Thứ Hai, 1 tháng 1, 2024

Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 - Chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp bị thất bại.

 Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông năm 1947 (từ 7-10-1947 đến 22-12-1947) là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện tại Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương, nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của Việt Minh, lập ngụy quyền toàn quốc và đặt ách thống trị thực dân trên toàn bộ nước Việt Nam, đồng thời khóa chặt biên giới Việt – Trung, ngăn chặn đường liên lạc giữa Việt Nam và quốc tế.

Ngày 10 tháng 9 năm 1947 khi đã có hơn 12 vạn quân viễn chinh, cao ủy Pháp Bô-la (Bollaert) tuyên bố không công nhận nước Việt Nam độc lập và đưa ra những quy định nhằm thiết lập lại chế độ thực dân kiểu cũ của Pháp ở Đông dương.

Ngày 15 tháng 9 năm 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Sửa soạn phá những cuộc tấn công lớn của địch” nhằm phá vỡ những mưu đồ của bọn thực dân. Ngày 17 tháng 9 năm 1947, Hội nghị quân sự lần thứ tư và sau mười ngày tiếp đó là Hội nghị quân sự lần thứ năm được triệu tập để thống nhất nhận định về âm mưu và hướng tiến công sắp tới của giặc Pháp, đề ra chủ trương tác chiến trong thu đông. Khắp nơi nổi lên khẩu hiệu: “Đập tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Quân và dân cả nước tích cực chuẩn bị phá cuộc tiến công mùa đông của địch.

Bộ đội tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông năm 1947

Phía Pháp do tướng Salăng vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến , tiêu diệt quân chủ lực của ta, phá hoại kho tàng, xưởng máy, bao vây và khóa chặt biên giới, cố giành thắng lợi về quân sự để tập hợp lực lượng phản động lập chính phủ bù nhìn tay sai và hy vọng kết thúc chiến tranh. Theo kế hoạch ngày 7 tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp huy động lực lượng mở cuộc hành quân lên Việt Bắc mang mật danh LEA và CLO, chia làm 3 cánh quân tiến lên Việt Bắc. Binh đoàn đường không của Xô-va-nhắc (Sauvagnac) chỉ huy, nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn. Đồng thời binh đoàn bộ binh của Bô-phơ-rê (Beaufré) chỉ huy, từ Lạng Sơn lên Cao Bằng rồi vòng về Bắc Cạn bao vây Việt Bắc ở phía đông và phía bắc. Binh đoàn hỗn hợp của Com-muy-nan (Commuanal) chỉ huy từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên Tuyên Quang đến Chiêm Hóa để đánh vào Đài Thị.

Phía quân đội Việt Nam, ngày 8 tháng 10 năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi, bộ đội, quân dân du kích và toàn thể đồng bào ra sức tiêu diệt địch. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 10 năm 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “phải phá cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Nghiên cứu thế lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ tổng chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên 3 mặt trận: “Đánh mạnh ở mặt trận Sông Lô; đường số 4 và đường số 3 nhằm phá vận tải tiếp tế địch, phục kích các đường rừng, đánh đường sông; tại những căn cứ của địch luôn quấy rối, với những vị trí nhỏ thì bao vây tiêu diệt để phối hợp với Việt Bắc”. Quân đội ta sử dụng các trung đoàn 147, 165 (chủ lực Bộ); 72, 74, 121 (Khu 1); 11, 36; 59; 98 (Khu 12); 1 tiếu đoàn pháo binh và Trung đoàn Sông Lô (Khu 10); 5 tiểu đoàn độc lập của Bộ, Khu 1 và Khu 12, các đơn vị binh chủng và du kích trên địa bàn chiến dịch. Chiến khu do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, Đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Chiến dịch tấn công của quân Pháp bắt đầu thì chiến dịch phản công của quân đội ta tại Việt Bắc cũng bắt đầu.

Các chiến sĩ pháo binh Trung đoàn sông Lô trong chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông năm 1947

Ngay từ những ngày đầu Trung đoàn Vệ quốc quân tại Cao Bằng bắn rơi máy bay chỉ huy của quân Pháp, đại tá Lăm-be (Lambert) phó tổng tham mưu quân viễn chinh Pháp cùng các cơ quan tham mưu chiến dịch của Pháp bị chết trong máy bay.

Ở mặt trận Sông Lô – Chiêm Hóa, địch vừ đổ bộ lên bến Bình Ca bị quân đội ta bắn chìm một pháo thuyền địch, tiếp đó diệt hơn một tiểu đội giặc lập chiến công đầu tiên trên sông Lô. Những trận đánh địa lôi, phục kích, bắn tỉa của quân đội ta làm cho quân đội Pháp không thể tiến theo các đường thủy, đường bộ, buộc chúng phải tiếp viện quân nhảy dù xuống Chiêm Hóa. Đoàn pháo binh cùng các binh đoàn chủ lực bắn chìm một số tàu chiến và ca nô của quân Pháp tại Đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau. Đường tiếp viện của quân Pháp từ Hà Nội lên bị cắt đứt.

Xác chiếc tàu L.C.T của quân đội Pháp bị pháo binh ta bắn đắm trên sông Lô Việt trong chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông năm 1947.

Ở mặt trận đường số 4, các đại đội độc lập và quân dân du kích Cao Bằng, Lạng Sơn phục kích, bắn tỉa trên đường địch hành quân, tiến công tiêu diệt địch tại Đông Khê, Thất Khê. Tiểu đoàn tập trung Lạng Sơn lợi dụng địa hình đánh trận phục kích xuất sắc, diệt 33 xe cơ giới gần 300 tên địch tại Bông Lau, thu toàn bộ vũ khí. Đường số 4 thành “con đường máu” của thực dân Pháp.

Ở mặt trận đường số 3, tự vệ quân giới phối hợp với dân quân dân tộc ít người đánh quân Pháp đi lẻ. Các tiểu đoàn tập trung thuộc Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Chiến khu 1, tập kích, đánh địa lôi hàng trăm lính Pháp bị tiêu diệt trong công sự, cắt đứt đường tiếp viện của quân Pháp từ Cao Bằng xuống Bắc Cạn.

Các binh đoàn lớn của thực dân Pháp càng đi sâu vào căn cứ Việt Bắc càng bị chia cắt và hao mòn lực lượng. Binh đoàn Com-muy-nan mất sức chiến đấu phải rút lui. Gọng kìm sông Lô bị bẻ gãy. Binh đoàn đổ bộ đường không Sô-va-nhắc bị bao vây cô lập giữa rừng sâu. Binh đoàn Bô-phơ-rê đến Bắc Cạn thì hết khả năng chiến đấu vì bị tiêu hao lực lượng.

Tượng đài Chiến thắng sông Lô (Đoan Hùng, Phú Thọ)

Trong cuộc tiến công của quân Pháp lên Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, quân đội ta đã bắn rơi 16 chiếc máy bay, bắn chím 11 tàu chiến và ca nô, phá hủy 100 khẩu pháo, thu được hàng nghìn súng, hàng trăm xe quân sự và rất nhiều quân trang, quân dụng, ngoài 270 quân lính ra hàng và hơn 3000 quân lính bị thương, trên 3000 quân lính đã bỏ xác trên các ngả đường rừng và các dòng sông.

Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947, làm phá tan kế hoạch “tấn công chớp nhoáng” để kết thúc chiến tranh của Pháp. Một lần nữa chứng minh đường lối và sự chỉ đạo kháng chiến của Đảng là đúng đắn, đánh dấu bước trưởng thành mới của quân đội ta, đưa kháng chiến dân tộc sang một giai đoạn mới, giai đoạn chiến lược phòng ngự sang giai đoạn chiến lược cầm cự.

Huệ- Chính (tổng hợp)

Nhiều hoạt động kỷ niệm 79 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam

 

Ngày 19/12, nhiều hoạt động gặp mặt ôn lại truyền thống, viếng nghĩa trang, thắp hương tưởng nhớ anh hùng liệt sỹ nhân kỷ niệm 79 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2023) và 34 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 – 22/12/2023) đã diễn ra tại Tây Ninh.

Tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh, Thiếu tướng Võ Văn Thi, Phó Tư lệnh Quân khu 7 cùng lãnh đạo, nguyên lãnh đạo tỉnh Tây Ninh, các lực lượng vũ trang qua các thời kỳ và cán bộ lão thành cách mạng thuộc lực lượng vũ trang đã đến dự chương trình gặp mặt kỷ niệm 79 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 34 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân.

Đây là dịp gặp gỡ, thăm hỏi, trao đổi, động viên giữa các thế hệ cán bộ đang công tác với cán bộ Quân đội nghỉ hưu trên địa bàn tỉnh, để ôn lại truyền thống 79 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, lực lượng vũ trang Quân khu và lực lượng vũ trang tỉnh Tây Ninh nói riêng. Qua đó tiếp tục giáo dục nâng cao lòng tự hào về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc, truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Tại buổi lễ, Đại tá Nguyễn Thanh Phong, Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh đã phát biểu, ôn lại truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đại tá Nguyễn Thanh Phong nhấn mạnh, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh 30/4/1975, quân đội ta đã cùng toàn dân đánh bại các chiến lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai. Thắng lợi của quân và dân ta là một trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thế kỷ XX.

Theo Đại tá Nguyễn Thanh Phong, trong giai đoạn cách mạng mới, quân đội tiếp tục quán triệt thực hiện 3 chức năng là Đội quân chiến đấu, Đội quân công tác và Đội quân sản xuất; tích cực tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh. Đặc biệt, quân đội đã cùng toàn dân đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.

Đồng thời, quân đội cũng tham mưu với Đảng và Nhà nước đề ra nhiều đối sách phù hợp, xử lý linh hoạt, đúng đắn các tình huống phức tạp; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm ổn định chính trị-xã hội; duy trì và thực hiện tốt sẵn sàng chiến đấu; kiên quyết đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch. Trong thực hiện nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, đã đạt được những thành tựu mới trên tất cả các lĩnh vực; tham gia xây dựng hệ thống chính trị; tăng cường quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế-xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn.

Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh cũng nhấn mạnh, qua 79 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, quân đội ta đã vun đắp nên truyền thống: Trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng; gắn bó máu thịt với nhân dân, quân với dân một ý chí; đoàn kết nội bộ, cán bộ, chiến sỹ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng thống nhất ý chí và hành động; kỷ luật tự giác, nghiêm minh; độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng quân đội, xây dựng đất nước. Lối sống trong sạch, lành mạnh, có văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan; luôn luôn nêu cao tinh thần ham học, cầu tiến bộ, nhạy cảm, tinh tế trong cuộc sống; đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình.

Theo Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh, năm 2023, lực lượng vũ trang tỉnh đã làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác quốc phòng địa phương, đạt 100% các chỉ tiêu pháp lệnh và hoàn thành 33/36 chỉ tiêu mà nghị quyết Đảng ủy Quân sự tỉnh đề ra. Trong đó có 14 chỉ tiêu hoàn thành xuất sắc tiêu biểu.

Ngoài ra, có 155 tập thể và 229 cá nhân có thành tích tiêu biểu trên các lĩnh vực được nhận khen thưởng cấp Quân khu, cấp Bộ Quốc phòng và UBND tỉnh. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh cũng đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng 3 trong thực hiện nhiệm vụ quy tập hài cốt liệt sĩ mùa khô giai đoạn 2013 - 2020.

Theo Đại tá Nguyễn Thanh Phong, kết quả đạt được đã hun đúc, bồi đắp thêm truyền thống “Trung dũng kiên cường - năng động sáng tạo - đoàn kết quyết thắng” của lực lượng vũ trang tỉnh, góp phần rất lớn bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện cho địa phương phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp và thắp sáng, bền chặt hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân.

Sáng 19/12, tỉnh Tây Ninh cũng tổ chức lễ viếng tại Nghĩa trang liệt sỹ Đồi 82, huyện Tân Biên - nơi yên nghỉ của hơn 14.880 liệt sỹ.

Tại Lễ viếng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Tây Ninh Nguyễn Thành Tâm gióng 3 hồi chuông. Đồng thời, Đoàn lãnh đạo tỉnh Tây Ninh và nguyên lãnh đạo tỉnh qua các thời kỳ đã dâng hoa, thắp hương tưởng nhớ những anh hùng liệt sỹ đã anh dũng hy sinh vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

79 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam: Cảm tử để hòa bình

ần cất cánh, những phi công của Đại đội 5 bay đêm đều xác định là chuyến bay cảm tử. Từ các sân bay dã chiến ở Thanh Hóa, Nghệ An và Quảng Bình… những chiếc tiêm kích phản lực MiG-21 vút lên bầu trời đêm truy lùng “pháo đài bay” B-52.

Những chuyến bay cảm tử

Trước khi thành lập Đại đội 5 hay còn gọi Phi đội 5 bay đêm, Bộ tư lệnh Phòng không - Không quân tuyển chọn phi công rất kỹ lưỡng. Bay đêm, mắt phi công phải tinh hơn, thần kinh tốt hơn. Như lời của Đại tá Hoàng Biểu, “Phi công bay đêm phải nhỉnh hơn phi công bay ngày thì mới hoàn thành được nhiệm vụ”.

Đại tá phi công Hoàng Biểu (bên trái) và Đại tá phi công Vũ Đình Rạng - hai trong số ít các cựu phi công bay đêm trên tiêm kích MiG-21 của Sư đoàn Không quân 371 tham gia không chiến với máy bay Mỹ trong chiến tranh. Ảnh: Nguyễn Minh.

Đến tháng 8/1970, 3 phi công Hoàng Biểu, Đinh Tôn, Vũ Đình Rạng và một số phi công khác đã tham gia vào đoàn nghiên cứu cách đánh B-52 trên vùng trời thuộc địa bàn Khu 4. Sau nhiều ngày nghiên cứu, bộ đội không quân tìm ra cách đánh và xây dựng phương án bay.

Chiến công bay đêm 20/11/1971 của phi công Vũ Đình Rạng chỉ được công nhận sau hàng chục năm. Năm 2018, trong cuộc giao lưu giữa các cựu phi công Việt Nam và Mỹ, phi công thoát chết trong trận không kích David Robert Volker thừa nhận chiếc B-52 do ông điều khiển đã trúng tên lửa và bị thương bởi MiG-21. Việc B-52 vốn được người Mỹ cho là “bất khả xâm phạm” đã bị phi công bay đêm Việt Nam tiếp cận và bắn trúng. Trận đánh khẳng định: Không quân ta có thể tiêu diệt được “pháo đài bay” B-52 của Mỹ.

