, gây mất đoàn kết trong Đảng, gây hoài nghi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. 
        Trong thời gian tới, các thế lực thù địch, phản động chống Việt Nam vẫn sẽ triệt để sử dụng Internet, ráo riết thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”, tuyên truyền phá hoại tư tưởng, mưu toan tiến hành “cách mạng màu”, “cách mạng hoa Nhài”, “cách mạng hoa Sen” nhằm xóa bỏ vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bằng các chiến dịch chống phá, đẩy mạnh khoét sâu các mâu thuẫn, tồn tại trong xã hội để hô hào, kích động người dân xuống đường biểu tình, kêu gọi các quốc gia khác can thiệp và tập hợp lực lượng để lật đổ chính quyền, tuyên truyền phá hoại nội bộ, gây mất đoàn kết và ổn định nội bộ trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, giảm lòng tin của quần chúng nhân dân. Về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch rất tinh vi, xảo quyệt, công khai, trực diện; chúng lợi dụng các vấn đề nhạy cảm, thiếu sót, sơ hở, bất cập của ta, lợi dụng “tự do ngôn luận”, góp ý, phản biện xã hội; lợi dụng lòng yêu nước, tâm lý đám đông, sự hiếu kỳ, sự thiếu thông tin và sự nhẹ dạ của người dân; lợi dụng Internet, mạng xã hội, điện thoại di động; lợi dụng chủ trương, chính sách đại đoàn kết dân tộc, nhân văn, nhân đạo của Đảng, Nhà nước, chúng chủ trương kích động bạo lực, trực diện, manh động để xuyên tạc, chống phá. Trước tình hình trên, Đảng, Nhà nước ta đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý các hoạt động trên không gian mạng. Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng” và Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25/7/2018 về “Chiến lược An ninh mạng quốc gia” của Bộ Chính trị khóa XII đã nhận định: Không gian mạng sẽ trở thành môi trường chính để các thế lực thù địch, phản động sử dụng thực hiện “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa”, kích động bạo loạn, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, kết hợp với tiến hành các hoạt động có yếu tố vũ trang, tạo cớ cho các thế lực thù địch, hiếu chiến can thiệp quân sự, lật đổ chế độ; ngoài ra, các tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng để truyền bá tư tưởng, văn hóa xấu độc, xuyên tạc các quan điểm và giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc. Nghị quyết cũng đã xác định quan điểm, phương châm chỉ đạo là: Nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh phản bác các thông tin xấu độc, sai trái, thù địch trên không gian mạng; kết hợp phòng thủ tích cực, vững chắc với tiến công đáp trả, kịp thời ngăn chặn, xử lý các tình huống trên không gian mạng linh hoạt và hiệu quả, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2020

NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN INTERNET



Trong thời gian qua, các thế lực thù địch đã triệt để tận dụng mạng internet nhằm thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước. Một trong những biện pháp quan trọng để phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet là thường xuyên và kịp thời có những thông tin có “sức nặng” để đập tan những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.
Với điểm thuận lợi là tốc độ kết nối nhanh, phạm vi chia sẻ rộng, hiệu quả tác động lớn, internet, mạng xã hội tác động trực tiếp và có thể làm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá nhân. Tuy nhiên đây cũng chính là môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch, phản động, chống phá chính trị trong thời gian qua đưa các quan điểm sai trái, thù địch nhằm thực hiện các mục tiêu “Diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay các thế lực thù địch đã triệt để tận dụng mạng internet để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Một trong những thủ đoạn là với hình thức tung tin đồn nhảm, tạo dư luận và áp lực xã hội, dưới chiêu bài “chống tham nhũng”, “bảo vệ tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, chúng đưa ra những lời hứa mị dân để gây tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác, cả tin của một số người; từ đó cô lập các lực lượng cách mạng trung kiên, phân hóa những người dao động, thiếu chính kiến, thiếu thông tin; lôi kéo, kích động những người có tâm trạng bất mãn, những lực lượng xấu trong xã hội chống phá Đảng, Nhà nước.
Đề cập đến nội dung nhận diện về quan điểm sai trái trên mạng xã hội, có thể nhận thấy một số thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng 2 trang mạng xã hội là Facebook và Youtube để đăng, chia sẻ những thông tin sai trái, thù địch, cơ hội chính trị lên không gian mạng internet. Một trong những thủ đoạn thường được chúng sử dụng  là dùng những tin, bài, những hình ảnh trên các báo chí chính thống của ta ở trong nước, sau đó viết lại, chỉnh sửa thành những nội dung bịa đặt hoặc định hướng sai lệch để đăng tải. Điều này thu hút sự quan tâm của người xem, người đọc trước những thông tin có nội dung giống với các thông tin chính thống, tạo cảm giác nửa tin, nửa ngờ và nếu không tìm hiểu, nghiên cứu kỹ sẽ bị tác động xấu bởi những thông tin xuyên tạc này. Đây là dạng “tuyên truyền xám”.
các thế lực thù địch còn sử dụng kỹ thuật sao chép, cắt dán hình ảnh để tạo dựng sự kiện “giả như thật”; mở diễn đàn với nhiều tên gọi khác nhau, như: “chống tham nhũng”, “liêm chính”, “cứu quốc”, “hội những người Việt Nam yêu nước”, “hãy vì tự do, dân chủ”… sau đó cho đăng các bài viết, bình luận mạo danh các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các lão thành cách mạng, các trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng gây nhiễu loạn thông tin trên không gian mạng nhằm kích động, lôi kéo, gây sự chú ý của dư luận. Tính chất, cường độ chống phá thường tập trung vào thời điểm đất nước chuẩn bị tổ chức các sự kiện quan trọng, như Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, kỷ niệm các ngày lễ, tết…
Để nâng cao hiệu quả phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, các cơ quan chức năng cần thường xuyên và kịp thời có những thông tin có “sức nặng” để đập tan những luận điệu của các thế lực thù địch. Đây là thông tin chính thống để cơ sở chia sẻ và làm công tác tuyên truyền. Cùng với đó là tạo các diễn đàn mở để trao đổi các ý kiến, quan điểm khác biệt và trong đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, thù địch; qua đó góp phần tuyên truyền, giáo dục nâng cao khả năng “tự đề kháng, tự miễn dịch” cho thế hệ trẻ và nhân dân trước quan điểm sai trái, những thông tin xấu độc trên các trang mạng.


       Việt Nam là nước đa tôn giáo. Các tôn giáo luôn có tinh thần bao dung, đoàn kết, gắn bó trong đại gia đình các dân tộc, tôn giáo Việt Nam. Cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, hòa chung cùng niềm vui và nỗi đau của dân tộc trong những thời khắc lịch sử, góp phần phát triển và làm rạng rỡ nền văn hoá Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tôn giáo đã đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và tiếp tục phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
       Nhận thức đúng vai trò của các tôn giáo và các tín đồ tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm, chính sách đúng đắn về vấn đề này và khẳng định: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”; trên cơ sở đó, thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hệ thống giáo lý, giáo luật và quy định của pháp luật Việt Nam. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật. Chính sách tôn giáo đúng đắn đó đã có tác dụng cổ vũ, động viên đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo phấn khởi, chung sức, chung lòng cùng cộng đồng, làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc.
       Thế nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, thù địch và dã tâm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động đang điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước ta thông qua chiến lược “Diễn biến hòa bình” với mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Trong đó, lợi dụng vấn đề “tôn giáo” được chúng sử dụng như một vũ khí đặc biệt quan trọng để xuyên tạc, vu khống, kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị-xã hội, tiến tới chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phương thức hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị là kích động tâm lý mặc cảm, tư tưởng chống đối, hậu thuẫn về vật chất, tinh thần đối với những phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích trong các tôn giáo; thúc đẩy thành lập các hội đoàn trái pháp luật trong xứ đạo để thách thức, chống phá chính quyền. Cùng với đó, chúng tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng, gây hoang mang dư luận về sự đối lập hệ tư tưởng giữa “hữu thần” với “vô thần”, giữa thế giới quan tôn giáo với thế giới quan cộng sản hoặc vu cáo, xuyên tạc “Cộng sản diệt đạo”, “Nhà nước đàn áp tôn giáo”; từ đó, kích động mâu thuẫn, tập hợp lực lượng, tổ chức biểu tình, gây rối trật tự, mất ổn định an ninh chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn...
      Đáng chú ý, thời gian qua, lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành xã hội của chính quyền các cấp về vấn đề đầu tư, ô nhiễm môi trường, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa, … các phần tử cực đoan trong tôn giáo nói chung, công giáo nói riêng, ra sức “bới lông, tìm vết”, tổ chức các hoạt động vi phạm pháp luật Nhà nước, trái với giáo lý tôn giáo. Mới đây, trên trang mạng tiếng Việt của một hãng truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam tung lên bài viết “Ô nhiễm môi trường đe dọa ổn định ở Việt Nam”, xuyên tạc rằng: “… hầu hết người Việt Nam bất bình với Đảng Cộng sản đã cho phép một công ty nước ngoài xả độc ra biển. Nhiều người dân miền Trung đã tham gia các cuộc biểu tình đòi Formosa và Chính phủ bồi thường quyền lợi thích đáng. Kể cả nhiều người không bị ảnh hưởng vì thảm họa này cũng bày tỏ sự bất bình...
      Thế là ngay lập tức, những kẻ bất đồng chính kiến, những “nhà đấu tranh dân chủ”, một số tổ chức phản động nhân cơ hội này “theo đóm ăn tàn”, “tát nước theo mưa” nhao nhao hô hào, cổ súy “thúc giục mọi người chung tay để đấu tranh với vấn đề Formosa”. Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và được sự tiếp tay của các thế lực phản động bên ngoài, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo kêu gọi, kích động giáo dân tụ tập, biểu tình, tuần hành, gây rối, tấn công người thi hành công vụ, đập phá phương tiện, cản trở hoạt động giao thông, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Khi chính quyền thực thi chức trách theo quyền hạn thì chúng vu cáo cơ quan chức năng “đàn áp, bắt giữ và đánh đập” người tham gia biểu tình; tán phát trên mạng xã hội “Thư ngỏ”, “Bản lên tiếng”, “Kháng thư”,… với nội dung vu cáo chính quyền bao che cho Formosa, “đàn áp, đánh đập” những người đi khiếu kiện đòi quyền lợi, kêu gọi người dân khởi kiện Formosa ra Tòa án hình sự quốc tế, “cùng đứng lên đuổi Formosa khỏi Việt Nam”,...
       Với mưu đồ chống phá đến cùng, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo đẩy mạnh tuyên truyền, kích động “con chiên ngoan đạo” rằng: “Không ngừng duy trì nhiệt huyết và tính liên tục của các cuộc tuần hành, tụ tập đông người phản đối chính quyền và yêu cầu Formosa ra khỏi Việt Nam vào chủ nhật hằng tuần. Các cuộc tuần hành cần tập trung vào một số địa điểm nhạy cảm, đông người, như: Nhà riêng các lãnh đạo địa phương, công sở, khu công nghiệp, … tại Nghệ An, Hà Tĩnh. Lấy vụ việc Formosa làm điểm nhấn để tăng cường khoét sâu mâu thuẫn giữa giáo dân nói riêng và nhân dân nói chung với chính quyền địa phương” và ủng hộ cái gọi là “cuộc chiến” hiện tại của giáo dân. Không những thế, họ còn thay đổi phương thức tụ tập sao cho bảo đảm tính thường xuyên, liên tục và sinh hoạt, hoạt động sản xuất của giáo dân. Mưu đồ của họ là “chia giáo xứ thành nhiều bộ phận theo các họ đạo, thay nhau tụ tập vào các ngày nghỉ, ngày chính quyền tổ chức cấp phát tiền đền bù, khi cần thiết mới huy động toàn xứ đạo tham gia; thay đổi quy luật, cách thức tụ tập tuần hành...
       Tiếp tay cho hành động đó, Ủy ban Tự do Tôn giáo quốc tế đã công bố tài liệu tổng kết tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, với những đánh giá thiếu khách quan khi cho rằng: Việt Nam chưa thực sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Tình trạng xâm phạm tự do tôn giáo vẫn diễn ra, nhiều nơi chính quyền địa phương và lực lượng an ninh thường xuyên sách nhiễu, phân biệt các tổ chức tôn giáo, bắt giữ những người “đấu tranh” cho tự do tín ngưỡng tôn giáo; đề nghị Chính phủ Mỹ cần sớm đưa Việt Nam trở lại danh sách những nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo . 
        Chúng ta hãy cảnh giác, chủ động và tích cực đấu tranh lật tẩy những mưu đồ đen tối, những kẻ đeo mặt nạ trá hình đội lốt tôn giáo trước ánh sáng công lý và pháp luật. Đó là việc cần làm nhất thiết phải làm của tất cả những người Việt Nam yêu nước chân chính.

