Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những dấu hiệu
suy thoái về tư tưởng chính trị, trước hết là những biểu hiện phai nhạt lý
tưởng cách mạng. Ngay từ tháng 10/1947, hai năm sau khi giành được chính quyền,
Người đã yêu cầu cán bộ, đảng viên sửa đổi lối làm việc, chỉ rõ phải đấu tranh
với những hiện tượng thờ ơ trước những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái:
“Nghe những lời bình luận không đúng, cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí
nghe những lời phản cách mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao,
ai làm gì cũng mặc kệ”.
Người phê phán những đảng viên dao động,
thiếu lý tưởng cách mạng: “Nếu chỉ có công tác thực tế, mà không có lý tưởng
cách mạng, thì cũng không phải là người đảng viên tốt. Như thế, chỉ là người sự
vụ chủ nghĩa tầm thường”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng
phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học lý luận thì chí khí
kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương
hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”.
Người kiên quyết
chống những nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học
tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ trương, đường
lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Người nói: “Trong Đảng ta hiện nay còn có
nhiều người chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào công tác sự vụ, không nhận thấy sự
quan trọng của lý luận, cho nên còn có hiện tượng xem thường học tập hoặc là
không kiên quyết tìm biện pháp để điều hòa công tác và học tập”. “Có một số
đồng chí không chịu nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của cách mạng Việt Nam. Họ
không hiểu rằng: Chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không
phải là kinh thánh. Vì vậy, họ chỉ học thuộc ít câu của Mác-Lênin, để lòe người
ta. Lại có một số đồng chí khác chỉ bo bo giữ lấy những kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ
không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ
cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng”. Người kiên
quyết chống những biểu hiện không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của
Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác: “Vô kỷ luật, kỷ
luật không nghiêm”.
Trong tự phê bình, phê bình, Người kiên
quyết chỉ ra và đấu tranh với những biểu hiện không dám nhận khuyết điểm; khi
có khuyến điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật: “Thái độ của
một số khá đông cán bộ là: Đối với người khác thì phê bình đứng đắn, nhưng tự
phê bình thì quá “ôn hòa”. Các đồng chí ấy không mạnh dạn công khai tự phê
bình, không vui lòng tiếp thu phê bình-nhất là phê bình từ dưới lên, không kiên
quyết sửa chữa khuyết điểm của mình… Nói tóm lại: Đối với người khác thì các
đồng chí ấy rất “mác xít”, nhưng đối với bản thân mình thì mắc vào chủ nghĩa tự
do”.
Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại
va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh: “Có đồng chí đáng
phải trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang chỉ phê bình, cảnh báo qua loa cho
xong chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho nhau, tha thứ lẫn nhau, lừa dối
cấp trên, giấu giếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật như vậy làm cho các đồng chí
không những không biết sữa lỗi mình mà còn khinh thường kỷ luật. Tai hại hơn
nữa nếu kỷ luật của đoàn thể lỏng lẻo, những phần tử phản động sẽ có cơ
hội chui vào hàng ngũ ta để phá hoại đoàn thể ta”.
Người lấy ví dụ: “Nếu tôi có vết nhọ trên
trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ
mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở
tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người… Thấy cái xấu của
người mà không phê bình là một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để
cho cái xấu của người ta phát triển”. “Nói về từng người, nể nang không phê
bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác
nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê
bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ
thuốc độc cho mình”!
Người cũng chỉ ra nhiều biểu hiện lợi dụng
phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán
người khác với động cơ cá nhân không trong sáng: “Khi phê bình ai, không phải
vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá
nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”. “Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết
điểm, cho nên thái độ của người phê bình phải thành khẩn nghiêm trang, đúng
mực. Phải vạch rõ vì sao có khuyết điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương
pháp gì để sửa chữa. Thuốc phải nhằm đúng bệnh. Tuyệt đối không nên có ý mỉa
mai, bới móc, báo thù. Không nên phê bình lấy lệ. Càng không nên “trước mặt
không nói, xoi mói sau lưng”.
Hồ Chí Minh chỉ ra và kiên quyết đấu tranh
với những biểu hiện nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác: “Lại có
những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói
xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”.
Người phê phán những biểu hiện duy ý chí,
áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý
kiến hợp lý của người khác: “Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng
biết”. “Tự kiêu tức là cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được. Việc gì mình
cũng giỏi hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai”. Người
chỉ ra: “Trong Đảng ta có một số không ít đồng chí mắc bệnh công thần, cho rằng
mình đã tham gia cách mạng lâu năm mà tự kiêu, tự mãn. Hoạt động cách mạng lâu
năm là tốt, nhưng phải khiêm tốn học tập để tiến bộ mãi”.
Kiên quyết chống những biểu hiện tham vọng
chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị
trí công tác, mà Hồ Chí Minh gọi là: “Bệnh hiếu danh - Tự cho mình là anh hùng,
là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi
bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung lay. Nhưng người đó chỉ biết lên
mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng mà không chịu được khổ. Chỉ ham làm
chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không ham công tác thiết thực”.
Người yêu cầu: “Phải khắc phục bệnh cá
nhân chủ nghĩa, bệnh công thần, óc địa vị. Nó đẻ ra nhiều cái xấu như xích
mích, kèn cựa giữa cán bộ và giữa đảng viên, không ai phục ai, không giúp đỡ
nhau, không cộng tác chặt chẽ với nhau. Bệnh cá nhân còn dẫn đến tệ bảo thủ,
quan liêu, tham ô, lãng phí, sợ khó, sợ khổ, thấy khó khăn thì đâm ra tiêu cực,
bi quan”, từ đó dẫn đến những biểu hiện chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc
dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm
chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín
nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh. “Không phục tùng mệnh lệnh, không
tuân theo kỷ luật. Cứ làm theo ý mình”.
Những biểu hiện chỉ tập trung giải quyết
những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình Người gọi là “Bệnh cận
thị - Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà
chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”.
Người đấu
tranh với những biểu hiện tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà
dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí,
sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích và gọi đó là: “Tư túng - Kéo
bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức
nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng
việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai”. Người phê bình
thẳng thắn: “Có những đồng chí còn giữ thói “một người làm nên cả họ được nhờ”,
đem bà con bằng hữu vào chức này việc kia, làm được, không được mặc kệ. Hỏng việc
đã có đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét