Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2022

LÀM GÌ ĐỂ NHỮNG THÔNG TIN XẤU ĐỘC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG KHÔNG CÒN ĐẤT SỐNG Thông tin xấu độc trên không gian mạng gây tác động tiêu cực đến dư luận xã hội, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống, nhân cách của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do vậy, cần nhận diện những thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng không gian mạng đưa thông tin xấu độc, giả mạo, qua đó chủ động phòng ngừa, đấu tranh, năng cao sức đề kháng cho mỗi cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân góp phần đấu tranh làm thất bại thủ đoạn chống phá của địch trên không gian mạng đối với cách mạng Việt Nam. Hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng mạng xã hội để đăng tải, đưa nhiều thông tin sai sự thật hoặc các thông tin có phần đúng nhưng sai lệch về bản chất trên các trang mạng xã hội để đánh lừa người đọc, làm người đọc lầm tưởng là thông tin chính thống để đăng nhập, chia sẻ, bình luận gây hiệu ứng tâm lý xã hội trước những vấn đề có tính thời sự của đất nước. Nguy hiểm hơn nữa, chúng khai thác lỗ hổng bảo mật của các website, cổng thông tin điện tử để sửa chữa, chèn thêm đường dẫn (link) đăng tải nội dung, thông tin giả mạo, xấu độc, văn hóa đồi trụy, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, vi phạm thuần phong mỹ tục, văn hóa truyền thống của dân tộc; chèn, chỉnh sửa nội dung bài viết, hình ảnh trên các website, cổng thông tin điện tử làm sai lệch bản chất thông tin, làm người đọc mơ hồ mất cảnh giác, từ đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tác động đến tư tưởng, đạo đức và lối sống, tâm tư, tình cảm của các giai tầng xã hội; tạo lập các blog, website, mạng xã hội kết hợp với các loại hình thông tin khác báo viết, báo hình, báo nói... để thu hút lượng người truy cập, qua đó truyền bá các quan điểm, tư tưởng phản động. Để những thông tin xấu độc trên không gian mạng không còn đất sống, đòi hỏi mỗi cán bộ đảng và quần chúng nhân dân cần nhận diện, chủ động phòng ngừa, đấu tranh, năng cao sức đề kháng, góp phần đấu tranh phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng không gian mạng chống phá.

NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH, PHÒNG, CHỐNG, LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH XUYÊN TẠC VỀ DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM

Nhận diện, đấu tranh, phòng, chống, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch xuyên tạc về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là nhiệm vụ thường xuyên, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn, đòi hỏi cả hệ thống chính trị và toàn dân, nòng cốt là lực lượng chuyên trách phòng, chống “diễn biến hòa bình” và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phát huy trách nhiệm, đề cao cảnh giác cách mạng, có quyết tâm chính trị cao, nội dung toàn diện, đồng bộ, giải pháp khoa học, thiết thực. Trước hết, cần nhận rõ “dân chủ”, “nhân quyền” là mũi tấn công chủ yếu của các thế lực thù địch Sau thành công của những xung đột chính trị nhằm lật đổ chế độ chính trị ở một số quốc gia Đông Âu, Trung Đông và Bắc Phi bằng các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng cam”, “cách mạng đường phố”,… các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” ở Việt Nam với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, trong đó có chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”. Họ cho rằng, học thuyết “dân chủ”, “nhân quyền” cần áp dụng với Việt Nam là: xóa bỏ nền tảng tư tưởng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản. Đây là một trong những mũi tấn công chủ yếu của các thế lực thù địch thông qua các luận điệu xuyên tạc, hòng bóp méo sự thật, phủ nhận quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân chủ, nhân quyền. Mục đích của các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tuyên truyền, xuyên tạc làm rối loạn tình hình chính trị ở Việt Nam, v.v. Những phương thức cụ thể mà họ vẫn thường sử dụng là: lợi dụng danh nghĩa “nhà dân chủ”, “đấu tranh vì nhân quyền” để xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng vấn đề chống tham nhũng, những hạn chế trong quản lý xã hội của chính quyền cơ sở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo, kích động những phần tử bất mãn với chế độ đẩy mạnh các hoạt động gây rối, biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Mặt khác, họ chủ động tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân thông qua những chiêu trò, như: “hỗ trợ kinh phí để thực hiện việc khiếu kiện”; hỗ trợ nhân đạo kèm theo những điều kiện bắt buộc như tham gia các hội, nhóm, diễn đàn, hội thảo; lợi dụng sai phạm của một số cán bộ, đảng viên để đánh đồng, quy chụp thành bản chất, bôi nhọ, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp, từng bước hạ thấp làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ. Cùng với đó, họ ra sức tuyên truyền, cổ xúy, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản phương Tây, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích quốc gia, dân tộc”; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người, tự do tôn giáo, v.v. Đặc biệt, chúng đẩy mạnh các “chiến dịch” phá hoại tư tưởng, hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế khi chúng ta đăng cai tổ chức những sự kiện chính trị quan trọng hay tham gia các hội nghị, diễn đàn đa phương, song phương, nhất là của Liên hợp quốc. Các thế lực thù địch còn lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam. Một số tổ chức, cá nhân còn tìm cách gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện về dân chủ, nhân quyền trong quan hệ với Việt Nam, đòi Việt Nam phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, dân chủ và pháp luật theo kiểu phương Tây. Họ gây sức ép, buộc Việt Nam phải có những tiến bộ cụ thể về dân chủ, nhân quyền, phải đưa ra các lộ trình cụ thể trong thực hiện các điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền. Chủ động đấu tranh, phản bác có hiệu quả mọi luận điệu xuyên tạc về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam Một là, tiếp tục đặt công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, thường xuyên, toàn diện của Đảng và sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Đây là giải pháp cơ bản, quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong triển khai công tác đấu tranh, phòng, chống làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá; đồng thời, khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta: dân chủ là bản chất, là mục tiêu, là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với phương châm chỉ đạo, công tác lý luận, tư tưởng phải đi trước, đón đầu, không tạo “khoảng trống thông tin” để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá, các cơ quan chức năng phải không ngừng nâng cao nhận thức, kỹ năng, xây dựng kế hoạch chiến lược, sách lược, tổ chức lực lượng một cách bài bản, khoa học trong đấu tranh, phản bác; thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả của công tác tư tưởng. Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân; trong đó, đi đầu là đội ngũ cán bộ, đảng viên, với lực lượng nòng cốt là Ban Chỉ đạo 35 các cấp, nhất là Ban Chỉ đạo 35 của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; Bộ Công an; Bộ Thông tin và Truyền thông; Ban Tuyên giáo Trung ương; Bộ Ngoại giao; Hội đồng Lý luận Trung ương cùng hệ thống các cơ quan truyền thông, báo chí, xuất bản và đội ngũ các nhà nghiên cứu khoa học, tuyên truyền viên,… tạo thành mạng lưới đấu tranh ngày càng đông đảo và hiệu quả. Hai là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá cách mạng Việt Nam. Đây là giải pháp tạo sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, các cấp, ngành trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh làm thất bại mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng để nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm, sai trái thù địch, xuyên tạc, vu khống, phủ nhận thành tựu dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa nắm chắc âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhận diện rõ các bài viết, những luận điệu sai trái đăng tải trên các trang mạng xã hội; không để thế lực thù địch kích động, lôi kéo vào các hoạt động biểu tình, khiếu kiện đông người hoặc vô tình bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá Đảng và Nhà nước. Ba là,  đổi mới nội dung, đa dạng các hình thức, biện pháp đấu tranh, bảo vệ vững chắc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhân quyền ở Việt Nam. Đổi mới, bổ sung nội dung đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc của Đảng và Nhà nước; mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp; công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận. Trong đó, sử dụng các kênh truyền thông chính thống và các mạng xã hội để tiếp cận đông đảo quần chúng nhân dân, vừa tuyên truyền, vừa bóc trần những xuyên tạc vô căn cứ của các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề chính trị, xã hội để chống phá. Cùng với đấu tranh “trực diện” cần không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác, tăng cường ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đa dạng hóa các hoạt động đấu tranh, thiết lập và sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn một cách có hiệu quả. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng và quy định của tổ chức, cơ quan, đơn vị. Bốn là, kết hợp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xóa đói, giảm nghèo với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự xã hội để các thế lực thù địch không còn “đất” diễn. Cấp ủy, chính quyền các địa phương cần nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nhanh chóng giải quyết các vụ khiếu kiện gây bức xúc trong nhân dân. Tăng cường các biện pháp định hướng dư luận, đưa thông tin đúng, chính thống đến nhân dân, không để xảy ra những tình huống bị động, bất ngờ gây mất ổn định chính trị ở cơ sở; chú trọng khoanh vùng, giải quyết dứt điểm các “điểm nóng”, không để lan rộng, kéo dài gây bức xúc dư luận. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, đồng bào dân tộc thiểu số; tạo điều kiện để nhân dân được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, các cấp, các ngành quan tâm chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên mọi lĩnh vực, nhất là môi trường mạng, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Phùng Thắng 30A

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO PHÁ HOẠI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG NƯỚC TA HIỆN NAY

Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn cố tình xuyên tạc vấn đề dân tộc, tôn giáo ở nước ta. Họ dựng lên rằng, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách “độc tài cai trị”, “đàn áp tôn giáo”, “đàn áp dân tộc”… Họ đưa ra chiêu bài đòi “tự do tôn giáo”, đòi “quyền tự trị cho từng dân tộc”; kích động thành lập cái gọi là “Vương quốc Mông tự trị” ở Tây Bắc; “Nhà nước Đề Ga độc lập” ở Tây Nguyên với “Tin lành Đề ga” làm quốc đạo… hòng kích động, chia rẽ các tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của ta. Cụ thể là: Một là, các thế lực thù địch lợi dụng xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập quốc tế cũng như thông qua hoạt động tài trợ kinh tế, từ thiện, các tổ chức phản động ngoài nước đã chuyển tài liệu tôn giáo có nội dung phản động vào trong nước với mục đích xuyên tạc bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, vu khống về chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước nhằm tạo cớ can thiệp sâu vào công việc nội bộ nước ta. Đồng thời, chúng đẩy mạnh các hoạt động gây dựng lực lượng chống đối ở trong nước nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị - xã hội, tạo dựng những nhân tố tiến tới chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hai là, chúng âm mưu thúc đẩy sự liên kết hoạt động giữa các tôn giáo (liên tôn); phối hợp chặt chẽ với các lực lượng phản động, cơ hội chính trị trong nước để tạo dựng ngọn cờ, hình thành lực lượng đối lập, làm “đối trọng” với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam; đẩy mạnh phát triển các hội đoàn tôn giáo, làm sầm uất xứ đạo, khuyếch trương thanh thế, kết hợp với tăng cường truyền đạo trái phép, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ để tập hợp lực lượng và dẫn dắt đồng bào thực hiện mưu đồ chính trị phản động của chúng. Nổi bật trong thủ đoạn trên, trong những năm gần đây, trên địa bàn Tây Bắc và Tây Nghệ An, các thế lực thù địch đã ráo riết thực hiện mưu đồ lập ra đạo “Vàng Chứ” để thành lập cái gọi là “Vương quốc Mông tự trị”. Vùng Tây Nguyên, chúng đòi thành lập đạo Tin Lành Đềga với mưu toan là cơ sở cho ý đồ thành lập “Nhà nước Đềga độc lập”. Ở Tây Nam Bộ, nơi có đông đồng bào Khơ me sinh sống, chúng chủ trương dựng nên “Nhà nước Khơ me Krôm” với luận điệu vu khống Nhà nước ta đàn áp hệ Phật giáo Nam tông Khơ me Nam Bộ. Đây là thủ đoạn rất nham hiểm, trắng trợn của các thế lực thù địch hòng phá hoại an ninh quốc gia, đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ba là, bằng nhiều thủ đoạn và chiêu trò thâm hiểm, xảo quyệt, chúng từng bước xúc tiến việc nắm quyền điều khiển các tổ chức tôn giáo để biến những tổ chức này thành các tổ chức chính trị, đảng chính trị để làm chỗ dựa, “núp bóng” cho các hoạt động phá hoại và mưu đồ phản động. Chúng triệt để lợi dụng vỏ bọc tôn giáo để phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ hòng hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, họ đòi tôn giáo phải độc lập, không chịu sự quản lý của Nhà nước; tâng bốc, ca ngợi “tự do tôn giáo” ở các nước tư bản; yêu cầu Nhà nước ta “công nhận” hoạt động của các tổ chức tôn giáo giả hiệu như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Tin lành Đềga, Vàng Chứ, đạo Hà mòn,…; đòi thả các “tù nhân tôn giáo” - những kẻ đội lốt tôn giáo vi phạm pháp luật; kêu gọi Chính phủ Mỹ đưa Việt Nam vào “danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo”,... Để đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù; giữ vững môi trường an ninh trật tự, đẩy mạnh công cuộc phát triển đất nước trong tình hình hiện nay, công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước cần tập trung làm tốt một số nội dung biện pháp sau: Trước hết, cần tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với công tác tôn giáo. Từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật về tôn giáo cũng như hướng dẫn về thực hiện công tác tôn giáo đối với từng địa bàn cụ thể nhằm nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với công tác tôn giáo trong tình hình mới. Đồng thời, phải tiến hành có hiệu quả các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng tại những vùng trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nghệ An, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và dân trí cho nhân dân trong đó có đồng bào các tôn giáo nhằm tạo ra môi trường ổn định và nền tảng vững chắc cho việc thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong đồng bào các tôn giáo. Thứ hai, cần nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, xem xét, giải quyết việc cấp đăng ký hoạt động tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tôn giáo để thống nhất nhận thức trong toàn hệ thống chính trị, trong mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phải phát huy cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước đến các chức sắc, chức việc cũng như đến mỗi tín đồ các tôn giáo. Vận động chức sắc, chức việc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo” thực hiện đúng quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, tích cực tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Hướng dẫn các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, phát huy những giá trị văn hóa đạo đức lành mạnh, hướng thiện của các tôn giáo phù hợp với văn hóa truyền thống dân tộc. Cùng với đó, phải tập trung giải quyết kịp thời những vấn đề vướng mắc, nảy sinh trong công tác tôn giáo như: vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Cùng với đó, phải kịp thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật và mọi hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để kích động, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia; góp phần đảm bảo an ninh chính trị ở địa phương. Thứ ba, cần tiếp tục kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo của Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt, cần phát huy hiệu quả vai trò của lực lượng vũ trang (Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) trong tuyên truyền, vận động và làm nòng cốt cho các tầng lớp Nhân dân, nhất là đồng bào tín đồ các tôn giáo nhận diện và tố giác âm mưu cùng các hành vi, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo phá hoại sự nghiệp cách mạng đất nước. Văn Trung 30A

TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN!

         Ông là kiến trúc sư hàng đầu trong Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài suốt 20 năm và cũng chính ông là người đã vạch ra chiến lược cách mạng ở miền Nam Việt Nam với Đề cương cách mạng miền Nam. Từ bản đề cương này, hàng loạt phong trào đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam nổ ra, dọn đường cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công và giải phóng hoàn toàn miền Nam vào năm 1975 kết thúc cuộc kháng chiến vệ Quốc vĩ đại.
     Hòa bình tưởng chừng đã được lặp lại ở Việt Nam sau năm 1975, nhưng không, chúng ta phải đối diện với 1 cuộc chiến khác, 1 cuộc chiến mà bản chất của nó đã được nhận định ngay từ lúc đầu khi ông Ba Quốc (Đặng Trần Đức) báo cáo công tác tình báo cho TBT Lê Duẩn năm 1977: “Thưa anh Ba, có lẽ, chúng ta nên chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mới có thể sẽ phải chiến đấu ở cả hai đầu mặt trận“. Năm 1978, những nhận định của công tác tình báo lập tức được trình ra trước trung ương để nhận định về kẻ thù phải đối mặt, Bộ Chính trị và trung ương lúc đó đã nhận định rõ kẻ thù và kẻ nguy hiểm nhất thời điểm đó, đến từ phía Bắc và bè lũ Sen đầm quốc tế do Mỹ và Singgapo cầm đầu, còn Polpot chỉ là mục tiêu thứ yếu, nó chỉ là tay sai trong bộ máy chiến tranh mà Trung Quốc, Mỹ dựng nên, một lần nữa, dưới sự chỉ huy của dũng tướng Lê Trọng Tấn, đội quân bách chiến bách thắng lại thân chinh ra trận để cứu không chỉ chúng ta mà còn cứu cả Đông Nam Á, thoát khỏi viễn cảnh như Trung Đông hiện nay.
     Lịch sử cần có những người hy sinh sự nghiệp, danh dự của mình vì cái chung, vì đại cục, sự vĩ đại của người Lãnh tụ cách mạng là nằm ở tố chất đó và Lê Duẩn là 1 trong số đó, ông hy sinh cả đời mình, chịu nhiều thiệt thòi kể cả lúc sống và sau khi ông mất, không nhận bất cứ công lao gì về mình, mặc dù ông là người có vai trò cực kỳ quan trọng, có tầm ảnh hưởng rất lớn đến cuộc kháng chiến nhất thống giang sơn và bảo vệ Tổ quốc sau này, ông làm những gì có thể nhất vì đất nước này, vì dân tộc này, vì thế hệ này, và vì chế độ này, giống như lời nhận định của Pierre Asselin: “Với Lê Duẩn, cái gì nhịn được thì nhịn, nhưng ông ấy tuyệt đối không bao giờ nhượng bộ những điều gây nguy hại cho an ninh quốc gia" và trong một nhận xét khác có tính khẳng định hơn, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Javier Pérez de Cuéllar khẳng định: “Ngài Tổng Bí thư Lê Duẩn đã giữ một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử của Việt Nam cũng như lịch sử thế giới trong thế kỷ 20”. 
     Để nhắc tới những cuộc vệ quốc vĩ đại đã qua của dân tộc, không thể không nhắc đến ông - Lê Duẩn, thế kỷ này, thế kỷ sau và hàng trăm năm sau, cái tên của ông vẫn sẽ đi vào lịch sử như 1 Bismark của Đông Nam Á, tầm vóc và sự vĩ đại của ông cho đến tận ngày nay thế giới vẫn chưa thể đánh giá hết, ngay cả bởi chính chúng ta.
     “Sự trung thành đối với chủ nghĩa dân tộc của Lê Duẩn, là điều khiến cho Việt Nam là nước tiên phong trên toàn thế giới đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng đất nước“./.
Môi trường ST.

Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2022

NHẬN DIỆN ĐÚNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ VẤN ĐỀ NGÔN NGỮ ĐỂ THAM GIA ĐẤU TRANH!

