Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2022
NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH, PHÒNG, CHỐNG, LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH XUYÊN TẠC VỀ DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO PHÁ HOẠI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG NƯỚC TA HIỆN NAY
TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN!
Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2022
NHẬN DIỆN ĐÚNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ VẤN ĐỀ NGÔN NGỮ ĐỂ THAM GIA ĐẤU TRANH!
LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 04 THÁNG 9 NĂM 1954!
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC: LUÔN ĐỀ CAO VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ THẦY, CÔ GIÁO
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi thầy
giáo, cô giáo phải là những người chiến sĩ trên mặt trận giáo dục; là “những
người vẻ vang nhất, là những người anh hùng vô danh”. Người luôn có sự tin
tưởng và mong muốn các thế hệ học sinh không ngừng cố gắng học tập, rèn luyện
tốt để mai sau trở thành những người có ích cho Tổ quốc.
Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai
trường tháng 9/1945, Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năn châu hay không, chính là nhờ một phần lớn công học tập của các em”.
Lời dạy của Người đã hiệu triệu, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ hàng triệu thầy
giáo, cô giáovà các em học sinh trên cả nước tích cực thi đua dạy tốt- học tốt;
trở thành chỉ dẫn mang tính chân lý phát triển của Việt Nam từ một nước nông
nghiệp, lạc hậu, bị thực dân, đế quốc đàn áp, bóc lột đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đây chính là một lời khẳng định của Người về vị trí, vai trò to lớn của giáo
dục.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề then chốt
quyết định chất lượng giáo dục là xây dựng đội ngũ những nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục. Bởi vì “nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục, phải
xây dựng đội ngũ những người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo.
Đó là những người yêu nghề, yêu trường, hết lòng thương yêu, chăm sóc, giáo dục
học sinh, không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng “khó khăn thì phải chịu trước
thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ”. Phải thường xuyên tự bồi dưỡng,
nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo; chủ động thích ứng với điều kiện và đối tượng
trong quá trình dạy - học hiện nay. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “người
huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình”.
Người dẫn lại câu nói của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”,
và lời dạy của Lênin: “Học, học nữa, học mãi” để nhấn mạnh rằng người huấn luyện
nào tự cho mình là đã biết đủ rồi thì người đó dốt nhất.
Người luôn nhắc nhở các nhà giáo và
cán bộ quản lý phải thanh liêm, trung thực, biết đặt lợi ích của đất nước, của
nhà trường lên trên lợi ích cá nhân: “Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần
phải góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải có chí khí cao
thượng, phải “tiên ưu hậu lạc” nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ,
sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng” và “Thầy và trò
phải luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường
tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách
mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm
vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”…
Bên cạnh việc nêu lên những điều mà
nhà giáo phải làm cho tốt, Người còn dặn dò các thầy, cô giáo và cán bộ quản lý
không được đánh mất phẩm chất của mình, dù hoàn cảnh nào cũng phải là tấm gương
cho học sinh noi theo, tránh thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống thực
tế, lười biếng trong học tập và nâng cao trình độ; thái độ kèn cựa địa vị, xem
nhẹ công việc của mình, thiếu tinh thần xây dựng tập thể… và quyết tâm: “Dù khó
khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”.
Có thể khẳng định, những quan điểm
sáng tạo, tấm gương về tự học và học tập suốt đời và đổi mới về giáo dục của Hồ
Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục của Đảng và Nhà nước ta trong 35 năm đổi mới và tiếp
tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực
cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao,
tạo bước chuyển mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo
gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài...” và “xây dựng con người
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới có tinh thần yêu nước, ý chí tự cường
dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, phấn đầu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
ĐƯA NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI NGHỊ LẦN THỨ 5 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XIII VÀO CUỘC SỐNG
Sáng ngày 22/7, đã diễn
ra ngày làm việc thứ hai của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XIII.
"Tăng cường củng
cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong
giai đoạn mới" tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính
trị, cầu nối giữa Ðảng với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Xây
dựng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên, lâu dài, liên tục, là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng,
đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Hội nghị Trung ương 5,
nhất là những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, những vấn đề mới, cốt
lõi trong các Nghị quyết, đây là những nội dung rất cơ bản, liên quan mật
thiết, tác động nhiều chiều đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội, đất nước,
đời sống của nhân dân, ổn định chính trị, giữ vững an ninh quốc phòng, xây dựng
Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, trình độ, uy tín lãnh đạo
đất nước.