Nhận diện hoạt động lợi dụng hội nhập kinh tế quốc tế để chống phá Việt Nam

 

       Thời đại ngày nay, việc hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan, do đó Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp trong lãnh đạo, chỉ đạo để ngày càng phát triển, mở rộng các mối quan hệ quốc tế, trong đó có HNKTQT. Thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước về HNKTQT, những năm qua, tiến trình này của Việt Nam đã, đang đạt nhiều kết quả hết sức to lớn. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước trên thế giới và cũng là nước ASEAN duy nhất có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các thành viên nhóm G7 và 13/20 nước G20. Việt Nam đã ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Nhờ HNKTQT, những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ cùng với các lĩnh vực khác của xã hội. Năm 2016, GDP Việt Nam đạt 203 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2006; GDP năm 2017 đạt hơn 220 tỷ USD, tăng cao nhất kể từ 2011 trở lại đây và tăng 6,81% so với năm 2016. Năm 2015, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng 4 lần so với năm 2006, lên 11,8 tỷ USD. Năm 2017, FDI vào Việt Nam đạt gần 36 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, tăng 42,3% so với cùng kỳ năm 2016. Riêng 10 tháng năm 2018, cả nước có 2.458 dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 27,9 tỷ USD, bằng 98,8% so với cùng kỳ năm 2017. Năm 2017, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt 425,12 tỷ USD, tăng 21% (tương ứng tăng 73,74 tỷ USD) so với năm 2016, là mức tăng kỷ lục trong vòng 10 năm trở lại đây. Chỉ trong 10 tháng năm 2018, tổng trị giá xuất nhập khẩu đạt 396,85 tỷ USD, tăng 13,8%, tương ứng tăng 48,12 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2017. Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng thế giới mới công bố, dự báo Việt Nam đứng thứ 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2017.

      Thế nhưng trong sự thành công của Việt Nam về HNKTQT, các thế lực thù địch cũng không ngừng lợi dụng lĩnh vực này để nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với Việt Nam. Những năm qua, các thế lực thù địch đã ráo riết triển khai một số hoạt động cơ bản như sau:
      - Thúc đẩy việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài để từng bước chi phối nền kinh tế Việt Nam; thông qua đó nhằm làm cho Nhà nước từng bước mất dần khả năng kiểm soát, điều hành nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Với phương châm: “Lấy kinh tế để chuyển hóa chính trị”, các thế lực thù địch âm mưu từng bước xóa bỏ chế độ XHCN một cách từ từ, êm ả, không gây ra chấn động lớn trong xã hội mà khởi nguồn là từ những sai lầm trong HNKTQT ở Việt Nam.  
      - Lợi dụng HNKTQT và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, nhất là thông qua hợp tác với các cơ quan của Đảng, Nhà nước Việt Nam để xâm nhập nội bộ, mua chuộc, lôi kéo những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, thu thập tin tức bí mật nhà nước để chống phá Việt Nam. Họ đặc biệt triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện công nghệ cao để thu thập tin, đánh cắp bí mật nhà nước, lấy cắp các phát minh, sáng chế của Việt Nam, gây ra những thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.  
       - Triệt để thông qua các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp quốc tế hợp tác, làm ăn với Việt Nam để đưa ra các yêu cầu mang tính áp đặt phi lý. Họ còn tìm cách gây ra “khủng hoảng”, những tác động tiêu cực từ bên ngoài làm suy yếu nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng đến phúc lợi nhân dân và sức mạnh của Nhà nước.  
      - Tìm cách tác động tới các chính khách cực đoan trong quốc hội một số nước phương Tây, đòi gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với điều kiện cải cách chính trị, pháp luật theo kiểu phương Tây (như yêu cầu Nhà nước xóa bỏ một số điều về an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự hiện hành…); đòi thay Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đòi hỏi Nhà nước Việt Nam phải thúc đẩy tự do báo chí, tự do ngôn luận theo tiêu chí phương Tây, đòi thả các đối tượng chống đối vi phạm pháp luật... nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính trị, xã hội ngay từ bên trong đất nước.
       Cũng cần phải nghiêm túc nhìn nhận rằng, việc HNKTQT của Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, đó là: Cơ cấu tăng trưởng kinh tế Việt Nam chưa thay đổi căn bản; chất lượng tăng trưởng vẫn còn thấp và chưa thực sự ổn định, bền vững. Quá trình HNKTQT chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh. Việt Nam chưa có kế hoạch tổng thể và lộ trình hợp lý về HNKTQT; chưa có chiến lược rõ ràng khi tham gia các FTA. Việc ứng phó với các biến động và xử lý những tác động xấu do nền kinh tế thế giới gây ra còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ; hệ thống luật pháp Việt Nam theo yêu cầu HNKTQT chưa hoàn thiện và đầy đủ. Ở một số địa phương, các vụ việc phức tạp xảy ra liên quan đến khiếu nại, tố cáo… chậm được giải quyết, tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chính trị-xã hội. Sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng gay gắt. Còn tồn tại tệ nạn tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng, triển khai các dự án, đề án hợp tác kinh tế quốc tế… Đó là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng hòng thúc đẩy âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
        Nhằm tận dụng những cơ hội, thuận lợi trong hội nhập quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước và phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hành vi lợi dụng HNKTQT để chống phá Việt Nam, chúng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm như sau:
       Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để chống phá nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tính tất yếu khách quan của việc HNKTQT; âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để “diễn biến hòa bình” đối với nước ta của các thế lực thù địch; vị trí, vai trò công tác đấu tranh chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
       Hai là, bảo đảm thực hiện hiệu quả quá trình HNKTQT trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc. Xác định rõ hội nhập là quá trình vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp nhiều thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; do vậy, cần chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế, coi đây là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong HNKTQT. 
       Ba là, thường xuyên nắm chắc tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài hợp tác, làm ăn với Việt Nam để chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động lợi dụng hợp tác để xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam. Cần tập trung nắm tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài, các chương trình, dự án đầu tư có yếu tố nước ngoài triển khai ở Việt Nam… nhằm kịp thời phát hiện những vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh chính trị, trật tự xã hội để phòng, chống hiệu quả. Chủ động phát hiện đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm những trường hợp làm lộ, lọt bí mật nhà nước, cung cấp bí mật nhà nước cho các tổ chức nước ngoài, hoặc bị kẻ địch mua chuộc, lôi kéo nhằm phá hoại kinh tế nước ta.
       Bốn là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ làm việc ở các cơ quan, đơn vị thường xuyên tiếp xúc, trao đổi, hợp tác với các tập đoàn kinh tế nước ngoài, bảo đảm cho đội ngũ này luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chủ động và tích cực HNKTQT; có khả năng nắm bắt và tận dụng cơ hội lớn, vượt khó khăn, thách thức đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia nước ta trong HNKTQT, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
       Năm là, khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến HNKTQT trên cơ sở tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chú trọng nội luật hóa theo lộ trình phù hợp với những cam kết quốc tế, bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc tham gia hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong HNKTQT, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, chủ quyền của đất nước ta.   
Những năm tới, các thế lực thù địch vẫn sẽ tiếp tục triệt để lợi dụng HNKTQT để phá hoại thành quả cách mạng và chống phá chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng. Với những thành tựu đã đạt được trong HNKTQT, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta sẽ HNKTQT thành công, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, phát triển.

“Nội công, ngoại kích”, thủ đoạn chống phá Đại hội XIII của Đảng

                                                                (tiếp theo và hết)

Thế lực thù địch – họ là ai?
Nhiều người đặt câu hỏi: Thế lực thù địch hướng lái, “đấu tranh” đòi Đảng từ bỏ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối về CNXH, họ là ai?
Đó là phần tử cơ hội chính trị, những đối tượng đội lốt “yêu nước”, đội lốt các nhà đấu tranh vì “dân chủ”, “nhân quyền”,“xã hội dân sự” trong nước được hình thành trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam. 
Theo phân tích của GS. TS Trương Giang Long, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị CAND thì hiện nay, cơ hội chính trị có thành phần đa dạng, phức tạp. Họ thường là: 

“Nội công, ngoại kích”, thủ đoạn chống phá Đại hội XIII của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước. Thời điểm đại hội cận kề, các thế lực thù địch càng tăng cường các hoạt động chống phá, tung ra luận điệu xuyên tạc, sai trái nhằm làm suy giảm niềm tin, phá hoại Đại hội XIII của Đảng.