         Thời gian qua, bên cạnh việc bịa đặt, vu khống về tình hình tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam để chống phá Đảng, Nhà nước ta, một số cá nhân, tổ chức phản động, cực đoan, thiếu thiện chí còn thường xuyên lợi dụng và đẩy mạnh việc chính trị hóa, quốc tế hóa các vấn đề dân tộc nhằm tạo cớ gây sức ép và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
     Trong đó chúng lợi dụng những bất cập trong vấn đề bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của các tộc người ở một vài địa phương, kêu gọi việc cần phải tổ chức hội thảo quốc tế về người dân tộc thiểu số nhằm khơi gợi, kích động tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và ly khai tự trị ở một số tộc người. Nhiều nội dung xuyên tạc đã được chúng đăng tải trên một số tạp chí hải ngoại, mạng xã hội để kêu gọi dư luận quốc tế “lên tiếng” về vấn đề người dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ với người Kinh, bôi nhọ, hạ thấp uy tín những chức sắc, sư sãi yêu nước, tiến bộ, từ đó kích động ly khai, kêu gọi người dân tham gia đấu tranh thành lập cái gọi là “Nhà nước Khmer Krôm”... Đó là những âm mưu thâm độc, thủ đoạn tinh vi nên cần phải vạch trần và đấu tranh phản bác có hiệu quả.
     Thực tế, từ khi thành lập nước đến nay, chính sách về bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước luôn nhất quán trong công tác chỉ đạo và thực hiện. Điều này được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 cũng như nhiều văn bản pháp luật của Quốc hội và Chính phủ. Tại khoản 3 Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”...
     Số liệu thống kê cho thấy, tại Việt Nam, các gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nghe các chương trình Đài Tiếng nói Việt Nam và được xem truyền hình. Các chương trình phát thanh và kênh truyền hình từ Trung ương đến địa phương được phát sóng với 26 thứ tiếng dân tộc đã đến được với bản làng xa xôi.
     Những quan điểm trên chính là căn cứ chính trị, pháp lý quan trọng để chúng ta vạch trần, phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc của các cá nhân, tổ chức phản động, cực đoan, thiếu thiện chí. Mỗi chúng ta tiếp tục nâng cao cảnh giác, hết sức tỉnh táo, giữ “cái đầu lạnh” trước những luận điệu xuyên tạc của các đối tượng phản động./.




Yêu nước ST.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 04 THÁNG 9 NĂM 1954!

         “Mong cán bộ ta cẩn thận từng lời nói, từng việc làm, thật thà “ba cùng”, làm đúng chính sách, để giành lấy kết quả tốt hơn trong công tác phát động quần chúng”.
     Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài viết “Những kinh nghiệm cần phải tránh trong công tác phát động quần chúng”, đăng trên Báo Nhân dân, số 221, từ ngày 04 đến 06/9/1954, bút danh “C.B”. Đây là thời điểm miền Nam đang tiến hành đấu tranh chính trị, giữ gìn, phát triển lực lượng, chuẩn bị cho cao trào cách mạng mới; miền Bắc đang trong thời kỳ khôi phục, cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. 
     Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn thận trọng trong từng lời nói, việc làm, đặc biệt là phải luôn thật thà, khiêm tốn, thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm huy động sức mạnh đông đảo của quần chúng cùng hướng vào thực hiện mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng. Lời kêu gọi trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ trở thành phương hướng hành động, mục tiêu phấn đấu, rèn luyện của cán bộ, đảng viên mà còn tạo được niềm tin trong quần chúng nhân dân, động viên, cổ vũ nhân dân thi đua lao động, sản xuất, kháng chiến thắng lợi.
     Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi tình hình diễn biến phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp, nhanh chóng đến mọi mặt đời sống xã hội, càng nhận thấy giá trị sâu sắc lời căn dặn của Bác năm xưa; đặc biệt, nó đã trở thành định hướng quan trọng để đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm công tác dân vận hiện nay phải vươn lên để lãnh trách nhiệm trước Đảng, trước dân, khắc phục mọi khó khăn, yếu kém, nhạy bén, tham mưu giải quyết một cách kịp thời, có hiệu quả những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, góp phần thiết thực vào việc củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để cho mọi người ai cũng phải làm dân vận, ai cũng biết làm dân vận và ai cũng được làm dân vận, chứ không phải là công việc riêng cán bộ chuyên trách.
     Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, trong suốt hành trình hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin yêu, giúp đỡ, đã chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do của Tổ quốc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, được nhân dân tin tưởng, yêu mến trao tặng danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”. Thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, hằng năm có hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ quân đội tham gia làm công tác dân vận ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, nơi phức tạp về an ninh, chính trị, dân tộc, tôn giáo; các Đoàn kinh tế - quốc phòng đã tích cực giúp đỡ nhân dân chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng nông thôn mới, tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, giữ gìn an ninh chính trị… theo đúng phương châm “Nghe dân nói, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin” được cấp uỷ, chính quyền, nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, tiếp tục giữ vững và phát huy tốt truyền thống tốt đẹp “đến dân mừng, đi dân nhớ, ở dân thương”./.
Môi trường ST.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC: LUÔN ĐỀ CAO VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ THẦY, CÔ GIÁO

 


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi thầy giáo, cô giáo phải là những người chiến sĩ trên mặt trận giáo dục; là “những người vẻ vang nhất, là những người anh hùng vô danh”. Người luôn có sự tin tưởng và mong muốn các thế hệ học sinh không ngừng cố gắng học tập, rèn luyện tốt để mai sau trở thành những người có ích cho Tổ quốc.

Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường tháng 9/1945, Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năn châu hay không, chính là nhờ một phần lớn công học tập của các em”. Lời dạy của Người đã hiệu triệu, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ hàng triệu thầy giáo, cô giáovà các em học sinh trên cả nước tích cực thi đua dạy tốt- học tốt; trở thành chỉ dẫn mang tính chân lý phát triển của Việt Nam từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, bị thực dân, đế quốc đàn áp, bóc lột đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây chính là một lời khẳng định của Người về vị trí, vai trò to lớn của giáo dục.

Theo Hồ Chí Minh, vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục là xây dựng đội ngũ những nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Bởi vì “nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục, phải xây dựng đội ngũ những người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo. Đó là những người yêu nghề, yêu trường, hết lòng thương yêu, chăm sóc, giáo dục học sinh, không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng “khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ”. Phải thường xuyên tự bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo; chủ động thích ứng với điều kiện và đối tượng trong quá trình dạy - học hiện nay. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình”. Người dẫn lại câu nói của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”, và lời dạy của Lênin: “Học, học nữa, học mãi” để nhấn mạnh rằng người huấn luyện nào tự cho mình là đã biết đủ rồi thì người đó dốt nhất.