Bên cạnh đó, công tác
tuyên truyền, học tập, quán triệt Nghị quyết phải được tiến hành thường xuyên,
toàn diện với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, hấp dẫn, trong đó tuyên giáo
đóng vai trò đi trước, nâng cao vai trò của các cơ quan báo chí, sức mạnh của
các tổ chức chính trị xã hội để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ, thông
suốt và tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết. Đồng thời, chú trọng đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, định hướng dư luận xã hội
trong quá trình thực hiện nghị quyết. Hội nghị Trung ương 5 sẽ sớm đi vào cuộc sống,
đạt nhiều kết quả, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ
XIII của Đảng.
Các cấp ủy, tổ chức đảng
tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo, tuyên truyền các nội
dung các nghị quyết Trung ương 5 sâu rộng hơn nữa, lựa chọn những nội dung,
hình thức phù hợp với các đối tượng cán bộ, đảng viên để có hiệu quả, thiết
thực; đưa những quan điểm chỉ đạo của nghị quyết thành hành động cụ thể trong
thực hiện phát triển kinh tế- xã hội...
QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT SỐ 18-NQ/TW
Nghị quyết số 18-NQ/TW
về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở
thành nước phát triển có thu nhập cao", BCH Trung ương đề ra mục tiêu tổng
quát hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ và phù
hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn lực đất đai được quản lý, khai thác, sử dụng bảo đảm tiết kiệm, bền vững,
hiệu quả cao nhất; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá công
bằng và ổn định xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích
ứng với biến đổi khí hậu; tạo động lực để nước ta trở thành nước phát triển có
thu nhập cao. Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng
đất, trở thành kênh phân bổ đất đai hợp lý, công bằng, hiệu quả.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2023 phải hoàn thành
sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và một số luật liên quan, bảo đảm tính đồng bộ,
thống nhất; hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu số và hệ thống thông tin quốc gia
về đất đai tập trung, thống nhất, đồng bộ, đa mục tiêu và kết nối liên thông.
Hoàn thành kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai bảo đảm tinh
gọn, hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất; loại bỏ khâu trung gian, đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền phù hợp, kèm theo cơ chế kiểm tra, giám sát và kiểm soát
quyền lực. Giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc có liên quan đến quản lý
và sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh; đất quốc phòng, an
ninh kết hợp với sản xuất và xây dựng kinh tế; đất của các cơ sở sản xuất, đơn
vị sự nghiệp đã di dời khỏi trung tâm các đô thị lớn; đất lấn biển; đất tôn
giáo; đất nghĩa trang; đất kết hợp sử dụng nhiều mục đích; đất ở, đất sản xuất
cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Đến năm 2030, hệ thống pháp luật về đất đai cơ
bản được hoàn thiện đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khắc phục bằng được tình trạng
sử dụng đất lãng phí, để đất hoang hoá, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại,
vướng mắc về quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại.
QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT SỐ 19-NQ/TW
Nghị quyết số 19-NQ/TW
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, BCH
Trung ương khẳng định nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế.
Phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng
cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, gắn với đẩy mạnh phát triển công
nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch và phát triển thị trường nông sản cả ở
trong nước và ngoài nước; bảo đảm an toàn thực phẩm, an ninh lương thực quốc
gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu
cơ, tuần hoàn.
Chuyển mạnh tư duy từ
sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị
trường. Phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, tổ chức sản xuất kinh doanh
nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi
mới sáng tạo.
Nghị quyết đề ra mục
tiêu tổng quát đến năm 2030, nông dân và cư dân nông thôn có trình độ, đời sống
vật chất và tinh thần ngày càng cao, làm chủ quá trình phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, bảo đảm vững chắc
an ninh lương thực quốc gia, quy mô sản xuất hàng hoá nông sản ngày càng lớn,
bảo đảm môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nông thôn phát
triển toàn diện, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, cơ cấu
kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, môi trường sống an toàn, lành
mạnh, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
được giữ vững; tổ chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững
mạnh.
THỰC HIỆN NGHIÊM 19 ĐIỀU ĐẢNG VIÊN KHÔNG ĐƯỢC LÀM
Điều 1.
Nói, viết, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, quyết định của Đảng; làm
những việc mà pháp luật không cho phép.
Đảng viên không
được:
1. Phát ngôn,
trả lời phỏng vấn, viết bài cho báo chí, trang thông tin điện tử (kể cả bảo chí
nước ngoài), sử dụng không gian mạng để đăng tải, bình luận, chia sẻ thông tin
những nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước
2. Thực hiện
không nghiêm, không đúng, không đầy đủ hoặc không chỉ đạo, triển khai thực hiện
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế,
quyết định, kết luận của Đảng, của tổ chức đảng cấp trên và cấp mình.
3. Làm những
việc pháp luật cấm hoặc pháp luật chưa quy định khi chưa được cơ quan có thẩm
quyền cho phép.
Điều 2.
Không chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; tự ứng cử, nhận
đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm
vụ khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép.
Đảng viên không
được:
1. Không chấp
hành hoặc chấp hành không đúng, không đầy đủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.
2. Tự ứng cử,
nhận đề cử và đề cử người khác vào các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng được Đảng, Nhà
nước giao nhiệm vụ mà theo quy định phải do cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền
giới thiệu.
Điều 3.
Phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
không thực hiện trách nhiệm nêu gương; chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi;
"tư duy nhiệm kỳ", đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng
không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyển quyền, quan liêu, xa
rời quần chúng.
Đảng viên không
được:
1. Phản bác, phủ
nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, chủ
trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận
của Đảng. Phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, hoài nghi, phụ họa theo những
nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, đòi thực hiện "tam quyền phân
lập", "xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng", đòi
"phi chính trị hỏa lực lượng vũ trang"...; giảm sút niềm tin vào mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Không thực
hiện hoặc thực hiện không nghiêm, không đầy đủ trách nhiệm nêu gương theo quy
định của Đảng. Thâu tóm quyền lực, lấy danh nghĩa tập thể để áp đặt, hợp thức
hóa quyết định sai trái của cá nhân. Cơ hội, vụ lợi, đặt lợi ích của cá nhân
lên trên lợi ích của tập thể, Chạy theo mục tiêu trước mắt, trong ngắn hạn để
thu vén lợi ích cho bản thân, gia đình, cho nhóm lợi ích mà bỏ qua những mục
tiêu, lợi ích dài hạn của tập thể, cộng đồng và đất nước.
3. Đoàn kết xuôi
chiều, nể nang, né tránh, ngại va chạm, im lặng, không đấu tranh hoặc phụ họa
theo ý kiến, quan điểm sai trái, lệch lạc; bao che, giấu diếm vị
phạm, khuyết
điểm của bản thân, của người khác hoặc của tổ chức; không bảo vệ nhân tố tích
cực, cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung.
4. Độc đoán, chuyển
quyền, mất dân chủ, không tôn trọng ý kiến của tập thể, Quan liêu, xa rời thực
tế, không sâu sát công việc, không nắm chắc tình hình trong cơ quan, tổ chức,
địa phương, đơn vị. Không gần gũi, tôn trọng, lắng nghe ý kiến góp ý của đồng
nghiệp tại cơ quan, đơn vị và của quần chúng nhân dân; không giữ mối liên hệ
với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú.
HỒ CHÍ MINH – TẤM GƯƠNG LỚN VỀ SỰ NÊU GƯƠNG
Tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh về nêu gương
thể hiện rất phong phú, sinh động, rộng lớn, cụ thể, thống nhất trong mọi suy
nghĩ, hành động, lời nói, việc làm từ nhỏ đến lớn, kết tinh thành những giá trị
tư tưởng, đạo đức, phong cách...
Tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh về nêu gương
thể hiện rất phong phú, sinh động, rộng lớn, cụ thể, thống nhất trong mọi suy
nghĩ, hành động, lời nói, việc làm từ nhỏ đến lớn, kết tinh thành những giá trị
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Những việc lớn liên quan tới vận
mệnh lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh nói là làm, làm bằng được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa
kiệt xuất, bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta!
Người đã đi xa tròn nửa thế kỷ, nhưng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người;
sự nghiệp cao cả và vĩ đại của Người để lại cho Đảng ta, đồng bào ta, dân
tộc ta, nhân dân ta là vô cùng to lớn, quý giá, mãi mãi trường tồn.
Một trong những giá trị tinh thần, sức mạnh vật chất của Chủ
tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong tâm trí và đời sống các thế hệ cán bộ, đảng
viên, nhân dân ta hiện nay và mai sau là tấm gương sáng về sự nêu gương của
Người. Người hy sinh cống hiến trọn cả đời mình cho dân, cho nước, không một
chút lo toan, tính toán riêng tư cho cá nhân mình tới tận lúc Người từ biệt thế
giới này.
Nói đến sự nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đều có
thể nhận thức, học tập ở Người qua những câu chuyện kể về Hồ Chí Minh; qua tìm
hiểu lịch sử và quá trình hoạt động của Người; qua nghiên cứu sâu sắc giá trị
tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người được nâng lên ở tầm cao, chiều sâu tư
tưởng, lý luận, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh. Song tấm gương nêu gương của
Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể khái quát ở những điểm chính sau:
Tấm gương tiền phong gương mẫu, nhận trách
nhiệm về mình bất kể mọi gian khổ, nguy nan
Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành 21 tuổi chứng kiến cảnh dân tộc, những người đồng bào mình bị
bọn thực dân phong kiến áp bức vô cùng tàn bạo, sống quằn quại, đau thương của
kiếp người nô lệ, đã tự đặt trách nhiệm cho mình phải ra đi tìm đường cứu nước,
mang lại “tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc”.
Trong bối cảnh đất nước đắm chìm đau thương trong vòng nô lệ,
với hai bàn tay trắng, người thanh niên ấy tự nhận trách nhiệm về mình, chấp nhận
cuộc dấn thân lao vào vòng xoáy bão dông của chủ nghĩa đế quốc đang hoành hành
thế giới để tìm đường cứu nước, cứu dân.
Một quyết định lịch sử dám chấp nhận muôn vàn thử thách, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành chỉ có một khát khao, một niềm tin sắt đá
rằng dân tộc mình, Tổ quốc mình nhất định phải được sống độc lập, tự do, hạnh
phúc như các dân tộc khác trên thế giới. Có niềm tin, có khát vọng, nhưng
Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã là kết tinh ý chí, khí phách,
phẩm giá, nhân cách, truyền thống của các dân tộc dám đứng lên, tìm đường, dẫn
dắt cả dân tộc tự giải phóng mình.
Suốt hành trình mấy chục năm bôn ba khắp thế giới tìm đường cứu
nước và cả cuộc đời hoạt động lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tấm gương nêu gương
của Hồ Chí Minh đã giúp Người vượt qua muôn vàn thử thách, tù đày, đánh bại
những kẻ thù gian ác, hiểm độc, tàn bạo nhất hành tinh. Thực tế sinh động tấm
gương nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học sâu sắc, bài học đầu tiên
Người dạy cán bộ, đảng viên, nhân dân ta phải chủ động, tự giác, tiên phong,
gương mẫu không ngại khó khăn, gian khổ, dám hy sinh vì sự nghiệp cao cả của dân
tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ, đảng viên phải nêu gương
trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn. Người thường nhắc nhở, “đảng viên đi
trước, làng nước theo sau”. Sự nêu gương đi đầu dám nghĩ, dám làm, dám lao vào
nơi gian khổ để quần chúng nhân dân tin, noi theo là phẩm chất, nhân cách, khí
phách của người cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ,
đảng viên phải gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân, không toan tính, thu vén lợi ích riêng
tư, luôn đặt lợi ích chung của nhân dân, đất nước, dân tộc lên trước hết, trên
hết. Đó là cơ sở, là điểm xuất phát cho nhận thức dám hy sinh phấn đấu, tính
tiền phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên ở bất cứ thời điểm nào.
CHỐNG SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những dấu hiệu
suy thoái về tư tưởng chính trị, trước hết là những biểu hiện phai nhạt lý
tưởng cách mạng. Ngay từ tháng 10/1947, hai năm sau khi giành được chính quyền,
Người đã yêu cầu cán bộ, đảng viên sửa đổi lối làm việc, chỉ rõ phải đấu tranh
với những hiện tượng thờ ơ trước những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái:
“Nghe những lời bình luận không đúng, cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí
nghe những lời phản cách mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao,
ai làm gì cũng mặc kệ”.