Gia tăng “chiến dịch” tuyên truyền, xuyên tạc
Dịp này, các thế lực thù địch tung ra nhiều bài viết, video clip với lập luận, tuyên truyền, cổ vũ cho việc từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin hòng làm lung lay, phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng. Để phủ định học thuyết Mác-Lênin, trên đài BBC, RFA, VOA, các trang phản động, mạng xã hội Facebook, YouTube…; không ít ý kiến cho rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin là phản dân chủ, việc kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin là một sai lầm từ lý luận đến thực tiễn.
Lợi dụng thời điểm Đảng lấy ý kiến góp ý toàn dân vào dự thảo Báo cáo Chính trị, họ đưa ra các kiến nghị bằng nhiều hình thức, như “trao đổi”,“gửi thư”,“góp ý cho Đại hội XIII”… rằng, Đại hội XIII là thời cơ để đổi mới chính trị theo hình thức đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xây dựng nhà nước dựa trên nền tảng “xã hội dân sự”.

Bịa đặt thông tin hòng làm méo mó các vụ án

         Những ngày gần đây, trên internet xuất hiện khá nhiều trang báo mạng với đủ các thể loại (viết, hình, nói) đề cập đến một số vụ án hình sự vừa được các cấp tòa của Việt Nam xét xử. Chưa bàn đến tính chất, nội dung của các bản án, bởi để có được một bản án công minh, đúng người, đúng tội thì phải có một quá trình thực hiện tố tụng, xét xử chặt chẽ, khoa học, theo đúng luật định.

Nhưng cái cách tiếp cận vụ án của một số trang mạng xã hội rõ ràng là “có vấn đề”, bởi dường như họ muốn dẫn dắt dư luận theo cách nghĩ của họ, khiến dư luận nhìn nhận các vụ án một cách méo mó, đầy nghi ngờ. Mục tiêu cuối cùng của nhiều trang mạng là hướng tới xuyên tạc, phủ nhận nền tư pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.
Hiểu cho đúng về một nền tư pháp dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền tư pháp của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (trước đây là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) hình thành sau khi nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng lên đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại chính quyền, thiết lập một nhà nước Việt Nam tự do, độc lập. Năm 1946, thể theo nguyện vọng của toàn dân, Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời.