“Mỹ có 2 lực lượng đánh vào đường Hồ Chí Minh, con đường chiến lược vận tải chi viện cho tiền tuyến miền Nam và chủ yếu đánh vào ban đêm. Họ dùng B-52 và máy bay vận tải quân sự C-130 tác chiến, khi phát hiện cung đường vận tải của ta, họ sẽ dùng bom, đạn đánh phá ác liệt, gây thiệt hại lớn cho lực lượng vận tải của Đoàn 559 Trường Sơn. Mục tiêu của MiG-21 bay đêm là phải đánh được hai loại máy bay đó để giảm sự đánh phá, bảo vệ tuyến huyết mạch này”, ông Rạng nói.

Ông Rạng cho biết thêm, mỗi lần phi công bay đêm xuất kích lên vùng trời Khu 4, Quân đội Mỹ ngay lập tức có thông báo: “MiG ở cổ chai”. Lúc này, B-52 từ Thái Lan bay qua Lào vào Việt Nam đánh phá tuyến đường Hồ Chí Minh đều quay đầu để tránh chạm trán với MiG-21 của ta. Để xua đuổi B-52 và C-130 đánh phá khu vực này, các phi công bay đêm xuất kích với tinh thần cảm tử “không quan tâm đến việc hạ cánh”.

Nhớ lại một trong những lần xuất kích cảm tử, Đại tá Hoàng Biểu kể: Đêm 30/3/1972, khi quân ta mở mặt trận Quảng Trị, ông cất cánh từ sân bay Vinh, nhằm gây thanh thế khiến B-52 của Mỹ dạt ra ngoài, không đánh bom vào các vị trí của bộ binh ta tập kết quân chuẩn bị mở chiến dịch. Đến khi bay về, do thời tiết xấu, nhiều lần xuyên mây xuống nhưng không thấy đường băng, ông đành phải nhảy dù.

Dũng cảm lập công

Ở chiến trường Khu 4, thời tiết bất thường, rađa bắt tín hiệu chập chờn. Nếu sử dụng radio thì địch nghe thấy, B-52 sẽ không vào nữa. Muốn giữ được bí mật, phi công bay đêm bay theo phương án đã đặt ra, không liên lạc với chỉ huy. Lúc cất cánh phải “im hơi, lặng tiếng”, tắt liên lạc. Bay đêm, nếu bay thấp sẽ có nguy cơ đâm vào núi, bay cao thì rađa Hạm đội 7 của Mỹ phát hiện phóng tên lửa vào MiG-21. Bởi thế, không quân ta vạch ra phương án bay tỉ mỉ cho từng địa điểm, thời gian, độ cao, tốc độ… cụ thể.

Đêm 20/11/1971, một chiếc B-52 của Mỹ đã bị tiêm kích MiG-21 do phi công Vũ Đình Rạng điều khiển cất cánh từ sân bay Anh Sơn bắn bị thương. Ông Rạng kể: Khoảng 19 giờ 40 phút, khi thấy có tín hiệu của B-52, Sở chỉ huy lệnh cho phi công Hoàng Biểu ở sân bay Vinh cất cánh lên đánh chặn, nhưng bị địch phát hiện không cho B-52 vào nữa. Lúc gần hết nhiên liệu, máy bay của ông Biểu phải quay ra Nội Bài hạ cánh. Sau 30 phút, lại xuất hiện B52, Sở chỉ huy lệnh cho ông Rạng cất cánh.

“Như thường lệ, lực lượng không quân mỗi đêm chỉ trực một chiếc. Nhưng đêm 20/11, ta cho trực 2 chiếc MiG-21, một chiếc ở sân bay Vinh, một chiếc ở sân bay Anh Sơn. Khi máy bay của anh Hoàng Biểu về hạ cánh thì tôi được lệnh bay lên đánh địch”, ông Rạng nói

Đêm đó, phi công Vũ Đình Rạng cất cánh, đi theo phương án đã định sẵn, không có chỉ huy liên lạc. Vào đến vùng trời Hà Tĩnh, Sở chỉ huy phát hiện B-52 cách máy bay của ta 70km và ra lệnh vứt thùng dầu phụ rồi tăng lực, tăng độ cao.

Khi cách mục tiêu 15km, sở chỉ huy cho bật rađa, lúc đó trên màn hình xuất hiện 3 chiếc B-52, ông cho máy bay lên độ cao 10km, tốc độ 1.300 đến 1.400km/giờ, ổn định đường ngắm, rồi tiếp cận mục tiêu ở khoảng cách 2km, bấm nút phóng quả tên lửa tầm nhiệt và kéo máy bay sang một bên. Nhìn sang bên phải, tiếp tục thấy một chiếc B-52 khác, ông phóng quả tên lửa thứ 2 vào mục tiêu và quay về hạ cánh an toàn. Lúc hạ cánh xong, tắt hết đèn đường băng và các thiết bị, mở buồng lái ra thấy tiêm kích F4 đuổi theo, tiếng động cơ ù ù trên đầu…

Cuối năm 1972, trước khả năng Mỹ sẽ dùng B-52 đánh phá miền Bắc, Quân chủng Phòng không - Không quân đã khẩn trương tổ chức huấn luyện bay đêm bổ sung cho Phi đội 5. Gần 10 phi công bay giỏi, kỹ thuật tốt, bản lĩnh vững vàng được lựa chọn để tập luyện cất cánh với tên lửa bổ trợ, bay đánh chặn B-52 bằng rađa, kết hợp bằng mắt.

Đại tá Bùi Doãn Độ cho hay, trong Chiến dịch 12 ngày đêm “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” là ký ức không thể nào quên đối với ông. Vì lúc ấy, ông chỉ mới 22 tuổi, là người trẻ nhất trong phi đội được lệnh xuất phát trên chiếc MiG-21, đồng thời là người bắn rơi chiếc máy bay F-4 cuối cùng của Mỹ trên bầu trời miền Bắc.

Khi đó, ông Độ cùng đồng đội trực chiến ở sân bay dã chiến trên Miếu Môn. Do địch đánh phá dữ dội nên Phi đội 5 phải di chuyển về sân bay Hòa Lạc, rồi sau đó lại đi sân bay Kép (Bắc Giang) để trực chiến. 23 giờ ngày 29/12/1972, sau một vòng “săn” B-52 không được, ông quay về thì được Sở chỉ huy thông báo có địch. Ngay khi phát hiện tốp F-4 đang bắn phá trận địa của ta, ông liền tăng tốc đuổi theo và phóng tên lửa trúng đích.

Một số giải pháp sau bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch trên không gian mạng

 


Một là, chú trọng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để nhìn nhận và có trách nhiệm, ý thức trước mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, các dấu hiệu “tự diễn biến, tự chuyển hóa. Đây là một giải pháp rất quan trọng, thường xuyên, cơ bản, lâu dài để mỗi cán bộ, đảng viên dù công tác ở cương vị nào cũng nêu cao trách nhiệm và nâng cao cảnh giác, bảo đảm “giữ vững bên trong là chính”.

Hai là, tổ chức tuyên truyền bằng nhiều nội dung, hình thức, trong đó tập trung tuyên truyền về âm mưu, phương thức, thủ đoạn đưa thông tin xấu độc, giả mạo trên không gian mạng của các loại đối tượng làm chuyển biến nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân để mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân khi tham gia, tương tác, chia sẻ bình luận, hưởng ứng, bài viết trên các trang mạng xã hội có trách nhiệm trước bản thân, trước pháp luật. 