Người phê phán những đảng viên dao động,
thiếu lý tưởng cách mạng: “Nếu chỉ có công tác thực tế, mà không có lý tưởng
cách mạng, thì cũng không phải là người đảng viên tốt. Như thế, chỉ là người sự
vụ chủ nghĩa tầm thường”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng
phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học lý luận thì chí khí
kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương
hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”.
Người kiên quyết
chống những nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học
tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ trương, đường
lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Người nói: “Trong Đảng ta hiện nay còn có
nhiều người chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào công tác sự vụ, không nhận thấy sự
quan trọng của lý luận, cho nên còn có hiện tượng xem thường học tập hoặc là
không kiên quyết tìm biện pháp để điều hòa công tác và học tập”. “Có một số
đồng chí không chịu nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của cách mạng Việt Nam. Họ
không hiểu rằng: Chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không
phải là kinh thánh. Vì vậy, họ chỉ học thuộc ít câu của Mác-Lênin, để lòe người
ta. Lại có một số đồng chí khác chỉ bo bo giữ lấy những kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ
không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ
cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng”. Người kiên
quyết chống những biểu hiện không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của
Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác: “Vô kỷ luật, kỷ
luật không nghiêm”.
Trong tự phê bình, phê bình, Người kiên
quyết chỉ ra và đấu tranh với những biểu hiện không dám nhận khuyết điểm; khi
có khuyến điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật: “Thái độ của
một số khá đông cán bộ là: Đối với người khác thì phê bình đứng đắn, nhưng tự
phê bình thì quá “ôn hòa”. Các đồng chí ấy không mạnh dạn công khai tự phê
bình, không vui lòng tiếp thu phê bình-nhất là phê bình từ dưới lên, không kiên
quyết sửa chữa khuyết điểm của mình… Nói tóm lại: Đối với người khác thì các
đồng chí ấy rất “mác xít”, nhưng đối với bản thân mình thì mắc vào chủ nghĩa tự
do”.
Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại
va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh: “Có đồng chí đáng
phải trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang chỉ phê bình, cảnh báo qua loa cho
xong chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho nhau, tha thứ lẫn nhau, lừa dối
cấp trên, giấu giếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật như vậy làm cho các đồng chí
không những không biết sữa lỗi mình mà còn khinh thường kỷ luật. Tai hại hơn
nữa nếu kỷ luật của đoàn thể lỏng lẻo, những phần tử phản động sẽ có cơ
hội chui vào hàng ngũ ta để phá hoại đoàn thể ta”.
Người lấy ví dụ: “Nếu tôi có vết nhọ trên
trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ
mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở
tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người… Thấy cái xấu của
người mà không phê bình là một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để
cho cái xấu của người ta phát triển”. “Nói về từng người, nể nang không phê
bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác
nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê
bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ
thuốc độc cho mình”!
Người cũng chỉ ra nhiều biểu hiện lợi dụng
phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán
người khác với động cơ cá nhân không trong sáng: “Khi phê bình ai, không phải
vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá
nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”. “Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết
điểm, cho nên thái độ của người phê bình phải thành khẩn nghiêm trang, đúng
mực. Phải vạch rõ vì sao có khuyết điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương
pháp gì để sửa chữa. Thuốc phải nhằm đúng bệnh. Tuyệt đối không nên có ý mỉa
mai, bới móc, báo thù. Không nên phê bình lấy lệ. Càng không nên “trước mặt
không nói, xoi mói sau lưng”.
Hồ Chí Minh chỉ ra và kiên quyết đấu tranh
với những biểu hiện nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác: “Lại có
những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói
xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”.
Người phê phán những biểu hiện duy ý chí,
áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý
kiến hợp lý của người khác: “Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng
biết”. “Tự kiêu tức là cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được. Việc gì mình
cũng giỏi hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai”. Người
chỉ ra: “Trong Đảng ta có một số không ít đồng chí mắc bệnh công thần, cho rằng
mình đã tham gia cách mạng lâu năm mà tự kiêu, tự mãn. Hoạt động cách mạng lâu
năm là tốt, nhưng phải khiêm tốn học tập để tiến bộ mãi”.
Kiên quyết chống những biểu hiện tham vọng
chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị
trí công tác, mà Hồ Chí Minh gọi là: “Bệnh hiếu danh - Tự cho mình là anh hùng,
là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi
bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung lay. Nhưng người đó chỉ biết lên
mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng mà không chịu được khổ. Chỉ ham làm
chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không ham công tác thiết thực”.