SÁCH TRẮNG QUỐC PHÒNG CỦA VIỆT NAM THỂ HIỆN RÕ BẢN CHẤT HÒA BÌNH VÀ TỰ VỆ



Sau khi Việt Nam công bố sách trắng Quốc phòng 2019, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã xuyên tạc, suy diễn vô căn cứ về bản chất chính sách quốc phòng nước ta. Vì vậy, cảnh giác với những âm mưu thủ đoạn ấy là một việc làm thường xuyên, cần thiết hiện nay.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 đề cập đến chính sách quốc phòng vừa được công bố công khai, minh bạch với toàn thế giới. Các vấn đề được nêu trong sách trắng Quốc phòng nhằm góp phần tăng cường hiểu biết và xây dựng lòng tin của các quốc gia khác với Việt Nam. Đây cũng là tài liệu quan trọng để nâng cao hiểu biết về quốc phòng của đất nước, giúp cho mọi công dân, cơ quan, đơn vị và các tổ chức xã hội hiểu rõ hơn quyền lợi, đề cao trách nhiệm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 khẳng định: Việt Nam thể hiện mong muốn và quyết tâm trong việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đồng thời, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn tính chất cơ bản của nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình và tự vệ; nêu rõ những thách thức và những điều chỉnh trong chính sách, cơ chế lãnh đạo, quản lý, quá trình tăng cường tiềm lực quốc phòng bảo vệ đất nước, sự minh bạch về chính sách cũng như khả năng quốc phòng của Việt Nam. Thế nhưng, các thế lực thù địch và một số phần tử phản động, cơ hội chính trị, lưu vong, bất mãn với chế độ lại tung ra những luận điệu hết sức tinh vi, thâm độc, bình luận, phân tích dưới chiêu trò “phản biện” sách trắng Quốc phòng, hòng lừa bịp, dẫn dắt dư luận trong và ngoài nước. Họ bịa đặt nhằm làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, Quân đội, cũng như khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, hiện thực hóa mưu đồ “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang.
Trước hết, các thế lực thù địch căn cứ vào những điểm mới trong sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 để đưa ra luận điệu sai trái, suy diễn không có căn cứ và xuyên tạc nguyên tắc “bốn không”. Họ cho rằng: Việt Nam đưa ra cái “không” thứ 4 khi đang ở thế bị động và sẽ nghiêng vào một nước khác khi cần thiết. Rằng: “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là “tự trói tay chân mình” và không phù hợp với tình hình thực tế, đi ngược lại với xu thế toàn cầu hóa; “không sử dụng vũ lực” nghĩa là Việt Nam từ bỏ việc dùng vũ lực trong bảo vệ đất nước. Đặc biệt, lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, họ đả kích, cho rằng nếu thực hiện chính sách quốc phòng như trên thì Việt Nam sẽ không thể giữ vững chủ quyền, không thể bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc rồi tìm cách hô hào cổ súy tư tưởng dựa dẫm, lệ thuộc vào các nước lớn, đặc biệt là Mỹ, hoặc khối NATO, v.v.
Sự thật có phải là như vậy? Phải chăng đây là sự “góp ý, hiến kế” xuất phát từ lòng yêu nước, vì chủ quyền dân tộc, góp phần cho tiếng nói lương tri của con dân đất Việt như họ rêu rao? Để giải quyết luận điểm này, chúng ta cần nhận thức sâu sắc rằng, Việt Nam đưa ra chính sách “4 không” trong sách trắng Quốc phòng là thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta trong thời bình; mong muốn tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước trên thế giới để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy vào diễn biến tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Trong chính sách quốc phòng, từ lâu, Đảng, Nhà nước ta đã nhất quán thực hiện chủ trương “ba không” bao gồm: Không tham gia các liên minh quân sự; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam; không dựa vào nước này để chống nước kia. Nay sách trắng Quốc phòng 2019 được hiểu đầy đủ thành “bốn không”, trong đó chủ trương “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là phù hợp với đường lối đối ngoại của đất nước trong tình hình mới và lịch sử dựng nước, giữ nước hàng ngàn đời nay của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, sức mạnh nội lực, ý chí tự cường luôn là nguồn sức mạnh to lớn nhất, vững chắc nhất để bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta không thể dựa dẫm vào bất cứ một lực lượng hay một đối trọng nào để bảo vệ bờ cõi nước nhà. Bởi vì, suy cho cùng, trong tất cả các mối quan hệ bang giao quốc tế thì lợi ích quốc gia, dân tộc luôn là trên hết và trước hết của chính họ. Bài toán kinh tế vẫn là then chốt, các thương vụ không đồng thuận về chi phí quân sự vẫn thường xuyên xảy ra trên thế giới. Sự tổn thương các mối quan hệ đồng minh, biến quân đội trở thành “công ty kinh doanh” và thu phí “bảo kê’ là vấn đề nhức nhối của nhiều quốc gia.
Như vậy, với chính sách “bốn không” trong quan hệ quốc phòng, Việt Nam có thể đấu tranh ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm chủ quyền, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Không tham gia các liên minh quân sự không đồng nghĩa với việc chúng ta bế quan tỏa cảng với thế giới bên ngoài. Trong lĩnh vực quân sự, nước ta vẫn là một thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, luôn có sự giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, thực hiện cam kết vì hòa bình, thịnh vượng và phát triển. Bằng chứng rõ ràng nhất đó là, chúng ta đã cử Sĩ quan liên lạc công tác ở Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và cử lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, v.v.