Ba là, tiếp tục triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 16/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng, Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 17/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đảm bảo an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới và Thông báo số 17/TB-VPTW ngày 23/8/2016 của Thường trực Ban Bí thư về biện pháp cấp bách bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng; nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai thật tốt Nghị quyết này, xem đây là sự định hướng chiến lược quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. 

Bốn là, thường xuyên cập nhật thông tin, phát huy tích cực vai trò của các cơ quan báo chí, xuất bản. Chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet trong nước xây dựng phương án phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các trang mạng phản động./. 

V3.

 

Phòng ngừa, ngăn chặn từ sớm, từ xa

 


Báo cáo chính trị Đại hội XII, trong phần phương hướng nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, Đảng ta xác định: “Chủ động phòng ngừa phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta bổ sung, nhấn mạnh: “Phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”.

Như vậy, những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đối với cán bộ giữ trọng trách trong Đảng và hệ thống chính trị của đất nước, chính là một trong những yếu tố bất lợi, yếu tố gây nguy cơ đột biến ngay từ bên trong. Đây cũng chính là cái cớ để các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc, kích động, chống phá, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong các bài viết, bài phát biểu liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần đề cập, nhấn mạnh việc chấn hưng đạo đức, văn hóa trong Đảng. Tổng Bí thư cho rằng, bên cạnh “pháp trị” phải coi trọng “đức trị”; bên cạnh “pháp lý” phải đề cao “đạo lý”... “Đức trị”, “đạo lý” là cái gốc, là nền tảng để thực hiện hiệu quả “pháp lý”, “pháp trị”... Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, công tác kiểm tra phải chủ động đi trước một bước. Phải kiểm tra thường xuyên kết hợp với kiểm tra khi đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm.

Để “vũ trang” cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận... trên cơ sở Điều lệ Đảng, gắn với đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động. Đó là cơ sở, nền tảng để chấn hưng đạo đức, văn hóa trong Đảng. Muốn phòng ngừa, ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị từ sớm, từ xa, cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức đảng phải lấy yếu tố văn hóa Đảng làm trọng, đặt đạo đức của Đảng lên hàng đầu.

Sinh thời, Bác Hồ dạy: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” là vì thế. Khi cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ trì các cấp có đầy đủ văn hóa, đạo đức của Đảng, sẽ có nguồn lực nội sinh đẩy lùi, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn suy thoái từ sớm, từ xa.../.

          V3.

Thống nhất nhận thức, không suy diễn cực đoan

 


Trước việc nhiều cán bộ chủ chốt của một số bộ, ngành, địa phương bị xử lý kỷ luật, bắt tạm giam, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bộc lộ tâm lý cực đoan, sợ sai, sợ trách nhiệm, nảy sinh tư tưởng “mũ ni che tai”, “dĩ hòa vi quý”... Một số người bày tỏ thái độ bi quan, cho rằng, cán bộ bây giờ làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, muốn không sai thì tốt nhất là không làm... Dù chỉ là cá biệt, song những biểu hiện tư tưởng cực đoan ấy cần phải được chấn chỉnh, loại bỏ ngay. Bởi suy diễn tiêu cực, sai đường lối, chủ trương của Đảng cũng chính là một biểu hiện của suy thoái.

Cần thấy rằng, việc xử lý những cán bộ vi phạm là nỗ lực làm trong sạch nội bộ Đảng, làm cho Đảng mạnh hơn, ngày càng xứng đáng với niềm tin và mong đợi của nhân dân. Đấu tranh chống tiêu cực trong Đảng là một cuộc đấu tranh cam go, phức tạp, đòi hỏi phải kiên trì, kiên quyết.

Sự thành công phụ thuộc vào ý chí, thống nhất hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó nằm ngay trong tư duy, tư tưởng, hành động của cán bộ, đảng viên. Vấn đề này đã được Đảng ta nhấn mạnh trong hệ thống văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận... Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “Việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức lối sống của một số cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, nền nếp, vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng, quan liêu tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa... việc đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc về đạo đức lối sống chưa mạnh mẽ. Tự phê bình và phê bình ở một số nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi”...

Như vậy, những biểu hiện, nguyên nhân, hậu quả của suy thoái trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã được Đảng ta nhận diện, cảnh báo và đề ra các giải pháp đấu tranh. Việc vi phạm là do cá nhân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, bị chi phối, sa ngã bởi chủ nghĩa cá nhân; do cấp ủy, tổ chức đảng thiếu tính chiến đấu, phê bình, tự phê bình còn hình thức, nể nang, né tránh, ngại va chạm... Đổ lỗi do cơ chế, chính sách rồi suy diễn tiêu cực, dẫn đến làm việc cầm chừng, né tránh là hành vi ngụy biện, tạo môi trường cho chủ nghĩa cá nhân phát triển.

Với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “kỷ luật một người để cứu muôn người”, việc xử lý những cán bộ suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống... chính là nhằm răn đe, cảnh tỉnh đối với mọi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng. Thay vì nảy sinh tư tưởng cực đoan, cán bộ, đảng viên và từng tổ chức đảng phải xốc lại tư tưởng, thống nhất nhận thức, quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng để mài sắc ý chí chiến đấu, loại bỏ chủ nghĩa cá nhân.

V3.


 

Suy thoái không trừ một ai

 


          Sai phạm của những cá nhân nêu trên đã được Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII chỉ rõ: ...Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định trách nhiệm nêu gương; gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát, lãng phí lớn ngân sách nhà nước; ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch Covid-19; gây bức xúc trong xã hội; ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng...

Kết luận này dựa trên kết quả kiểm tra cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, thực hiện theo quy định của Điều lệ Đảng. Căn cứ nội dung, tính chất, mức độ hậu quả, nguyên nhân vi phạm, theo quy định của Đảng về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với Ban cán sự Đảng Bộ Khoa học và Công nghệ nhiệm kỳ 2016-2021, Ban cán sự Đảng Bộ Y tế nhiệm kỳ 2016-2021. Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Phạm Công Tạc. Ban Chấp hành Trung ương thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Chu Ngọc Anh và ông Nguyễn Thanh Long.

Trong kết luận sai phạm của những cá nhân nêu trên, cụm từ “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” được nhấn mạnh, đặt lên hàng đầu. Điều này khẳng định, suy thoái là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, là gốc rễ dẫn đến những sai phạm, vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước của những cán bộ, đảng viên giữ trọng trách trong tổ chức đảng và hệ thống chính trị của đất nước.

Sự nguy hại của suy thoái đã được Đảng ta cảnh báo, nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc... Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.

Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để lại hậu quả, nguy cơ vô cùng tai hại đối với Đảng và dân tộc. Cán bộ giữ chức vụ càng cao bị suy thoái thì hậu quả, nguy cơ đối với Đảng, với chế độ càng lớn. Nhìn lại những vụ việc, vụ án tham nhũng được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm thời gian qua, trong đó có nhiều cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý bị đưa ra xét xử, chúng ta thấy, tính chất, mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng.

Đây là lần đầu tiên kể từ Đại hội XII, Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xem xét, kết luận hành vi sai phạm của những cán bộ, đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý là “suy thoái về tư tưởng chính trị”.

Đây cũng là lần đầu tiên trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ Đại hội XII, việc xử lý sai phạm của cán bộ, đảng viên cấp cao và hành vi vi phạm pháp luật của công dân được Đảng, Nhà nước, Quốc hội và cơ quan hành pháp các cấp thực hiện kịp thời, nhanh chóng, chỉ trong một thời gian rất ngắn.

Việc xử lý nghiêm khắc, kịp thời, thống nhất, đồng bộ... đối với những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước thể hiện tinh thần quyết liệt, không có vùng cấm trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta. Qua những vụ việc này cho thấy, suy thoái như là một loại “virus” lây bệnh nguy hiểm, không trừ một ai. Nó có thể tấn công, làm biến dạng, biến chất ngay cả những người được đào tạo bài bản, có học hàm, học vị cao; ngay cả những cán bộ giữ cương vị chủ chốt, trọng trách trong Đảng.

V3.


 

Về mặt tổ chức đội ngũ chuyên gia và xây dựng tuyến bài tập trung có chất lượng

 


Kinh nghiệm cho thấy, đi liền với tuyên truyền, nghiên cứu phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận không chỉ đông về lượng mà phải bảo đảm chất lượng, đủ tầm trí tuệ và bản lĩnh để có những bài viết chất lượng. Hiện nay đội ngũ lý luận của chúng ta còn thiếu và còn không ít hạn chế. Cần tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận có bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, phương pháp và kỹ năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành, có nhiệt huyết và tầm cao về lý luận; xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận, cán bộ trẻ. Nên có chính sách đặc thù thu hút, ưu tiên đào tạo và sử dụng đội ngũ này. Bên cạnh đó, nghiên cứu đổi mới hình thúc và gia tăng thời lượng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống nhà trường, nhất là ở bậc đại học. Cần có cơ chế bồi dưỡng đối với những người học tốt nghiệp các cấp học ở nước ngoài về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ nội dung, chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống các nhà trường phù hợp với đối tượng và cấp học; truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những nội dung mới, phù hợp tình hình hiện nay, làm cơ sở cho việc vận dụng trong chỉ đạo thực tiễn.

Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức, trên cơ sở phát huy hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo 35 các cấp làm lực lượng lòng cốt trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thu hút các cộng tác viên, các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia. Các cơ quan báo chí truyền thông cần tiếp tục nâng cao chất lượng trong xây dựng các chuyên trang, chuyên mục với hệ thống các tuyến bài đấu tranh sắc sảo với các quan điểm sai trái, có tính toán liều lượng và thời điểm hợp lý, bảo đảm tính liên tục, có trọng tâm. Kết hợp chặt chẽ những giải pháp về mặt tư tưởng với quy định mang tính pháp luật, cùng giải pháp công nghệ và chế tài xử phạt nghiêm minh, đủ sức răn đe đối với những thế lực, phần tử thực hiện các hoạt động hướng đến phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng./.

V3.

Cần tập trung vào trọng điểm đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng trên môi trường mạng

 


Thực tế, các thế lực thù địch, cơ hội, thoái hóa biến chất thường lợi dụng các phương thức khác nhau để liên kết, phát tán thông tin chống phá, hòng phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng thường thông qua các phương thức: 1-Gửi đơn thư góp ý, khiếu nại, tố cáo đến các cơ quan Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử và các cơ quan ngôn luận; 2- Thông qua các quan hệ, các tổ chức dưới dạng các tài liệu, sách truyền tay, thông tin truyền miệng; 3- Thông qua các hội nghị, hội thảo, tổ chức các sự kiện chuyên đề; 4- Thông qua lập các trang Web của các tổ chức, hoặc của các cá nhân để đăng thông tin; 5- Thông qua mạng xã hội phát tán các thông tin và liên kết tạo thành đợt tấn công theo chuyên đề, theo các sự kiện. Chính vì vậy, đòi hỏi chúng ta cũng phải vận dụng các phương thức thông tin để phản bác lại các quan điểm xuyên tạc, phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong các phương thức trên, cần đặc biệt chú ý phương thức thông qua môi trường mạng.

Mạng xã hội là thành quả của cách mạng khoa học kỹ thuật, toàn thế giới áp dụng. Tuy nhiên, cả thế giới cũng đang đứng trước những thách thức lớn trong quản lý mạng xã hội, đối phó với mặt trái của mạng xã hội. Chúng ta đi sau, nhưng chúng ta phải quản lý, định hướng mạng xã hội vì mục đích của chúng ta. Vì vậy, cần tiếp tục bảo đảm sự thống nhất cao về tầm quan trọng của cuộc đấu tranh trên không gian mạng hiện nay, từ đó xây dựng và phát triển mạnh mẽ lực lượng đấu tranh trên mặt trận này, ngăn chặn và triệt phá kịp thời mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; chủ động kịp thời định hướng thông tin, đưa thông tin chính thống đến người dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm môi trường ổn định cho phát triển. Để làm tốt việc đó, một trong những giải pháp là đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực thông tin truyền thông, cần xem thông tin truyền thông là một trong những lĩnh vực cần có ưu tiên cùng với 8 lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số: Y tế, Giáo dục, Tài chính - Ngân hàng, Nông nghiệp, Giao thông vận tải và logistics, Năng lượng, Tài nguyên và Môi trường, Sản xuất công nghiệp, đã được Chính phủ thông qua.

          V3.

 

Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chí tập trung trực diện vào các nội dung trong học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

 


Trong mục tiêu xuyên tạc phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực phản động cơ hội, thoái hóa biến chất không chỉ trực diện hướng tới phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng mà chúng con thông qua hình thức, biện pháp gián tiếp để thực hiện ý đồ của mình. Bên cạnh mưu toan phủ định trực tiếp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng còn tập trung phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng, bôi xấu lãnh đạo, phủ định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, xuyên tạc quan hệ đối ngoại, bịa đặt vu cáo Việt Nam vi phạm quyền con người, đàn áp tôn giáo… Bên cạnh đó ca ngợi, tuyên truyền về các giá trị dân chủ, nhân quyền, văn hóa theo lối sống phương Tây…Tất cả những chiêu bài đó nhằm cố minh chứng việc chúng ta lựa chọn sai con đường, sai mô hình do xuất phát từ học thuyết và tư tưởng lỗi thời, ảo tưởng. Thực chất mục tiêu suy cho cùng là phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng, kêu gọi theo con đường mới, từ bỏ vai trò của Đảng, vai trò của lực lượng vũ trang.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là bảo vệ trực diện nội dung các quan điểm, nguyên lý cụ thể của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minhh, mà còn chính là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Điều cần chú ý là, những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị bền vững nằm trong một hệ thống và bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ tính hệ thống, toàn vẹn của những nguyên lý lý luận. Cần phản bác khuynh hướng tách rời, trích dẫn cắt xén các luận điểm và luận giải không phù hợp với bối cảnh lịch sử./.

          V3.