Người yêu cầu: “Phải khắc phục bệnh cá
nhân chủ nghĩa, bệnh công thần, óc địa vị. Nó đẻ ra nhiều cái xấu như xích
mích, kèn cựa giữa cán bộ và giữa đảng viên, không ai phục ai, không giúp đỡ
nhau, không cộng tác chặt chẽ với nhau. Bệnh cá nhân còn dẫn đến tệ bảo thủ,
quan liêu, tham ô, lãng phí, sợ khó, sợ khổ, thấy khó khăn thì đâm ra tiêu cực,
bi quan”, từ đó dẫn đến những biểu hiện chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc
dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm
chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín
nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh. “Không phục tùng mệnh lệnh, không
tuân theo kỷ luật. Cứ làm theo ý mình”.
Những biểu hiện chỉ tập trung giải quyết
những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình Người gọi là “Bệnh cận
thị - Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà
chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”.
Người đấu
tranh với những biểu hiện tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà
dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí,
sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích và gọi đó là: “Tư túng - Kéo
bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức
nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng
việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai”. Người phê bình
thẳng thắn: “Có những đồng chí còn giữ thói “một người làm nên cả họ được nhờ”,
đem bà con bằng hữu vào chức này việc kia, làm được, không được mặc kệ. Hỏng việc
đã có đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MÌNH VỀ TỰ DIỄN BIẾN
Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn khá nhiều về suy thoái đạo đức, lối sống.
Người thẳng thắn đấu tranh với mọi biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ,
thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích
tập thể; ganh ghét đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình. Người
gọi đó là các căn bệnh: “Óc hẹp hòi - Ở
trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta hơn mình. Ở
ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng
mình. Vì thế mà không biết liên lạc hợp tác với những người có đạo đức tài năng
ở ngoài Đảng. Vì thế mà người ra uất ức và mình thành ra cô độc”23;
và “Bệnh tham lam - Những người mắc phải bệnh
này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà
chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo
đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở
đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn
lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình”24.
“Còn có những đồng chí chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, lo phát tài, lo chiếm của
công làm của tư, đạo đức cách mệnh thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc”25.
Ngay từ đầu năm 1948, khi nhà nước cách mạng còn hết sức non trẻ,
gặp muôn vàn khó khăn, Người đã chỉ ra cần phải đấu tranh với những vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân
chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc
đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành. Hồ Chí Minh yêu cầu:
“Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê
bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp
miệng em” ngăn cản quần chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì
càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”26.
Người kiên quyết chống “Bệnh hẹp hòi”, vì
“Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân,
khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, .v.v.,
đều do bệnh hẹp hòi mà ra!”27. Người giải thích về “Địa phương chủ
nghĩa”, đó là: “chỉ chăm chú lợi ích của địa phương mình mà không nhìn đến lợi
ích của toàn bộ. Làm việc ở bộ phận nào chỉ biết bênh vực vun đắp cho bộ phận
ấy. Do khuyết điểm đó mà sinh ra những việc, xem qua thì như không quan hệ gì
mấy, kỳ thực rất có hại đến kế hoạch chung”28.
Sau Cách mạng Tháng Tám, mặc dù những biểu hiện “chạy thành tích”,
“chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu” chưa phổ biến, nhưng biểu hiện của bệnh
“thành tích”, háo danh, phô trương, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên
tuổi; thích được đề cao, ca ngợi, đã bị Người chỉ ra và phê phán, như các bệnh:
“Ham chuộng hình thức: Việc gì không xét đến cái kết quả thiết thực, cần kíp,
chỉ chăm về hình thức bên ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai”29. “Bệnh “hữu danh, vô thực” - Làm việc không thiết
thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyên,
làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng
xét kỹ lại thì rỗng tuếch”30. “Bệnh kiêu ngạo -
Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình khen ngợi
mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe
khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng,
không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”31.