Người luôn nhắc nhở các nhà giáo và cán bộ quản lý phải thanh liêm, trung thực, biết đặt lợi ích của đất nước, của nhà trường lên trên lợi ích cá nhân: “Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải có chí khí cao thượng, phải “tiên ưu hậu lạc” nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng” và “Thầy và trò phải luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”…

Bên cạnh việc nêu lên những điều mà nhà giáo phải làm cho tốt, Người còn dặn dò các thầy, cô giáo và cán bộ quản lý không được đánh mất phẩm chất của mình, dù hoàn cảnh nào cũng phải là tấm gương cho học sinh noi theo, tránh thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống thực tế, lười biếng trong học tập và nâng cao trình độ; thái độ kèn cựa địa vị, xem nhẹ công việc của mình, thiếu tinh thần xây dựng tập thể… và quyết tâm: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”.

Có thể khẳng định, những quan điểm sáng tạo, tấm gương về tự học và học tập suốt đời và đổi mới về giáo dục của Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục của Đảng và Nhà nước ta trong 35 năm đổi mới và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài...” và “xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới có tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phấn đầu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

ĐƯA NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI NGHỊ LẦN THỨ 5 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XIII VÀO CUỘC SỐNG

 


Sáng ngày 22/7, đã diễn ra ngày làm việc thứ hai của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

"Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới" tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Ðảng với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài, liên tục, là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hội nghị Trung ương 5, nhất là những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, những vấn đề mới, cốt lõi trong các Nghị quyết, đây là những nội dung rất cơ bản, liên quan mật thiết, tác động nhiều chiều đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội, đất nước, đời sống của nhân dân, ổn định chính trị, giữ vững an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, trình độ, uy tín lãnh đạo đất nước.

Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, học tập, quán triệt Nghị quyết phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, hấp dẫn, trong đó tuyên giáo đóng vai trò đi trước, nâng cao vai trò của các cơ quan báo chí, sức mạnh của các tổ chức chính trị xã hội để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ, thông suốt và tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết. Đồng thời, chú trọng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, định hướng dư luận xã hội trong quá trình thực hiện nghị quyết. Hội nghị Trung ương 5 sẽ sớm đi vào cuộc sống, đạt nhiều kết quả, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo, tuyên truyền các nội dung các nghị quyết Trung ương 5 sâu rộng hơn nữa, lựa chọn những nội dung, hình thức phù hợp với các đối tượng cán bộ, đảng viên để có hiệu quả, thiết thực; đưa những quan điểm chỉ đạo của nghị quyết thành hành động cụ thể trong thực hiện phát triển kinh tế- xã hội...

 

QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT SỐ 18-NQ/TW

 


Nghị quyết số 18-NQ/TW về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao", BCH Trung ương đề ra mục tiêu tổng quát hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguồn lực đất đai được quản lý, khai thác, sử dụng bảo đảm tiết kiệm, bền vững, hiệu quả cao nhất; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá công bằng và ổn định xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo động lực để nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, trở thành kênh phân bổ đất đai hợp lý, công bằng, hiệu quả.

Mục tiêu cụ thể đến năm 2023 phải hoàn thành sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và một số luật liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất; hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu số và hệ thống thông tin quốc gia về đất đai tập trung, thống nhất, đồng bộ, đa mục tiêu và kết nối liên thông. Hoàn thành kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất; loại bỏ khâu trung gian, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp, kèm theo cơ chế kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc có liên quan đến quản lý và sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh; đất quốc phòng, an ninh kết hợp với sản xuất và xây dựng kinh tế; đất của các cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp đã di dời khỏi trung tâm các đô thị lớn; đất lấn biển; đất tôn giáo; đất nghĩa trang; đất kết hợp sử dụng nhiều mục đích; đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Đến năm 2030, hệ thống pháp luật về đất đai cơ bản được hoàn thiện đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khắc phục bằng được tình trạng sử dụng đất lãng phí, để đất hoang hoá, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc về quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại.

 

QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT SỐ 19-NQ/TW

 


Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, BCH Trung ương khẳng định nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế. Phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, gắn với đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch và phát triển thị trường nông sản cả ở trong nước và ngoài nước; bảo đảm an toàn thực phẩm, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn.

Chuyển mạnh tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường. Phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2030, nông dân và cư dân nông thôn có trình độ, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, làm chủ quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, quy mô sản xuất hàng hoá nông sản ngày càng lớn, bảo đảm môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nông thôn phát triển toàn diện, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, cơ cấu kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, môi trường sống an toàn, lành mạnh, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; tổ chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh.

 

THỰC HIỆN NGHIÊM 19 ĐIỀU ĐẢNG VIÊN KHÔNG ĐƯỢC LÀM

 

Điều 1. Nói, viết, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, quyết định của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép.

Đảng viên không được:

1. Phát ngôn, trả lời phỏng vấn, viết bài cho báo chí, trang thông tin điện tử (kể cả bảo chí nước ngoài), sử dụng không gian mạng để đăng tải, bình luận, chia sẻ thông tin những nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước

2. Thực hiện không nghiêm, không đúng, không đầy đủ hoặc không chỉ đạo, triển khai thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận của Đảng, của tổ chức đảng cấp trên và cấp mình.

3. Làm những việc pháp luật cấm hoặc pháp luật chưa quy định khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép.

Điều 2. Không chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép.

Đảng viên không được:

1. Không chấp hành hoặc chấp hành không đúng, không đầy đủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.

2. Tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử người khác vào các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ mà theo quy định phải do cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền giới thiệu.

Điều 3. Phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không thực hiện trách nhiệm nêu gương; chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi; "tư duy nhiệm kỳ", đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyển quyền, quan liêu, xa rời quần chúng.

Đảng viên không được:

1. Phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận của Đảng. Phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, hoài nghi, phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, đòi thực hiện "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng", đòi "phi chính trị hỏa lực lượng vũ trang"...; giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

2. Không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm, không đầy đủ trách nhiệm nêu gương theo quy định của Đảng. Thâu tóm quyền lực, lấy danh nghĩa tập thể để áp đặt, hợp thức hóa quyết định sai trái của cá nhân. Cơ hội, vụ lợi, đặt lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích của tập thể, Chạy theo mục tiêu trước mắt, trong ngắn hạn để thu vén lợi ích cho bản thân, gia đình, cho nhóm lợi ích mà bỏ qua những mục tiêu, lợi ích dài hạn của tập thể, cộng đồng và đất nước.