 

 

 

 

Cần chủ động trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 


Đi liền   nhận diện các luận điểm họ chống phá để đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm, chúng ta cần chủ động tuyên truyền, luận giải tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bấy lâu nay chúng ta đã quyết liệt đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, các phần tử thoái hóa biến chất nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Việc nhận diện diện rõ các thế lực và các quan điểm của họ để phản bác khá thuyết phục. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới hiện nay, các thế lực chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng khá đa dạng. Ngoài các thế lực như chúng ta chỉ rõ như: “1- Nhóm đối lập về mặt hệ tư tưởng; 2- Các thế lực thù địch về chính trị, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta; 3- Là những người vốn là cán bộ đảng viên nhưng không chịu tu dưỡng, học tập, nâng cao tư tưởng đạo đức cách mạng dẫn tới tha hóa về tư tưởng, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phai nhạt lý tưởng, mà Đảng ta đã chỉ rõ là “tự chuyển hóa, tự diễn biến” trong nội bộ”, còn không ít thế lực dưới những vỏ bọc khác nhau. Chẳng hạn, cùng phối hợp hay phụ họa các thế lực này là sự xuất hiện chủ nghĩa cơ hội, chúng tác động làm suy yếu các tổ chức từ bên trong, chúng đã và đang xuất hiện cũng hết sức tinh vi. Ph.Ăngghen đã nói rằng chủ nghĩa cơ hội biến chủ nghĩa Mác thành một thứ “chủ nghĩa Mác” bị xuyên tạc méo mó”. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên”. Bên cạnh chủ nghĩa cơ hội là thế lực cũng rất nguy hại, tuy không ra mặt phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng giải thích, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh theo mục tiêu, lợi ích của họ. Đây chính là những thế lực không muốn Việt Nam phát triển, mà muốn Việt Nam phụ thuộc, hỗ trợ cho lợi ích của họ. Họ cho rằng chúng ta không vận dụng đúng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, làm tổn hại trong quan hệ quốc tế, ảnh hưởng đến môi trường và sự phát triển của chính Việt Nam.

Chính vì vậy để đấu tranh phản bác cùng với nhận rõ các luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội, suy thoái, biến chất, chúng ta cần chủ động giáo dục tuyên truyền và nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh. Làm rõ bản chất cách mạng, khoa học, như chính các nhà kinh điển chỉ ra. V.I.Lênin đã không ít lần nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Trong quá trình nghiên cứu phát triển cần làm rõ những luận điểm nào có giá trị bền vững, mang tính phổ quát, những luận điểm nào phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể, và kể cả những luận điểm nào không còn phù hợp do điều kiện lịch sử hiện nay đã thay đổi. Phát triển lý luận Mác-Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp nhau, của những người mácxít chân chính. Ngay bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình nghiên cứu và hoạt động trong phong trào công nhân cũng đã điều chỉnh một số luận điểm của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói:  “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”.

Như vậy đẩy mạnh việc tuyên truyền làm rõ bản chất cách mạng và khoa học, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái là phương cách tất yếu và cần luôn được quán triệt, gắn bó chặt chẽ nhằm bảo đảm hiệu quả của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng./.

V3.

 

 

Đấu tranh trên phương diện lý luận cần gắn chặt hơn nữa với đấu tranh trong hoạt động thực tiễn.

 


Điều cần thấy là, các thế lực thù địch và cơ hội luôn tìm mọi thủ đoạn tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Trên phương diện lý luận chúng hướng đến phủ định các nguyên lý triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó tập trung vào xuyên tạc, phủ định học thuyết hình thái kinh tế xã hội, về chuyên chính vô sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ định học thuyết giá trị thặng dư, phủ định lý luận về sự quá độ lên CNXH…Cùng với đó là phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, đặt tư tưởng Hồ Chí minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng không chỉ cố luận chứng trên phương diện lý luận mà còn thông qua các hoạt động thực tiễn minh chứng sự phát triển vượt trội của chủ nghĩa tư bản. Lấy sự đổ vỡ mô hình CNXH ở Liên xô cũ và các nước Đông Âu để luận giải tính không hợp lý của CNXH hội cũng như hướng vào phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin.

Ngay ở Việt Nam, không chỉ xuyên tạc, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh trên phương diện lý luận, chúng còn xuyên tạc rằng, việc Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam là gượng ép, sai lầm, và vì vậy đây chính là nguyên nhân đẩy đến các cuộc chiến tranh hao người tốn của, làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Trên thực tế, họ lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót, sai lầm trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên để làm minh chứng, từ đó xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là không phù hợp, là lỗi thời với xu thế phát triển chung của thế giới.

Chính thực tế đó đòi hỏi trong cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chúng ta phải gắn chặt hơn nữa đấu tranh trên phương diện lý luận với đấu tranh trong hoạt động thực tiễn. Thông qua các kết quả thực tiễn để minh chứng sự đúng đắn đường lối của Đảng, của lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời công khai những hạn chế, sai lầm do các nguyên nhân chủ quan và khách quan trong quá trình xây dựng xã hội mới. Muốn vậy phải có sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ hơn nữa của các lực lượng tham gia đấu tranh lý luận với công tác tuyên truyền kết quả phát triển kinh tế xã hội, với đấu tranh phòng chống sự suy thoái tư tưởng đạo đức, lối sống cũng như phòng chống tham nhũng.

          V3.

THÊ LƯƠNG TIẾNG KÊU LẠC BẦY CỦA PHẠM TRẦN!

 

Không ngoài mục đích đòi xóa bỏ vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng, xỏa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Phạm Trần hồ đồ kết luận: Việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng 2 lần nhắc tới việc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động” trước và trong ngày họp chính thức của Đại hội đảng XIII (28/12/2020 và 26/1/2021) là điều “không bình thường”, là “tư tưởng của Đảng lâm nguy”, là do “tình trạng suy thoái tư tưởng trong đàng viên không còn bình thường nữa”…

Đã vốn quen với giọng điệu ủ ê này của Phạm Trần, song cũng thấy cần phải nhắc lại với Phạm Trần mấy điều cốt lõi sau:

Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng là yêu cầu tất yếu, nhằm bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng; đồng thời, thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những luận điệu sai trái, thù địch giống như Phạm Trần và nhóm người như Phạm Trần đã đang đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trực tiếp lãnh đạo là minh chứng cho thấy, trên nền tảng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng đã vận dụng sáng tạo, đề ra chủ trương, đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam để lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời tiếp tục đạt được những thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Sau đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Gần nhất, nội dung văn kiện tại Đại hội XIII của Đảng cũng tiếp tục khẳng định “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Điều này cho thấy, việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hay bất cứ một đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước nào; bất cứ một cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu một cơ quan, địa phương, đơn vị, hay một cán bộ, đảng viên nào có nhắc đến nội dung này trong các bài viết, bài phát biểu đăng tải trên các cơ quan truyền thông… thì cũng là bình thường, chứ không phải là “không bình thường” như Phạm Trần suy diễn.

Hai là, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đương nhiên/tất nhiên là không thể phủ nhận, càng không thể xóa bỏ. Vì thế, điều này chỉ “không bình thường” qua góc nhìn thiển cận, cố chấp, nhìn hiện tượng mà không thấy bản chất của chính Phạm Trần.

Điều “không bình thường” nữa theo Phạm Trần là: “Có nhiều lý do chồng chất, nhưng cơ bản là từ bản chất tham ô quyền lực, bảo thủ, giáo điều và lạc hậu nên tư duy đổi mới của Lãnh đạo đã tàn lụi. Đảng sợ đổi mới chính trị, không chấp nhận có đảng đối lập, không dám tổ chức tranh cử và bầu cử tự do, và cấm dân ra báo vì đảng sợ mất quyền độc tôn lãnh đạo” lại là nhận định sai, cho thấy sự thiếu hiểu biết của người viết.

Bởi rằng, không phải chỉ cơ quan ngôn luận của Ban Tuyên giáo Trung ương mà tất cả các cơ quan báo chí truyền thông của Việt Nam; tất cả cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tầng lớp nhân dân yêu nước chân chính đều cùng chung quan điểm rằng, dựa trên cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn thì Việt Nam không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng.