Người cũng
đấu tranh với các biểu hiện che giấu khuyết điểm: “Báo cáo thì
chậm trễ, làm lấy lệ. Báo cáo dối, giấu cái dở cái xấu, chỉ nêu cái tốt cái
hay. Báo cáo bề bộn – chỉ góp báo cáo các ngành, các cấp dưới, rồi cứ nguyên
văn chép lại gửi lên, v.v.”32.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm chỉ ra các
bệnh có các biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu
kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình:
- “Óc quân phiệt quan liêu. Khi phụ trách ở một vùng nào
thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe. Đối với cấp trên
thì xem thường, đối với cấp dưới cậy quyền lấn áp. Đối với quần chúng ra vẻ
quan cách làm cho quần chúng sợ hãi. Cái đầu óc “ông tướng, bà tướng” ấy đã gây
ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân”33.
- “Làm việc lối bàn giấy. Thích làm việc bằng giấy tờ
thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa phương kiểm tra
công tác và để chỉ vạch những kế hoạch thi hành chỉ thị, nghị quyết của đoàn
thể cho chu đáo… Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng ta không
đi sát phong trào, không hiểu rõ được hình tình bên dưới, cho nên phần nhiều
chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi đến chốn”34.
- “Bệnh mệnh lệnh tỏ ra ở chỗ hay dựa vào chính
quyền mà bắt dân làm, ít tuyên truyền giải thích cho dân tự giác, tự động”35.
Người yêu cầu chống các biểu hiện thờ ơ,
vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng
của nhân dân: “Phải chống sự mong muốn làm cho được lòng cấp trên còn ở dưới
nhân dân thế nào cũng mặc, không thể vì lợi ích của Đảng mà chống nhân dân mà
quan liêu, hạ mệnh lệnh”36.
Những biểu hiện gây lãng phí, thất thoát
tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên… cũng được
Người chỉ ra từ rất sớm trong một số cán bộ, đảng viên có những biểu hiện, như:
“Họ tưởng rằng cách mạng là cốt để làm cho họ có địa vị, được hưởng thụ. Do đó
mà họ mắc những sai lầm: kiêu ngạo, chưng diện, hưởng lạc, lãng phí của công,
tự tư tự lợi, không tiết kiệm đồng tiền bát gạo là mồ hôi nước mắt của nhân
dân. Họ quên mất tác phong gian khổ phấn đấu, lạt lẽo với công việc cách mạng,
xa rời Đảng, xa rời quần chúng. Dần dần, họ mất cả tư cách và đạo đức người
cách mạng, sa vào tham ô, hủ bại và biến thành người có tội với Đảng, với Chính
phủ, với nhân dân”37.
Người cũng
kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu
kết với các đối tượng khác để trục lợi. Người chỉ rõ: “Bên cạnh những đồng chí
tốt ấy, còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém.
Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng
nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà
chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn,
sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị
quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc
đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu,
mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến
bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn
kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp
hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích
của cách mạng, của nhân dân”38.
Ngay từ đầu
năm 1947, Hồ Chí Minh đã nêu và kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện thao
túng trong công tác cán bộ, mà Người gọi là: “Óc bè phái: Ai hẩu với mình thì
dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình thì
dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe”39 và
“Kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất nguy hiểm
nữa. Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là
tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không
hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng là dở, rồi tìm cách
gièm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng.
Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành
được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí.
Nó gây ra những mối nghi ngờ”40.
“Do ít hiểu biết về tình hình trong nước
và ngoài nước, ít nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho nên gặp thuận
lợi thì dễ lạc quan, gặp khó khăn thì dễ dao động, bi quan, lập trường cách
mạng không vững vàng, thiếu tinh thần độc lập suy nghĩ và chủ động sáng tạo. Do
đó mà gặp nhiều khó khăn trong công việc, tác dụng lãnh đạo bị hạn chế”41.
Nguyên nhân của những biểu hiện suy thoái
có nhiều, nhưng chủ yếu là do chủ nghĩa cá nhân sinh ra. Theo Hồ Chí Minh “Chủ
nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ
quan, tham ô, lãng phí. Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những
người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho
cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”.
HỌC TẬP BÁC VỀ CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH
Hồ Chí Minh là người cộng sản mẫu mực, luôn
thống nhất giữa nói và làm. Người không chỉ nêu ra và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng
viên phải xây dựng và rèn luyện những phẩm chất “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, hướng
lòng mình đến “chí công vô tư” để phụng sự Tổ quốc và nhân dân mà Người còn
chính là hiện thân của những phẩm chất cao quý đó.