3. Đoàn kết xuôi chiều, nể nang, né tránh, ngại va chạm, im lặng, không đấu tranh hoặc phụ họa theo ý kiến, quan điểm sai trái, lệch lạc; bao che, giấu diếm vị

phạm, khuyết điểm của bản thân, của người khác hoặc của tổ chức; không bảo vệ nhân tố tích cực, cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung.

4. Độc đoán, chuyển quyền, mất dân chủ, không tôn trọng ý kiến của tập thể, Quan liêu, xa rời thực tế, không sâu sát công việc, không nắm chắc tình hình trong cơ quan, tổ chức, địa phương, đơn vị. Không gần gũi, tôn trọng, lắng nghe ý kiến góp ý của đồng nghiệp tại cơ quan, đơn vị và của quần chúng nhân dân; không giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú.

 

HỒ CHÍ MINH – TẤM GƯƠNG LỚN VỀ SỰ NÊU GƯƠNG

 


Tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh về nêu gương thể hiện rất phong phú, sinh động, rộng lớn, cụ thể, thống nhất trong mọi suy nghĩ, hành động, lời nói, việc làm từ nhỏ đến lớn, kết tinh thành những giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách...

Tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh về nêu gương thể hiện rất phong phú, sinh động, rộng lớn, cụ thể, thống nhất trong mọi suy nghĩ, hành động, lời nói, việc làm từ nhỏ đến lớn, kết tinh thành những giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Những việc lớn liên quan tới vận mệnh lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh nói là làm, làm bằng được.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta! Người đã đi xa tròn nửa thế kỷ, nhưng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người; sự nghiệp cao cả và  vĩ đại của Người để lại cho Đảng ta, đồng bào ta, dân tộc ta, nhân dân ta là vô cùng to lớn, quý giá, mãi mãi trường tồn.

Một trong những giá trị tinh thần, sức mạnh vật chất của Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong tâm trí và đời sống các thế hệ cán bộ, đảng viên, nhân dân ta hiện nay và mai sau là tấm gương sáng về sự nêu gương của Người. Người hy sinh cống hiến trọn cả đời mình cho dân, cho nước, không một chút lo toan, tính toán riêng tư cho cá nhân mình tới tận lúc Người từ biệt thế giới này.

Nói đến sự nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đều có thể nhận thức, học tập ở Người qua những câu chuyện kể về Hồ Chí Minh; qua tìm hiểu lịch sử và quá trình hoạt động của Người; qua nghiên cứu sâu sắc giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người được nâng lên ở tầm cao, chiều sâu tư tưởng, lý luận, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh. Song tấm gương nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể khái quát ở những điểm chính sau:

Tấm gương tiền phong gương mẫu, nhận trách nhiệm về mình bất kể mọi gian khổ, nguy nan

Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành 21 tuổi chứng kiến cảnh dân tộc, những người đồng bào mình bị bọn thực dân phong kiến áp bức vô cùng tàn bạo, sống quằn quại, đau thương của kiếp người nô lệ, đã tự đặt trách nhiệm cho mình phải ra đi tìm đường cứu nước, mang lại “tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc”.

Trong bối cảnh đất nước đắm chìm đau thương trong vòng nô lệ, với hai bàn tay trắng, người thanh niên ấy tự nhận trách nhiệm về mình, chấp nhận cuộc dấn thân lao vào vòng xoáy bão dông của chủ nghĩa đế quốc đang hoành hành thế giới để tìm đường cứu nước, cứu dân.

Một quyết định lịch sử dám chấp nhận muôn vàn thử thách, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành chỉ có một khát khao, một niềm tin sắt đá rằng dân tộc mình, Tổ quốc mình nhất định phải được sống độc lập, tự do, hạnh phúc như các dân tộc khác trên thế giới. Có niềm tin, có khát vọng, nhưng Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã là kết tinh ý chí, khí phách, phẩm giá, nhân cách, truyền thống của các dân tộc dám đứng lên, tìm đường, dẫn dắt cả dân tộc tự giải phóng mình.

Suốt hành trình mấy chục năm bôn ba khắp thế giới tìm đường cứu nước và cả cuộc đời hoạt động lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tấm gương nêu gương của Hồ Chí Minh đã giúp Người vượt qua muôn vàn thử thách, tù đày, đánh bại những kẻ thù gian ác, hiểm độc, tàn bạo nhất hành tinh. Thực tế sinh động tấm gương nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học sâu sắc, bài học đầu tiên Người dạy cán bộ, đảng viên, nhân dân ta phải chủ động, tự giác, tiên phong, gương mẫu không ngại khó khăn, gian khổ, dám hy sinh vì sự nghiệp cao cả của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ, đảng viên phải nêu gương trong mọi công việc từ nhỏ  đến lớn. Người thường nhắc nhở, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Sự nêu gương đi đầu dám nghĩ, dám làm, dám lao vào nơi gian khổ để quần chúng nhân dân tin, noi theo là phẩm chất, nhân cách, khí phách của người cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân, không toan tính, thu vén lợi ích riêng tư, luôn đặt lợi ích chung của nhân dân, đất nước, dân tộc lên trước hết, trên hết. Đó là cơ sở, là điểm xuất phát cho nhận thức dám hy sinh phấn đấu, tính tiền phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên ở bất cứ thời điểm nào.

CHỐNG SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH

 


Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, trước hết là những biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng. Ngay từ tháng 10/1947, hai năm sau khi giành được chính quyền, Người đã yêu cầu cán bộ, đảng viên sửa đổi lối làm việc, chỉ rõ phải đấu tranh với những hiện tượng thờ ơ trước những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái: “Nghe những lời bình luận không đúng, cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí nghe những lời phản cách mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ”.

Người phê phán những đảng viên dao động, thiếu lý tưởng cách mạng: “Nếu chỉ có công tác thực tế, mà không có lý tưởng cách mạng, thì cũng không phải là người đảng viên tốt. Như thế, chỉ là người sự vụ chủ nghĩa tầm thường”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”.

Người kiên quyết chống những nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Người nói: “Trong Đảng ta hiện nay còn có nhiều người chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào công tác sự vụ, không nhận thấy sự quan trọng của lý luận, cho nên còn có hiện tượng xem thường học tập hoặc là không kiên quyết tìm biện pháp để điều hòa công tác và học tập”. “Có một số đồng chí không chịu nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của cách mạng Việt Nam. Họ không hiểu rằng: Chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh. Vì vậy, họ chỉ học thuộc ít câu của Mác-Lênin, để lòe người ta. Lại có một số đồng chí khác chỉ bo bo giữ lấy những kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng”. Người kiên quyết chống những biểu hiện không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác: “Vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm”.