Vì thế, Phạm Trần không cần và càng không nên nhắc đi nhắc lại vấn đề đòi đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam; phủ nhận vai trò/đòi xóa bỏ sự độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng; đồng thời, cũng không vì thế mà suy diễn chủ quan rằng: “Chình vì sợ mất quyền và mất ăn nên Tuyên giáo đảng, Hội đồng lý luận Trung ương và hai Tạp chí Cộng sản và Tuyên giáo đã hợp đồng với báo Quân đội Nhân dân và Nhân dân để ra sức chống những chỉ trích độc tài và phi dân chủ của các mạng báo xã hội và cá nhân đấu tranh trong và ngoài: Việt Nam”.

Thực tế, không ít những người giả danh dân chủ, đòi dân chủ, tự do, và quyền được lên tiếng; mượn tiếng “yêu nước, thương dân” như Phạm Trần để tung tin xấu độc, bẻ cong sự thật, xuyên tạc và chống Đảng Cộng sản Việt Nam, chống chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó đích thị là những phấn tử bất mãn, cơ hội hoặc đã phản bội, phai nhạt lý tưởng cộng sản, hoặc đã bị các thế lực thù địch mua chuộc.

Chừng nào còn sự khác biệt giữa ý thức hệ tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản thì chừng đó cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vẫn tiếp tục, để đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận, quan điểm của Đảng – đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; để bảo vệ những giá trị tư tưởng, lý luận đúng đắn, cũng đồng thời là bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã đổ bao xương máu, hy sinh mới có được.

Không có chuyện “Báo chí mơ hồ” như Phạm Trần nhận định, mà chính là yêu cầu để phòng và chống sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phòng và chống tình trạng “nhạt Đảng, xa chính trị” đã xuất hiện…, thì các cơ quan báo chí truyền thông cần phải tập trung thực hiện tốt tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của mình. Đồng thời, phải cảnh giác với những luồng dư luận, thông tin không phù hợp tư tưởng chỉ đạo, định hướng báo chí, xa rời nhiệm vụ chính trị, hạ thấp chức năng tuyên truyền, giáo dục của báo chí cách mạng.

Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa, các cơ quan báo chí truyền thông và mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải chú trọng thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”; phải coi đó “là nội dung quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng về mặt tư tưởng, vừa có vai trò nền tảng, vừa có vị trí then chốt trong tình hình hiện nay” gắn với Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 để triển khai nghiên cứu lý luận”.

Đồng thời, đội ngũ những người làm báo cần phải nâng cao bản lĩnh chính trị, nhận thức đúng và thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, giữ gìn đạo đức người làm báo, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ để luôn “bút sắc, lòng trong”; để có những tác phẩm báo chí hấp dẫn, thuyết phục, phản ánh sinh động sự đổi thay hàng ngày, hàng giờ cuộc sống của nhân dân Việt Nam, đất nước Việt Nam…

Thực tế là, không có phút giây nào các thế lực thù địch định dừng lại sự chống phá, dừng lại sự “chĩa mũi nhọn” bằng các thủ đoạn tinh vi/ngày càng xảo quyệt vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước để nhằm phá hoại và làm mọt ruỗng nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội như Phạm Trần đã/đang làm.

Vì thế, hơn bao giờ hết là phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không được phép sao nhãng, bỏ trống trận địa thông tin tuyên truyền về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đi liền cùng đó là “chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; các biểu hiện cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác; không để suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh./.

ĐỪNG MÃI DỰA HƠI NHỮNG KẺ MANG DANH “TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM”

 

Gần đây, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục bám vào những đối tượng được đặt cho cái tên rất kêu là “tù nhân lương tâm” để chống phá Việt Nam thông qua vấn đề dân chủ, nhân quyền. Song, ngẫm lại thì thấy các chiêu bài chống phá ấy cuối cùng vẫn chỉ xoay quanh việc đưa ra những luận điệu xuyên tạc, cùng với đó là những đòi hỏi đi ngược với luật pháp và thực tế nhằm đánh lừa dư luận về tình hình bảo đảm quyền con người ở nước ta.

Để chứng minh cho lập luận xuyên tạc ấy, HRW đã liệt kê một số bản án dành cho các đối tượng vi phạm pháp luật thời gian qua. Trong đó có những cái tên đã vi phạm pháp luật và bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam như Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Phạm Chí Dũng, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư, Phạm Đoan Trang... Tất cả những người này đều bị cáo buộc tội danh tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự.

Càng nực cười hơn khi HRW vô tư phán rằng, công an Việt Nam bắt giam nhiều “nhà bất đồng chính kiến” chỉ vì họ "thực hiện quyền tự do ngôn luận cơ bản". Trong khi đó, thực tế cho thấy, các đối tượng như Phạm Đoan Trang hay Phạm Chí Dũng đều nhận sự tài trợ, cổ xúy, của các tổ chức nhân quyền cực đoan và các thế lực thiếu thiện chí với Việt Nam, sử dụng chiêu trò “phản biện xã hội” để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, kích động các hành vi vi phạm pháp luật, gây mất ổn định trật tự xã hội, bị dư luận trong nước lên án kịch liệt.

Gần đây, một số người thiếu thiện chí với Việt Nam lại đưa ra luận điệu cho rằng, vì sợ sứt mẻ lợi ích kinh tế, vì sự thành bại của các hiệp định thương mại mà Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và một số quốc gia khác đang phớt lờ các vụ việc vi phạm nhân quyền đối với các “tù nhân lương tâm” tại Việt Nam. Trong khi đó, ai cũng thừa biết rằng, thông qua các cuộc đối thoại nhân quyền thường niên, Việt Nam đã cùng Mỹ hay EU trao đổi thẳng thắn, cởi mở và xây dựng về tình hình thực tế cũng như các thách thức của mỗi bên trong việc thúc đẩy và bảo đảm các quyền con người. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực này cũng đã được cộng đồng quốc tế và các đối tác ghi nhận.

Đòi hỏi phi lý

Bằng cách rêu rao rằng, các “tù nhân lương tâm” tại Việt Nam hiện như “cá nằm trên thớt”, thời gian qua, các cá nhân, tổ chức có quan điểm thù địch với Việt Nam liên tục kêu gọi phải thả các tù nhân này ngay lập tức. Liệu đó có phải là đòi hỏi chính đáng?

Họ cố tình quên rằng, đặc xá là chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước và thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam đối với những người phạm tội, khuyến khích họ hối cải, rèn luyện và lao động để hoàn lương. Nếu như các bản án là minh chứng cho tội danh của các phạm nhân, thì việc đặc xá, tha tù trước thời hạn là sự ghi nhận kết quả cải tạo, chấp hành tốt các nội quy trại giam của phạm nhân. Mỗi đợt đặc xá là dịp để các phạm nhân nhìn nhận, suy xét lại những lỗi lầm đã phạm phải, tự mỗi người đánh giá kết quả cải tạo của mình, kiên quyết dứt bỏ quá khứ và sẵn sàng phấn đấu để tái hòa nhập với cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.