CẦN “là siêng năng, chăm chỉ,
cố gắng dẻo dai”; “cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được”, bởi
“Cần chẳng những có nghĩa hẹp như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai” mà
còn “có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần”.
Hiểu đúng về Cần nghĩa là luôn chăm chỉ, cố gắng không phải một sớm
một chiều mà thường xuyên và liên tục. Hiểu sâu sa hơn thì Cần cũng
có nghĩa là làm để nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc lâu
dài, để đạt được mục đích đề ra, bởi: “Nếu mỗi người, mỗi ngày làm thêm một
tiếng đồng hồ thì: Mỗi tháng sẽ thêm 300 triệu giờ. Mỗi năm thêm lên 3.600
triệu giờ… Cứ tính một giờ làm đáng giá một đồng bạc, thì mỗi năm nước ta đã có
thêm được 3.600 triệu đồng. Đưa số tiền đó thêm vào kháng chiến, thì kháng
chiến ắt mau thắng lợi, thêm vào kiến quốc, thì kiến quốc ắt mau thành công”[4].
KIỆM “là tiết kiệm, không xa
xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” và không phải là bủn xỉn. Trong đó, Cần
phải đi đôi với Kiệm “như hai chân của con người”; vì “KIỆM mà không CẦN thì
không tăng thêm, không phát triển”. Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết
kiệm về thời giờ, bởi “của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ qua
rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được”[5].
Vì thế, thời giờ cần tiết kiệm và đó cũng là Cần; “tiết kiệm thời giờ của
mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người”, cũng giống như “khi
không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm,
việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu
của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm”[6].
Đặc biệt, muốn tiết kiệm tốt thì phải khéo tổ chức, vì “không biết tổ chức thì
không biết tiết kiệm” và phải “kiên quyết không xa xỉ”. Từ đó, “một mặt,
chúng ta thi đua KIỆM. Một mặt, chúng ta thi đua CẦN” thì cộng lại là “nhân dân
sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công”…
LIÊM “là trong sạch, không
tham lam” và “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống
yên đều là BẤT LIÊM”[7].
Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM, cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ CẦN,
vì “có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”. Tham lam sẽ dẫn đến
BẤT LIÊM, cho nên, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM
trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. Cũng theo Hồ Chí Minh, “trước nhất là cán bộ
các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to
hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có
dịp “dĩ công vi tư”1) và “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không
chịu đút lót, thì "quan" dù không liêm cũng phải hoá ra LIÊM. Vì vậy
dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ
thực hiện chữ LIÊM’’. Vì, “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất
liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”, cho nên “cán bộ thi đua
thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân
tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh
thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”…
CHÍNH “nghĩa là không tà, nghĩa
là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. “CẦN,
KIỆM, LIÊM, là gốc của CHÍNH. Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có
nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn
phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”[10].
Tiếp đó, Hồ Chí Minh viết tiếp “trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số
người ấy có thể chia làm hai hạng: người THIỆN và người ÁC. Trong xã hội, có
trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc
CHÍNH và việc TÀ. Làm việc Chính là người Thiện. Làm việc Tà là người Ác. Siêng
năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN. Lười biếng, xa
xỉ, tham lam là tà, là ác”…
Để là CHÍNH, mỗi người, ĐỐI VỚI MÌNH, phải
“chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điêmmr, tự phê
bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của
mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê
bình mình”[12],
vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính.
Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. ĐỐI VỚI NGƯỜI, “phải
yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người
dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học
người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”. ĐỐI VỚI VIỆC, “phải
để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì,
thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ
nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm.
Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét
nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không
làm. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình),
dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi
to. Cả 20 triệu đồng bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân
ta nhất định nhiều hạnh phúc. Ai chẳng muốn cho tự mình thành một
Những điều Người nói, những việc Người làm và
tấm gương đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” của Người
không chỉ được khẳng định trong thực tiễn mà còn mang ý nghĩa, giá trị đạo đức
cao đẹp của thời đại, dù thế giới đã đi qua bao thăng trầm, thay đổi. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những gì Người nói, những việc Người đã làm với tâm
hồn thanh cao là biểu hiện sự dung hợp hài hòa những phẩm chất tuyệt vời của
một vị lãnh tụ của nhân dân, thuộc về nhân dân trong thời đại mới.