Chúng ta cần xác định rõ, tất cả các liên minh quân sự đều bắt nguồn từ việc chia sẻ lợi ích. Không một quốc gia nào sẵn sàng hy sinh vì quốc gia khác mà không có lợi ích của mình. Mục đích sâu xa khi các đối tượng kêu gọi nhằm lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, đặc biệt là liên minh với các quốc gia phương Tây, đưa Việt Nam vào quỹ đạo lệ thuộc để tiến hành thay đổi chế độ chính trị và bản chất xã hội của chúng ta. Nếu không thực hiện đường lối quốc phòng độc lập, tự chủ, chính bản thân chúng ta sẽ bị chuyển hóa, lệ thuộc. Các luồng thông tin sai lệch được các đối tượng đưa ra nhằm kêu gọi, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự; đặc biệt, là liên minh với các quốc gia khác và từng bước làm lệch lạc ý nghĩa trong chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ của Việt Nam. Những luận điệu sai trái này nhằm thúc đẩy ý đồ gây ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và Quân đội ta.
Trật tự thế giới đa cực hiện nay, các mối quan hệ quốc tế trở nên phức tạp hơn bao giờ hết; ranh giới giữa đối tượng và đối tác luôn luôn tồn tại và đan xen lẫn nhau. Trong cùng một chủ thể có những khía cạnh là đối tác để chúng ta tranh thủ hợp tác cùng phát triển, nhưng cũng có khía cạnh là đối tượng để đấu tranh. Việc nghiêng vào bất cứ phe nào, phụ thuộc vào bất cứ quốc gia nào cũng không phải là lựa chọn thích hợp. Chỉ có phát huy sức mạnh độc lập, tự chủ mới là cách thức tối ưu nhất để bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta cần nhận diện rõ bản chất của cái gọi là “hiến kế”, “đấu tranh phản biện”,… trên các diễn đàn đầy tính xuyên tạc để có góc nhìn thấu đáo.
Thứ hai, chúng tung tin thất thiệt rằng, Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh để chống lại một nước thứ ba; quy kết Việt Nam khơi mào cho cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực. Đây là luận điệu hết sức xảo trá. Điều đó được thể hiện, ngân sách quốc phòng của nước ta được công khai với tỷ lệ phần trăm GDP luôn là một con số rất nhỏ so với các nước trong khu vực. Nội dung sách trắng cũng khẳng định, Việt Nam không tham gia chạy đua vũ trang và không để ngân sách quốc phòng trở thành gánh nặng của nền kinh tế. Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh đã phát biểu: “Việt Nam không ngần ngại giới thiệu trong sách trắng Quốc phòng 2019 những vũ khí trang bị truyền thống cũng như hiện đại của Quân đội để thể hiện sự minh bạch về chính sách cũng như khả năng quốc phòng của Việt Nam, góp phần tăng cường sự hiểu biết và xây dựng lòng tin giữa Việt Nam với các quốc gia trong cộng đồng quốc tế”. Tỷ lệ trang bị vũ khí do ta tự sản xuất hay cải tiến ngày càng nhiều hơn, chứng tỏ sự độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh của Việt Nam trong những năm qua ngày càng tiến bộ.
Suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã từng trải qua biết bao cuộc chống xâm lăng. Chủ động, cảnh giác với kẻ thù là bài học quý báu tự ngàn xưa. Đặc biệt, trên cơ sở tổng kết thực tiễn sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, dự báo tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực và trong nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”1; “Thực hiện dĩ bất biến, ứng vạn biến, trong đó lợi ích quốc gia - dân tộc là bất biến, kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, linh hoạt;... giữ trong ấm, ngoài êm, giữ nước “từ sớm, từ xa”, từ khi nước chưa nguy”2. Như vậy, tư duy về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng đã có sự phát triển mới, nội hàm bảo vệ Tổ quốc không chỉ có bảo vệ bên ngoài biên giới, lãnh thổ, mà còn giữ ổn định bên trong; không chỉ chiến đấu bảo vệ khi có kẻ thù xâm lược, mà phải tổ chức phòng thủ, phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị về mọi mặt (chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,...) ngay từ trong thời bình. Thực tế công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vừa qua, Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện nhiều giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh từ bên ngoài biên giới, lãnh thổ; xử lý, giải quyết hiệu quả các vấn đề bên trong tiềm ẩn nguy cơ bất ổn về chính trị, an ninh, như: tham nhũng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, coi trọng phát triển kinh tế, xem nhẹ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng tiềm lực quốc phòng cũng chính là yếu tố để tự vệ, không ngoài mục đích giữ gìn hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Sách trắng Quốc phòng 2019 cũng khẳng định, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược. Như vậy, có thể khẳng định, việc tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh đâu phải chỉ thông qua việc nâng cấp (hoặc mua sắm) vũ khí trang bị, mà yếu tố con người mới là trung tâm của chiến lược quốc phòng. Chúng ta đầu tư phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước, nhưng kiên quyết không chạy đua vũ trang thì cớ gì chúng ta có thể khơi mào cho một cuộc chạy đua vũ trang!
Đảng, Nhà nước ta luôn luôn quan tâm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc và không phương hại đến bất cứ một quốc gia nào. Thực chất các đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức xuyên tạc sách trắng Quốc phòng 2019 hòng phá hoại chính sách ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta, tác động tiêu cực tới nhận thức, quan điểm và làm suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta không cho phép bất kỳ thế lực nào chống phá những quan điểm, chính sách được nêu trong sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019. Cảnh giác và nhận diện rõ những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc về bản chất chính sách quốc phòng của Việt Nam chính là giữ gìn, bảo vệ vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
PHẠM VĂN ĐẢNG
_______________
1 - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 149.
2 - Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/4/2018 của Bộ Chính trị, về “Chiến lược Quốc phòng Việt Nam”
Ảnh: Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh giới thiệu về Sách trắng Quốc phòng
Việt Nam 2019. (Ảnh: qdnd)
Nguồn: Tạp chí quốc phòng toàn dân