Sau khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Đặc xá năm 2007, những năm qua, Chủ tịch nước đã quyết định nhiều đợt đặc xá, tha tù trước thời hạn cho nhiều người bị kết án phạt tù có thời hạn. Thường thì các đợt đặc xá diễn ra nhân các sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. Hiệu quả của công tác đặc xá cũng được chứng minh bằng tỉ lệ tái phạm thấp, đại đa số phạm nhân được đặc xá sau khi ra tù đều nhận thấy và đi theo con đường hướng thiện, thậm chí nhiều người còn trở thành những tấm gương người tốt, việc tốt. Qua đó càng chứng minh rằng, đặc xá là chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước ta và trên thực tế đã được cộng đồng trong nước, dư luận quốc tế và những người quan tâm đến tình hình nhân quyền ở Việt Nam thừa nhận, đồng tình.

Tuy nhiên, đặc xá thể hiện tính nhân văn, nhân đạo, song không phải với mọi đối tượng. Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại, các phạm nhân chỉ có thể được đặc xá, trả tự do sớm nếu họ thừa nhận những sai phạm của mình và chứng minh quyết tâm hướng thiện bằng cách cải tạo tốt, chấp hành nghiêm các nội quy của trại giam. Nói cách khác, việc đặc xá phụ thuộc vào quá trình tu dưỡng, rèn luyện bản thân của các phạm nhân, chứ không thể phụ thuộc vào những lời kêu gọi hay đòi hỏi phi lý từ bất cứ cá nhân hay tổ chức nào.

Từ đó cũng dễ dàng nhận thấy rằng, các thế lực phản động, cơ hội chính trị không hề sẵn lòng thừa nhận những thành tựu về bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, mà trái lại chỉ nhăm nhe xỉa xói, tận dụng mọi cơ hội và mánh khóe để phủ nhận các thành tựu ấy. Với riêng những người trót bị gắn cho cái mác “tù nhân lương tâm”, họ thực chất chỉ là một công cụ nhất thời trong tay những kẻ đang âm mưu chơi ván bài nhân quyền nhằm vào Việt Nam.

NỰC CƯỜI TIẾNG NÓI LẠC LÕNG CỦA NGUYỄN VĂN ĐÀI

 

Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã bế mạc và thành công tốt đẹp, làm nức lòng hàng triệu trái tim người dân Việt Nam. Đại hội đã lựa chọn những lãnh đạo đứng đầu đất nước rất được nhân dân tin tưởng, đặc biệt là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước vẫn liên tục tung các chiêu trò bình luận, phán xét lạc lõng nhằm công kích, hạ bệ hình ảnh của đồng chí Nguyễn Phú Trọng.

Tiếng gọi lạc lõng của Nguyễn Văn Đài.

Một trong số những tiếng nói lạc lõng là đối tượng Nguyễn Văn Đài, y liên tục tung ra các video bình luận về các lãnh đạo cấp cao của Đảng với những ngôn từ hết sức xuyên tạc, bịa đặt. Đặc biệt, là trên trang cá nhân của mình, Nguyễn Văn Đài đăng tải bài viết với tiêu đề hết sức nực cười “Kêu gọi toàn dân đứng lên chống kẻ độc tài Nguyễn Phú Trọng”.

Trong bài viết, Nguyễn Văn Đài dưới cái mác của Chủ tịch “Hội anh em dân chủ” đã lộng ngôn rằng Việt Nam ” không ban hành một đợt đặc xá nào cho tù nhân”, rằng Tổng Bí thư là người “cản trở khát vọng tự do, dân chủ đa đảng và mơ ước xây dựng nước Việt Nam hùng cường của Nhân dân Việt Nam”…

Có thể thấy, những bài viết chống phá của các thế lực thù địch sau khi Đại hội thành công đa phần đều nhắm vào Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Dường như chúng đang tỏ ra hằn học khi không thể phá hoại được sự thành công của Đại hội Đảng lần thứ XIII. Thậm chí chúng còn vịn vào cái cớ Tổng Bí thư đã quá tuổi, làm quá nhiệm kỳ để kêu gọi “toàn dân đứng lên”.

Nhưng chắc Nguyễn Văn Đài chưa biết được lòng dân mong mỏi Tổng Bí thư ở lại biết nhường nào nhỉ? “Bác Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử Tổng Bí thư Ban Chấp hành T.Ư Đảng khoá XIII là một tin vui nhất của cả ngày hôm nay. Chúng con xin được chúc mừng bác Nguyễn Phú Trọng”, độc giả Nguyễn Hương Trà bày tỏ; Hay “Thật sự kết quả này khiến mình không quá bất ngờ vì những gì mà bác Trọng đã làm được cho đất nước, cho nhân dân thì bác rất xứng đáng khi lại tiếp tục được tín nhiệm để tái đắc cử”, Đỗ Thành Nhơn, Cựu sinh viên Trường ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM nói. Và hàng ngàn bình luận trên mạng xã hội đều một lòng mong muốn Tổng Bí thư tiếp tục ở lại để chèo lái con thuyền Việt Nam. Điều đó cho thấy, công tác nhân sự đã được Đảng ta thực hiện một cách đúng đắn, những trường hợp đặc biệt đều có đủ năng lực, uy tín nhận được sự tín nhiệm của nhân dân. Nhân dân, cán bộ, đảng viên nhìn vào Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một chiến sĩ cách mạng chiến đấu không một phút nghỉ ngơi. Là người vực dậy niềm tin của nhân dân, là người đứng đầu sóng ngọn gió trong công cuộc chỉnh đốn Đảng, khiến Đảng đúng là đạo đức, là văn minh.

Thật nực cười với tiếng kêu gọi lạc lõng của Nguyễn Văn Đài. Trong thời điểm cả nước đang vui mừng phấn khởi khi biết tin Tổng Bí thư tiếp tục nhiệm kỳ vậy mà Nguyễn Văn Đài và “Hội anh em dân chủ” của chúng lại lu loa kêu gọi mọi người cùng mình thực hiện trò hề này. Thực tế cũng dễ hiểu, tâm lý của những kẻ chống phá lúc này chỉ là sự sợ hãi. Bởi chúng hiểu rằng khi đất nước Việt Nam, khi Đảng có người đứng đầu có tâm, có tầm như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì đất nước sẽ ngày càng vững mạnh, vai trò của Đảng sẽ ngày càng được củng cố. Lúc đó, những đám kền kền chống phá xuyên tạc như Nguyễn Văn Đài, Việt Tân… sẽ không có cửa để phá hoại nữa.

Từ ngày được tị nạn, lưu vong ở nước ngoài, Nguyễn Văn Đài không chịu cải tà quy chính mà tiếp tục liên hệ với các tổ chức chống phá trong và ngoài nước thực hiện các hành vi câu móc, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động tuyển lựa, đào tạo, phát triển lực lượng chống đối trong nước và tiếp tục tán phát các tài liệu xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta và bôi nhọ lãnh tụ và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Nhưng xin thưa dù Nguyễn Văn Đài có thể hiện sự đê hèn bao nhiêu thì cũng không thể ngăn cản được sự tin yêu, lòng dân với sự lãnh đạo của Đảng.

Đại hội XIII của Đảng đã kết thúc thành công tốt đẹp, nhưng dư âm và sự phấn khởi của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vẫn đang đầy ắp. Kỳ vọng sự thành công của Đại hội, tin tưởng tuyệt đối vào khả năng, bản lĩnh và nhân cách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ đưa đất nước ta tới bến bờ vinh quang, sánh vai cùng bè bạn năm Châu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt Đại hội Đảng là nơi “đấu đá nội bộ” nhưng qua 13 kỳ “đấu đá” vừa qua, chúng ta đã giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển kinh tế – xã hội, từng bước sánh vai với các cường quốc 5 châu.