Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI ÂM MƯU PHÁ HOẠI NHÂN SỰ KIỆN CHUYẾN THĂM CỦA TỔNG THỐNG NGA VLADIMIR PUTIN TỚI VIỆT NAM

 

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã có chuyến thăm cấp Nhà nước tới nước ta từ ngày 19 đến 20/6/2024. Trong khuôn khổ chuyến thăm, Tổng thống Putin đã có hàng loạt cuộc hội đàm, hội kiến quan trọng với các đồng chí lãnh đạo cấp cao Việt Nam cũng như tham gia nhiều hoạt động quan trọng khác.

Tuy nhiên, trước sự kiện quan trọng trên, cũng như mọi khi, các đối tượng thù địch, các phần tử phản động lưu vong lại gia tăng các hoạt động bôi nhọ, tung ra các luận điệu xuyên tạc, phá hoại… Việt Nam, họ quy chụp rằng Việt Nam đang bắt tay với “tội phạm chiến tranh”, “tội phạm truy nã Quốc tế”, xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam – Nga cũng như quan hệ của Việt Nam với nhiều nước khác, cho rằng “lãnh đạo Việt Nam đang mắc sai lầm nghiêm trọng”…

Những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, đối lập với chủ trương, đường lối ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta. Quan hệ Việt Nam – Liên Xô trước đây và Việt Nam – Nga ngày nay được xây dựng trên nền tảng của tình hữu nghị truyền thống trong hơn 7 thập kỷ qua. Lịch sử cho thấy, mối quan hệ giữa hai nước luôn nồng ấm, tin cậy, vượt qua mọi thử thách của thời gian và sự biến động của thời đại. Liên Xô là một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 30/1/1950, đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước sau này…

Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của Chính phủ và nhân dân Liên Xô. Sự ủng hộ, giúp đỡ toàn diện, to lớn và quý báu của Liên Xô trong nhiều thập niên là nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và hàn gắn vết thương sau chiến tranh của nhân dân Việt Nam...

Trên cơ sở quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp, ngày nay, quan hệ Việt Nam – Nga tiếp tục được lãnh đạo và nhân dân hai nước tích cực xây dựng, vun đắp. Ngày 16/6/1994, hai nước đã ký hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hữu nghị Việt Nam – Nga. Đây là văn kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng, là biểu tượng khởi đầu cho một giai đoạn mới trong phát triển hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Nga, tạo ra tiền đề cho việc đưa quan hệ hai nước lên Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2012.

Nhìn lại lịch sử, có thể nói mối quan hệ song phương Việt Nam – Nga đã luôn đứng vững trước các biến động của thế giới, đã góp phần củng cố hoà bình, ổn định và an ninh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Với nỗ lực chung của hai bên, quan hệ hợp tác nhiều mặt Việt Nam – Nga tiếp tục phát triển tích cực, phù hợp với lợi ích hai quốc gia, là tài sản vô giá của nhân dân hai nước và là hình mẫu của quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác cùng có lợi.

Trong bối cảnh, tình hình hiện nay, khi mà Việt Nam đang thực hiện có hiệu quả chính sách “Ngoại giao cây tre”. Trong các hoạt động đối ngoại, Việt Nam luôn cân bằng hài hoà lợi ích quốc gia – dân tộc với lợi ích của đối tác, Việt Nam luôn kiên định tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, vì chính nghĩa… để xây dựng hình ảnh, vị thế của Việt Nam hòa bình, thân thiện trên trường quốc tế thì những luận điệu xuyên tạc chuyến thăm của Tổng thống Nga Vladimir Putin, cũng như xuyên tạc chính sách ngoại giao của Việt nam, chống phá nền ngoại giao, chống phá đất nước và nhân dân Việt Nam cần phải được nhận diện, đấu tranh bác bỏ kịp thời. Mỗi cán bộ, đảng viên và mọi người dân cần giữ vững lập trường, quan điểm, đề cao cảnh giác, không mắc mưu kẻ xấu và kiên quyết đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch…/.

BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, XUYÊN TẠC LỰC LƯỢNG CÔNG AN CỦA “THU HÀ”

 

Tại Hội nghị Đảng ủy Công an Trung ương năm 2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khen ngợi: Bộ Công an đã phối hợp rất chặt chẽ, lớp lang, bài bản, hiệu quả với các cơ quan khối nội chính trong đấu tranh, phòng, chống tham nhũng tiêu cực; có nhiều bước tiến mới trong điều tra, khám phá nhiều vụ án lớn; đã khởi tố mới, điều tra nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp; xử lý nhiều bị can là cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu theo tinh thần: “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, dù bất kể đó là ai”; góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Ấy vậy mà, trên trang “Baoquocdan”, kẻ tự xưng là Thu Hà đã tùy tiện đưa ra những thông tin sai sự thật, bôi nhọ, cản trở hoạt động, làm mất uy tín ngành công an. Thu Hà xuyên tạc rằng, “Kiêu binh thao túng quyền lực…bắt cóc Trịnh Xuân Thanh…nửa đêm tấn công thôn Hoành…”; đặc biệt, Thu Hà còn ngang nhiên xuyên tạc việc một số cán bộ cấp cao được Trung ương cho nghỉ công tác để kích động, “bị đám kiêu binh cưa ghế, phế bỏ quyền lực”. Thực chất, đây là những luận điệu sai trái, xuyên tạc, đưa tin sai sự thật, bộc lộ rõ thái độ hằn học, quẫn chí của một phần tử phản động là Thu Hà; bọn phản động run sợ trước sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, run sợ trước những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà quân và dân ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo; run sợ trước sự trưởng thành, lớn mạnh của Đảng ta và triển vọng phát triển của dân tộc ta; bọn chúng phản ứng một cách điên loạn, mù quáng, ra sức kích động, chia rẽ nhân dân với lực lượng công an, chia rẽ nhân dân với Đảng, hòng làm suy yếu sức mạnh của Đảng, của khối đại đoàn kết dân tộc, ngăn cản sự phát triển của đất nước, phá hoại cuộc sống ấm no, bình yên, hạnh phúc của nhân dân ta. Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần đề cao cảnh giác để không bị mắc mưu của kẻ xấu.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định: Chưa bao giờ công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lại được thực hiện mạnh mẽ, đồng bộ, quyết liệt, bài bản, hiệu quả như thời gian gần đây; những cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao vi phạm Quy định những điều đảng viên không được làm; Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và người đứng đầu cơ quan đơn vị để xảy ra tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng đều bị xử lý theo quy định pháp luật hoặc được Trung ương xem xét cho thôi giữ các chức vụ đang đảm nhiệm; thể hiện sự nghiêm minh của Đảng, bảo đảm cho Đảng ta luôn trong sạch vững mạnh. Thực tiễn đã khẳng định sự trưởng thành, lớn mạnh của ngành công an, khẳng định niềm tin của nhân dân với lực lượng công an, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời là bằng chứng đanh thép nhất bác bỏ hoàn toàn những luận điệu sai trái, cố tình xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo hòng hạ thấp uy tín lực lượng công an nhân dân của bọn phản động như Thu Hà. Tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, bản chất cách mạng, tốt đẹp của lực lượng công an nhân dân, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần tỉnh táo và cảnh giác, nhận diện chính xác bộ mặt xấu xa của bọn phản động; kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc lực lượng công an của Thu Hà. Bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống bình yên của nhân dân ta./.

MỘT SỐ NỘI DUNG BIỆN PHÁP PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG, SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

 

Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc; về vị trí, tầm quan trọng của phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới. Từ đó, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng và hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, và nhân dân về củng cố, tăng cường và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, kiên quyết, kiên trì thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh theo các Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, khoá XII và Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách về phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới. Xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật phải xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giải quyết hài hoà lợi ích trong xã hội.