Trong tự phê bình, phê bình, Người kiên quyết chỉ ra và đấu tranh với những biểu hiện không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyến điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật: “Thái độ của một số khá đông cán bộ là: Đối với người khác thì phê bình đứng đắn, nhưng tự phê bình thì quá “ôn hòa”. Các đồng chí ấy không mạnh dạn công khai tự phê bình, không vui lòng tiếp thu phê bình-nhất là phê bình từ dưới lên, không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của mình… Nói tóm lại: Đối với người khác thì các đồng chí ấy rất “mác xít”, nhưng đối với bản thân mình thì mắc vào chủ nghĩa tự do”.

Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh: “Có đồng chí đáng phải trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang chỉ phê bình, cảnh báo qua loa cho xong chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho nhau, tha thứ lẫn nhau, lừa dối cấp trên, giấu giếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật như vậy làm cho các đồng chí không những không biết sữa lỗi mình mà còn khinh thường kỷ luật. Tai hại hơn nữa nếu kỷ luật của đoàn thể  lỏng lẻo, những phần tử phản động sẽ có cơ hội chui vào hàng ngũ ta để phá hoại đoàn thể ta”.

Người lấy ví dụ: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người… Thấy cái xấu của người mà không phê bình là một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của người ta phát triển”. “Nói về từng người, nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình”!

Người cũng chỉ ra nhiều biểu hiện lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng: “Khi phê bình ai, không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”. “Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, cho nên thái độ của người phê bình phải thành khẩn nghiêm trang, đúng mực. Phải vạch rõ vì sao có khuyết điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương pháp gì để sửa chữa. Thuốc phải nhằm đúng bệnh. Tuyệt đối không nên có ý mỉa mai, bới móc, báo thù. Không nên phê bình lấy lệ. Càng không nên “trước mặt không nói, xoi mói sau lưng”.

Hồ Chí Minh chỉ ra và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác: “Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”.

Người phê phán những biểu hiện duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác: “Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết”. “Tự kiêu tức là cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được. Việc gì mình cũng giỏi hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai”. Người chỉ ra: “Trong Đảng ta có một số không ít đồng chí mắc bệnh công thần, cho rằng mình đã tham gia cách mạng lâu năm mà tự kiêu, tự mãn. Hoạt động cách mạng lâu năm là tốt, nhưng phải khiêm tốn học tập để tiến bộ mãi”.

Kiên quyết chống những biểu hiện tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác, mà Hồ Chí Minh gọi là: “Bệnh hiếu danh - Tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung lay. Nhưng người đó chỉ biết lên mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng mà không chịu được khổ. Chỉ ham làm chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không ham công tác thiết thực”.

Người yêu cầu: “Phải khắc phục bệnh cá nhân chủ nghĩa, bệnh công thần, óc địa vị. Nó đẻ ra nhiều cái xấu như xích mích, kèn cựa giữa cán bộ và giữa đảng viên, không ai phục ai, không giúp đỡ nhau, không cộng tác chặt chẽ với nhau. Bệnh cá nhân còn dẫn đến tệ bảo thủ, quan liêu, tham ô, lãng phí, sợ khó, sợ khổ, thấy khó khăn thì đâm ra tiêu cực, bi quan”, từ đó dẫn đến những biểu hiện chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh. “Không phục tùng mệnh lệnh, không tuân theo kỷ luật. Cứ làm theo ý mình”.

Những biểu hiện chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình Người gọi là “Bệnh cận thị - Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”.

Người đấu tranh với những biểu hiện tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích và gọi đó là: “Tư túng - Kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai”. Người phê bình thẳng thắn: “Có những đồng chí còn giữ thói “một người làm nên cả họ được nhờ”, đem bà con bằng hữu vào chức này việc kia, làm được, không được mặc kệ. Hỏng việc đã có đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”.

 

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MÌNH VỀ TỰ DIỄN BIẾN

 


 

Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn khá nhiều về suy thoái đạo đức, lối sống. Người thẳng thắn đấu tranh với mọi biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình. Người gọi đó là các căn bệnh: “Óc hẹp hòi - Ở trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta hơn mình. Ở ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế mà không biết liên lạc hợp tác với những người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng. Vì thế mà người ra uất ức và mình thành ra cô độc”23; và “Bệnh tham lam - Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình”24. “Còn có những đồng chí chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, lo phát tài, lo chiếm của công làm của tư, đạo đức cách mệnh thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc”25.

Ngay từ đầu năm 1948, khi nhà nước cách mạng còn hết sức non trẻ, gặp muôn vàn khó khăn, Người đã chỉ ra cần phải đấu tranh với những vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em” ngăn cản quần chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”26.

Người kiên quyết chống “Bệnh hẹp hòi”, vì “Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, .v.v., đều do bệnh hẹp hòi mà ra!”27. Người giải thích về “Địa phương chủ nghĩa”, đó là: “chỉ chăm chú lợi ích của địa phương mình mà không nhìn đến lợi ích của toàn bộ. Làm việc ở bộ phận nào chỉ biết bênh vực vun đắp cho bộ phận ấy. Do khuyết điểm đó mà sinh ra những việc, xem qua thì như không quan hệ gì mấy, kỳ thực rất có hại đến kế hoạch chung”28.

Sau Cách mạng Tháng Tám, mặc dù những biểu hiện “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu” chưa phổ biến, nhưng biểu hiện của bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi, đã bị Người chỉ ra và phê phán, như các bệnh: “Ham chuộng hình thức: Việc gì không xét đến cái kết quả thiết thực, cần kíp, chỉ chăm về hình thức bên ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai”29. “Bệnh “hữu danh, vô thực” - Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyên, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch”30. “Bệnh kiêu ngạo - Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”31.

Người cũng đấu tranh với các biểu hiện che giấu khuyết điểm: “Báo cáo thì chậm trễ, làm lấy lệ. Báo cáo dối, giấu cái dở cái xấu, chỉ nêu cái tốt cái hay. Báo cáo bề bộn – chỉ góp báo cáo các ngành, các cấp dưới, rồi cứ nguyên văn chép lại gửi lên, v.v.”32.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm chỉ ra các bệnh có các biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình:

- “Óc quân phiệt quan liêu. Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe. Đối với cấp trên thì xem thường, đối với cấp dưới cậy quyền lấn áp. Đối với quần chúng ra vẻ quan cách làm cho quần chúng sợ hãi. Cái đầu óc “ông tướng, bà tướng” ấy đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân”33.