Không thể vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn

         Lợi dụng việc một số cán bộ quân đội có sai phạm bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị cố tình tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng ai cũng biết rằng, không thể đánh tráo giữa bản chất và hiện tượng, đừng thấy cây mà không thấy rừng. Bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội và sự thật các vụ việc không cho phép chúng thực hiện được hành vi vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn đó…

Quan trọng là biết sửa sai
Giữ nghiêm kỷ luật quân đội là bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây cũng là cội nguồn sức mạnh để quân đội ta luôn chiến thắng, trưởng thành và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng xác định: “Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua”. Người chỉ rõ: “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm. Vì vậy kỷ luật phải nghiêm minh”.


PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”
TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG
          Sự chống phá chủ nghĩa xã hội (CNXH) của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” (DBHB) ở nửa cuối thế kỷ XX là trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ mô hình CNXH ở các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây. Sau sự kiện đó, chúng tiếp tục thực hiện chiến lược DBHB với âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc hơn nhằm xóa bỏ các nước XHCN còn lại và phong trào độc lập, dân chủ, tiến bộ trên thế giới. Trong đó, Việt Nam là một trọng điểm chống phá của chúng.
          Đối với Việt Nam, âm mưu nhất quán của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Để thực hiện âm mưu đó chúng đẩy mạnh chống phá trên tất cả các lĩnh vực với phương châm: lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá hàng đầu; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền làm ngòi nổ; dùng ngoại giao để hỗ trợ hậu thuẫn; dùng quân sự để răn đe và có thể căn thiệp lật đổ. Trong chiến lược DBHB chúng thực hiện chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch luôn coi thực hiện DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là một trọng tâm, hàng đầu, mũi nhọn.
          Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược DBHB mà trọng tâm là DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nhằm cho nội bộ ta chuyển hóa, Đảng mất vai trò lãnh đạo đất nước, chệch hướng con đường CNXH. Đặc biệt, các tế lực thù địch tiếp tục chống phá và can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, như nói xấu cán bộ lãnh đạo các cấp, nhất là cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước  và công tác nhân sự trước thềm đại hội Đảng ở các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhằm làm cho quần chúng nhân dân mất long tin đối với Đảng, kết hợp kích động bạo loạn, lật đổ và đẩy mạnh hoạt động DBHB thúc đẩy “tự diễn biến” trong nội bộ ta.
          Từ nhận thức sâu sắc về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, Đảng ta xác định phương hướng và đưa ra các giải pháp phù hợp, lãnh đạo chống lại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đạt nhiều kết quả to lớn. Đảng coi trọng lãnh đạo đổi mới nội dung, phương pháp tiến hành công tác tư tưởng, lý luận, tuyên truyền trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm nâng cao cảnh giác cách mạng, làm thất bại âm mưu thủ đoạn DBHB của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng.
          Bên cạnh đó, vẫn còn một số cấp ủy, tổ chức đảng và một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân chưa nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn DBHB trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch, dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác, bị động đối phó trước những tình huống cụ thể do kẻ địch gây ra. Trong điều kiện hiện nay cùng với tác động của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đã xuất hiện quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên khá phức tạp. Một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ chủ chốt các cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân cơ hội, thực dụng. Đặc biệt nguy hiểm là quá trình chuyển hóa từ cơ hội, thực dụng về kinh tế sang cơ hội thực dụng về chính trị, từ tha hóa về đạo đức và lối sống sang tha hóa về tư tưởng.
          Hiện nay, nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng sẽ diễn ra rất quyết liệt và phức tạp hơn, đòi hỏi Đảng, các tổ chức đảng phải tăng cường lãnh đạo, kiên quyết, chủ động đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và khắc phục kịp thời hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân cũng như trong hệ thống chính trị ở nước ta.
          Để tăng cường lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch trong thời gian tới, trên cơ sở những quan điểm, mục tiêu, phương hướng cơ bản trên các lĩnh vực, Đảng lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành đồng bộ các giải pháp thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trước hết thực hiện các giải pháp sau:
          Một là, tăng cường lãnh đạo nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên trong phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng.
          Hai là, chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
          Ba là, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để thực hiện có hiệu quả phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng.
          Bốn là, lãnh đạo củng cố Nhà nước, mặt trận, đoàn thể vững mạnh, huy động các lực lượng trong xã hội tham gia phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng.
          Năm là, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác tư tưởng, lý luận và lực lượng chuyên trách phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng.
          Sáu là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống  vật chất và tinh thần của nhân dân, đầu tư thích đáng cơ sở vật chất, hiện đại hóa phương tiện kỹ thuật phục vụ phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng.
          Bẩy là, tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra và thực hiện sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng./.
     
LM

Tránh nguy cơ chọn nhầm cán bộ

Tránh nguy cơ chọn nhầm cán bộ
Một trong những nội dung rất quan trọng trong công tác chuẩn bị đại hội đảng các cấp là chuẩn bị nhân sự. Đại hội có thành công hay không, phụ thuộc một phần rất quan trọng vào công tác chuẩn bị, quy hoạch, sàng lọc nhân sự có chặt chẽ, chu đáo, chính xác hay không. Bởi, nếu mỗi cấp ủy đảng không làm tốt khâu sàng lọc, mỗi đảng viên không nêu cao tinh thần, trách nhiệm, sáng suốt lựa chọn cán bộ thì nguy cơ chọn nhầm cán bộ luôn hiện hữu.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém". Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài, trong đó đức là quan trọng hàng đầu. Đạo đức của người cách mạng được thể hiện trước hết ở chỗ: Luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết, biết giải quyết đúng đắn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, đặt ra yêu cầu và đòi hỏi rất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Vì vậy, việc lựa chọn nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, cũng như tham gia ban chấp hành đảng bộ các cấp phải được cấp ủy, tổ chức đảng từng cấp xác định là công việc đặc biệt hệ trọng và được triển khai đúng với phương châm: Thật sự công tâm, khách quan, trong sáng, gương mẫu chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức, quy chế, quy định của Đảng. Mục tiêu cao nhất mà mỗi cấp ủy, tổ chức đảng phải đạt được chính là lựa chọn cho được những cán bộ “Đảng cần, dân muốn”, tránh chọn nhầm cán bộ như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã cảnh báo: Đừng bị đánh lừa bởi những động tác giả. Nhiều người khéo lắm, dễ đề cao thành tích, che giấu khuyết điểm…
Vì vậy, công tác nhân sự đại hội phải được tiến hành theo quy trình chặt chẽ, khoa học và nhất quán; lấy tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và hiệu quả công tác làm thước đo chủ yếu. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng trên cơ sở xác định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá đúng cán bộ, lựa chọn đúng người, sắp xếp đúng việc, bố trí đúng chỗ, tạo ra một ê-kíp, một tập thể thật sự "ăn ý", đoàn kết, thống nhất, có sức mạnh. Muốn thế, phải thật sự phát huy dân chủ trong phát hiện, giới thiệu nhân sự đi đôi với xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu. Chống tư tưởng cục bộ, địa phương, thân quen, "cánh hẩu", "lợi ích nhóm"...
Đặc biệt, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và từng đảng viên bằng tất cả trách nhiệm của mình trước Đảng, trước dân, trước sự hưng thịnh của quốc gia-dân tộc, phải bản lĩnh, dứt khoát không đưa vào cơ quan lãnh đạo những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người sa sút về phẩm chất, đạo đức, vướng vào tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hống hách, gia trưởng, nịnh trên, nạt dưới, bao che cho tội phạm, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng.
Làm được như vậy, chúng ta sẽ góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Nguồn QĐND