Bốn là, thực hiện tốt công tác nắm bắt dư luận xã hội, chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp, kịp thời giải quyết những tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, chức sắc, chức việc trong các tôn giáo góp phần tuyên truyền, vận động, tạo đồng thuận xã hội, động viên nhân dân tham gia tích cực tham gia phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của địa phương, đất nước; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng cơ chế phù hợp để nhân dân tham gia ý kiến vào quá trình hoạch định chính sách, quyết định những vấn đề lớn và quan trọng của đất nước, những vấn đề có liên quan mật thiết đến cuộc sống của người dân. Các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước nêu cao tinh thần cầu thị, tiếp thu, trách nhiệm thông tin, giải trình của các cơ quan nhà nước đối với những kiến nghị, đề xuất của nhân dân theo quy định.

Cùng với triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Trung ương, nhân dân ta cần nâng cao cảnh giác, tỉnh táo trước những luận điệu vu khống, xuyên tạc của các phần tử cơ hội, phản động muốn phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm làm cho đất nước ta, dân tộc ta suy yếu “từ bên trong”. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình hiện nay, chỉ có “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” mới tạo nên sức mạnh vô địch, giúp dân tộc ta, đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức để phát triển toàn diện, bền vững./.

NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC HIỆN NAY

 Nhận thức rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ “là gốc của công việc”, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức một cách toàn diện, trong đó, đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ. Trong bối cảnh mới hiện nay, việc nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức càng trở nên cấp bách, được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước.

1- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều tiêu chí về người cán bộ, về rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, như cán bộ là “công bộc” của nhân dân; đức là “gốc”, đức quyết định thành công của người cán bộ, giúp người cán bộ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Đức của người cán bộ, công chức, viên chức là đạo đức cách mạng, thể hiện ở phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; ở lòng trung thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân và với chế độ xã hội chủ nghĩa; ở trình độ giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao đẹp là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đức của người cán bộ, công chức, viên chức còn được thể hiện ở sự trong sáng, trung thực, không cơ hội, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; biết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân; có lối sống trong sạch, lành mạnh, gần gũi với quần chúng, gương mẫu, gắn bó với nhân dân, luôn khiêm tốn, giản dị, cầu thị; luôn có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.

Cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là sự ra đời của hệ thống pháp luật. Với bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, những giá trị đạo đức nghề nghiệp hướng tới xây dựng một nền công vụ phục vụ nhân dân đã từng bước được hình thành và phát triển trên nền tảng tư tưởng đạo đức và pháp luật của nhà nước dân chủ nhân dân. Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta đã xuất hiện và ngày càng được bổ sung đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn hệ thống các quy phạm pháp luật về công vụ, công chức, viên chức. Nhiều nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội mới đã từng bước được thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật cho chuẩn mực hành vi của cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thi hành công vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu xây dựng một nền công vụ gắn với nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Ngay từ năm 1950, trong điều kiện khó khăn, gian khổ của công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76/SL, ngày 20-5-1950, ban hành Quy chế công chức Việt Nam. Đây là lần đầu tiên, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh, làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ công chức.

Kế thừa và phát triển những quy định pháp luật về công chức, về đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ mới của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 1980 quy định tại Điều 8: “Tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Hiến pháp 1992 tại Điều 8 cũng quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”.

Căn cứ vào Hiến pháp 1992, để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ, năng lực và tận tụy phục vụ nhân dân, trung thành với Đảng, với Nhà nước, với Tổ quốc và với chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta đã ban hành Luật Cán bộ, công chức, trong đó, những chuẩn mực đạo đức - pháp lý được thể hiện một cách tập trung và rất cụ thể ở các quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức, như trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia; tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Luật Cán bộ, công chức cũng quy định nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ phải thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; có ý thức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước; chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao...

2- Đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức là vấn đề có tầm quan trọng đối với sự thành bại, tồn tại và phát triển của nền hành chính nhà nước. Đây là yếu tố cốt lõi bảo đảm cho mọi hoạt động của Nhà nước có hiệu quả. Đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức được hiểu là đạo đức thực thi công vụ, là những giá trị, những chuẩn mực đạo đức được áp dụng cho một nhóm người nhất định trong xã hội - cán bộ, công chức, viên chức - trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể - hoạt động công vụ. Đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức là hệ thống các chuẩn mực, quy tắc, nguyên tắc nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách ứng xử của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ nhằm hướng tới xây dựng một nền hành chính trách nhiệm, công tâm, trong sạch, tận tụy và chuyên nghiệp.

Đạo đức công vụ gắn liền với những giá trị chuẩn mực đạo đức chung của xã hội; đồng thời là đạo đức nghề nghiệp đặc biệt - thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Do đó, nó gắn chặt với quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm, những điều cán bộ, công chức được làm và không được làm; cách ứng xử của cán bộ, công chức khi thực thi công vụ do pháp luật quy định. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Đạo đức công vụ không tự nhiên mà có, mà phải trải qua quá trình giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện của các chủ thể quản lý cán bộ, công chức, viên chức và quá trình tự giáo dục, tự bồi dưỡng và tự rèn luyện của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực thi công vụ.

Nâng cao đạo đức công vụ là công việc thường xuyên nhằm làm cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn được trau dồi, bồi dưỡng, rèn luyện để không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng trong quá trình thực thi công vụ. Đó là công việc không chỉ của bản thân đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức mà còn là trách nhiệm của các chủ thể quản lý cán bộ, công chức.

3- Thực tế hiện nay cho thấy, đại bộ phận cán bộ, công chức luôn có ý thức rèn luyện, không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; có thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, được nhân dân tin tưởng.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn có một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức còn yếu cả về năng lực và phẩm chất; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Không ít cán bộ, công chức vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có lúc còn tùy tiện, gây khó khăn cho người dân; giải quyết công việc cho dân theo kiểu “ban ơn”, “ban phát”, chưa làm tròn chức trách, nhiệm vụ của “người đầy tớ trung thành của nhân dân”; một số cán bộ còn thiếu bình đẳng, thiếu tôn trọng dân, chưa thực sự thể hiện mối quan hệ giữa người phục vụ và người được phục vụ. Một số cán bộ, công chức tỏ thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền khi giải quyết công việc, còn hiện tượng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm; thái độ cư xử chưa thật lịch sự, nhã nhặn, chưa thực hiện nhiệm vụ với tinh thần nhiệt tình, trách nhiệm, tận tụy, trung thực, không vụ lợi, không vun vén cá nhân. Một số cơ quan, đơn vị còn có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, bè phái, ghen ghét, đố kị, không hợp tác với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, công chức có biểu hiện trung bình chủ nghĩa, làm việc cầm chừng, chưa thường xuyên, tích cực học tập, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ...

4- Thời gian tới, hoạt động nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta đang và sẽ chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang dần hoàn thiện, bên cạnh những tác động tích cực thì còn có tác động tiêu cực, ảnh hưởng đến đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; sự chống phá ngày càng tinh vi, thâm độc, quyết liệt của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình” để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, làm cho đội ngũ cán bộ, công chức suy giảm lý tưởng, niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, suy giảm đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ.

Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, nhất là nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đang và sẽ đặt ra những yêu cầu mới cao hơn trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức một cách toàn diện, cả số lượng, chất lượng và cơ cấu, cả phẩm chất, năng lực và phương pháp, tác phong công tác, nhất là việc nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ mới. Tại Đại hội XI của Đảng, Đảng ta đã xác định một trong ba nội dung lớn để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác; kiên quyết “loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân. Tại Đại hội XII của Đảng, Đảng ta tiếp tục xác định một trong bốn nội dung lớn để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới...; khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm.

Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có được một đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực, vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới, cần quan tâm nâng cao đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. Theo đó, cần tập trung làm tốt một số nội dung, giải pháp chủ yếu:

Thứ nhất, thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi người dân nói chung, cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói riêng về đạo đức cách mạng, về đạo đức công vụ, về Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, nhất là tiếp tục tuyên truyền, quán triệt, triển khai thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.

Thứ hai, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện tốt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, cải cách chế độ công vụ, công chức, viên chức; kiên quyết loại bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà khi giải quyết công việc của người dân và của doanh nghiệp. Tiếp tục rà soát, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định về quy trình, thủ tục hành chính; công khai, minh bạch các quy định về trình tự, về thủ tục hành chính tạo điều kiện cho nhân dân giám sát để kịp thời ngăn ngừa cán bộ, công chức lợi dụng kẽ hở từ những quy định của pháp luật, từ đó nảy sinh tiêu cực trong quá trình thực thi công vụ.

Thứ ba, phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, vai trò quản lý của chính quyền và vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, của nhân dân trong việc nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống các chuẩn mực, quy tắc, nguyên tắc, hành vi trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức, viên chức và đạo đức công vụ đã được quy định ở Luật Cán bộ, công chức, Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Từng bước đổi mới và cải cách công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức ở tất cả các khâu, từ tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, đánh giá đến việc giải quyết các chế độ, chính sách theo đúng các nguyên tắc trong thi hành công vụ, theo đúng Luật Cán bộ, công chức.

Thứ tư, nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ; thông qua học tập, rèn luyện và thực tiễn thực thi công vụ để tự bồi dưỡng, tự rèn luyện nâng cao đạo đức công vụ. Khuyến khích tính năng động, sáng tạo của cán bộ, công chức, viên chức trong hoạt động công vụ với việc bảo đảm chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp; trọng dụng người tài, thực hiện tốt nguyên tắc công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm. Cải cách hệ thống tiền lương, tiền thưởng, bảo đảm trả đúng sức lao động và giá trị cống hiến của cán bộ, công chức, tạo động lực thực thi công vụ ngày càng tốt hơn. Cán bộ, công chức, viên chức cần phấn đấu để trở thành chuyên gia giỏi trong lĩnh vực chuyên môn mà mình đảm nhiệm, thay vì tìm mọi cách để trở thành người lãnh đạo, quản lý trong khi trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, phương pháp, tác phong công tác còn nhiều bất cập, hạn chế so với yêu cầu.

Thứ năm, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm tra, giám sát các hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực thi công vụ. Có cơ chế hữu hiệu để người dân được thực hiện quyền giám sát để hạn chế tình trạng cán bộ, công chức, viên chức vi phạm đạo đức công vụ. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên và định kỳ các hoạt động công vụ. Chú trọng công tác thi đua, khen thưởng và xử lý vi phạm; phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, cũng như khen thưởng, động viên kịp thời những tấm gương điển hình của những cán bộ, công chức luôn nêu cao tinh thần đạo đức công vụ, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân./.

 

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG, SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

 

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm nhận thấy sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo khẳng định: Ý chí của nhân dân chính là thành trì vững chắc nhất để giữ nước. Nguyễn Trãi lấy tư tưởng “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” làm nền tảng để phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân, đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Trung thành vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng, củng cố ngày càng vững chắc. Nền tảng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Đồng thời, sức mạnh ấy được tạo nên từ mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và nhân dân; niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Đó còn là sự đoàn kết trong Đảng, giữa các giai tầng xã hội, cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là sự đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.

Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình mới, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc. Việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số… Để kịp thời khắc phục những tồn tại trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023, Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Nghị quyết xác định mục tiêu: “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hiện thực hóa mục tiêu đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành cần chủ động tổ chức tốt việc nghiên cứu, học tập và quán triệt đầy đủ, sâu sắc nội dung cốt lõi của Nghị quyết cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Triển khai thực hiện Nghị quyết bằng các chương trình, kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế của cơ quan, đơn vị, địa phương.