- “Làm việc lối bàn giấy. Thích làm việc bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác và để chỉ vạch những kế hoạch thi hành chỉ thị, nghị quyết của đoàn thể cho chu đáo… Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được hình tình bên dưới, cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi đến chốn”34.

- “Bệnh mệnh lệnh tỏ ra ở chỗ hay dựa vào chính quyền mà bắt dân làm, ít tuyên truyền giải thích cho dân tự giác, tự động”35.

Người yêu cầu chống các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân: “Phải chống sự mong muốn làm cho được lòng cấp trên còn ở dưới nhân dân thế nào cũng mặc, không thể vì lợi ích của Đảng mà chống nhân dân mà quan liêu, hạ mệnh lệnh”36.

Những biểu hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên… cũng được Người chỉ ra từ rất sớm trong một số cán bộ, đảng viên có những biểu hiện, như: “Họ tưởng rằng cách mạng là cốt để làm cho họ có địa vị, được hưởng thụ. Do đó mà họ mắc những sai lầm: kiêu ngạo, chưng diện, hưởng lạc, lãng phí của công, tự tư tự lợi, không tiết kiệm đồng tiền bát gạo là mồ hôi nước mắt của nhân dân. Họ quên mất tác phong gian khổ phấn đấu, lạt lẽo với công việc cách mạng, xa rời Đảng, xa rời quần chúng. Dần dần, họ mất cả tư cách và đạo đức người cách mạng, sa vào tham ô, hủ bại và biến thành người có tội với Đảng, với Chính phủ, với nhân dân”37.

Người cũng kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với các đối tượng khác để trục lợi. Người chỉ rõ: “Bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém. Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”38.

Ngay từ đầu năm 1947, Hồ Chí Minh đã nêu và kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện thao túng trong công tác cán bộ, mà Người gọi là: “Óc bè phái: Ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe”39 và “Kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất nguy hiểm nữa. Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”40.

“Do ít hiểu biết về tình hình trong nước và ngoài nước, ít nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho nên gặp thuận lợi thì dễ lạc quan, gặp khó khăn thì dễ dao động, bi quan, lập trường cách mạng không vững vàng, thiếu tinh thần độc lập suy nghĩ và chủ động sáng tạo. Do đó mà gặp nhiều khó khăn trong công việc, tác dụng lãnh đạo bị hạn chế”41.

Nguyên nhân của những biểu hiện suy thoái có nhiều, nhưng chủ yếu là do chủ nghĩa cá nhân sinh ra. Theo Hồ Chí Minh “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí. Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”.

 

HỌC TẬP BÁC VỀ CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH

 


Hồ Chí Minh là người cộng sản mẫu mực, luôn thống nhất giữa nói và làm. Người không chỉ nêu ra và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng và rèn luyện những phẩm chất “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, hướng lòng mình đến “chí công vô tư” để phụng sự Tổ quốc và nhân dân mà Người còn chính là hiện thân của những phẩm chất cao quý đó.

CẦN “là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”; “cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được”, bởi “Cần chẳng những có nghĩa hẹp như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai” mà còn “có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần”. Hiểu đúng về Cần nghĩa là luôn chăm chỉ, cố gắng không phải một sớm một chiều mà thường xuyên và liên tục. Hiểu sâu sa hơn thì Cần cũng có nghĩa là làm để nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc lâu dài, để đạt được mục đích đề ra, bởi: “Nếu mỗi người, mỗi ngày làm thêm một tiếng đồng hồ thì: Mỗi tháng sẽ thêm 300 triệu giờ. Mỗi năm thêm lên 3.600 triệu giờ… Cứ tính một giờ làm đáng giá một đồng bạc, thì mỗi năm nước ta đã có thêm được 3.600 triệu đồng. Đưa số tiền đó thêm vào kháng chiến, thì kháng chiến ắt mau thắng lợi, thêm vào kiến quốc, thì kiến quốc ắt mau thành công”[4].

KIỆM “là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” và không phải là bủn xỉn. Trong đó, Cần phải đi đôi với Kiệm “như hai chân của con người”; vì “KIỆM mà không CẦN thì không tăng thêm, không phát triển”. Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm về thời giờ, bởi “của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được”[5]. Vì thế, thời giờ cần tiết kiệm và đó cũng là Cần; “tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người”, cũng giống như “khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm”[6]. Đặc biệt, muốn tiết kiệm tốt thì phải khéo tổ chức, vì “không biết tổ chức thì không biết tiết kiệm” và phải “kiên quyết không xa xỉ”. Từ đó, “một mặt, chúng ta thi đua KIỆM. Một mặt, chúng ta thi đua CẦN” thì cộng lại là “nhân dân sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công”…

LIÊM “là trong sạch, không tham lam” và “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM”[7]. Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM, cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ CẦN, vì “có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”. Tham lam sẽ dẫn đến BẤT LIÊM, cho nên, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. Cũng theo Hồ Chí Minh, “trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”1) và “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì "quan" dù không liêm cũng phải hoá ra LIÊM. Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM’’. Vì, “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”, cho nên “cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”…

CHÍNH “nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc của CHÍNH. Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”[10]. Tiếp đó, Hồ Chí Minh viết tiếp “trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người THIỆN và người ÁC. Trong xã hội, có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc CHÍNH và việc TÀ. Làm việc Chính là người Thiện. Làm việc Tà là người Ác. Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác”…

Để là CHÍNH, mỗi người, ĐỐI VỚI MÌNH, phải “chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điêmmr, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”[12], vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. ĐỐI VỚI NGƯỜI, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”. ĐỐI VỚI VIỆC, “phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to. Cả 20 triệu đồng bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân ta nhất định nhiều hạnh phúc. Ai chẳng muốn cho tự mình thành một

Những điều Người nói, những việc Người làm và tấm gương đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” của Người không chỉ được khẳng định trong thực tiễn mà còn mang ý nghĩa, giá trị đạo đức cao đẹp của thời đại, dù thế giới đã đi qua bao thăng trầm, thay đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những gì Người nói, những việc Người đã làm với tâm hồn thanh cao là biểu hiện sự dung hợp hài hòa những phẩm chất tuyệt vời của một vị lãnh tụ của nhân dân, thuộc về nhân dân trong thời đại mới.