Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

HIÊN NGANG NHÀ GIÀN DK1/9 (BA KÈ) GIỮA BIỂN KHƠI

 Những Nhà giàn sừng sững giữa biển khơi như những cột mốc vững chắc canh giữ thềm lục địa phía Nam Tổ quốc, cùng với quần đảo Trường Sa làm điểm tựa vững chắc cho ngư dân yên tâm bám biển.

Hơn 30 năm trước, những con tàu đơn sơ chở theo các chiến sĩ cùng những thiết bị đo độ sâu trên biển đã ra khơi khảo sát, đo đạc trên vùng biển phía Nam Tổ quốc.
Sau những nỗ lực, đoàn khảo sát đã tìm ra các khu vực cạn và định vị được các bãi đá ngầm san hô Phúc Tần, Phúc Nguyên, Ba Kè, Tư Chính, Quế Đường... Từ những dữ liệu đó, hệ thống nhà giàn DK1 được xây dựng.
DK là chữ cái đầu viết tắt của cụm Dịch vụ Kinh tế - Khoa học Kỹ thuật, là công trình phục vụ mục đích dân sự trên biển. Số 1 chỉ những nhà giàn ở vòng ngoài cùng, xa nhất, so với phía gần đất liền hơn là hệ thống DK2.
Các giàn DK1 được xây dựng trên thềm lục địa phía Nam của Việt Nam, cách đất liền khoảng 250 - 350 hải lý. Mỗi nhà giàn cao hơn 30m so với mực nước biển, độ sâu từ chân nhà giàn trên mặt biển tới đáy san hô chừng 20-25m. Hệ thống cọc móng của nhà giàn cắm sâu vào san hô để giữ vững cho nhà giàn.
Nhà giàn DK1/9 (Ba Kè) xây dựng trên bãi Ba Kè hiện đã được đầu tư hệ thống pin năng lượng mặt trời, viễn thông, trồng được rau xanh nhưng vẫn còn nhiều thiếu thốn, điều kiện sinh hoạt khó khăn, đặc biệt là vào mùa biển động. Nhưng các chiến sĩ vẫn luôn lạc quan, hết mình và kịp thời hỗ trợ ngư dân, tàu thuyền khi gặp sự cố./.
St

THIÊNG LIÊNG “MƯỜI LỜI THỀ DANH DỰ”

 Vào một đêm tháng 11/1944, trong cuộc gặp tại Pác Bó (Cao Bằng), lãnh tụ Hồ Chí Minh nói ý định thành lập đội quân vũ trang chủ lực đầu tiên của Việt Minh với đồng chí Võ Nguyên Giáp. Người nói: "Đây là việc hệ trọng. Đoàn thể giao cho chú cáng đáng, chú có làm được không?". Đồng chí Võ Nguyên Giáp trả lời: "Thưa Bác, nhất định làm được ạ!".

Ngày hôm sau, Bác còn căn dặn Đồng chí Võ Nguyên Giáp nhiều điều nữa về công tác chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; yêu cầu phải thành lập nhanh và khi thành lập phải có “những lời thề danh dự”.
Theo tinh thần đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp soạn thảo “Mười lời thề danh dự”. Khoảng 17 giờ ngày 22/12/1944, đồng chí chủ trì Lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và trân trọng đọc “Mười lời thề danh dự” trong lễ thành lập. Về thời khắc lịch sử này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng kể lại: “Giữa mùa đông, tiết trời non cao lạnh buốt, nhưng mọi người đều rất phấn khởi. Trên một khoảng đất rộng giữa khu rừng đại ngàn với những hàng cây thẳng tắp, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân lần đầu tập hợp đội ngũ chỉnh tề dưới lá cờ đỏ thắm. Tôi được ủy nhiệm thay mặt đoàn thể tuyên bố thành lập đội và vạch rõ nhiệm vụ của đội với Tổ quốc”. Sau lời tuyên bố của đồng chí Võ Nguyên Giáp, đại diện Liên Tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng đọc thư chúc mừng, đại diện các tổ chức nông dân, thanh niên, phụ nữ, các đội vũ trang địa phương cũng lên chúc mừng đội bằng những lời cảm động, đầy tin tưởng và thương yêu; tiếp đó, lễ tuyên thệ của đội diễn ra.
Mười lời thề bao hàm nhiều mặt trong phẩm chất của người chiến sĩ, nhưng tựu trung nhất là lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; là vấn đề có tính nguyên tắc của một đội quân cách mạng mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam giáo dục, rèn luyện. Lòng trung thành của đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, của Quân đội nhân dân Việt Nam được xác định, xây đắp trong mỗi quân nhân. Khi vào quân ngũ, người chiến sĩ tự hào đọc “Mười lời thề danh dự của quân nhân” mà thế hệ cha anh trao lại. Và mười lời tuyên thệ được đọc thường xuyên trong lễ chào cờ của đơn vị, nhắc nhở mọi quân nhân phấn đấu làm tròn bổn phận của mình, xứng đáng là người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Nghi thức này và mười lời thề trong hơn 80 năm qua đã trở thành truyền thống lịch sử của Quân đội ta.
80 năm qua, tuy có thay đổi một số điểm về ngôn từ cho phù hợp, nhưng cốt lõi của mười lời thề danh dự hầu như không thay đổi, cho thấy tầm nhìn bao quát từ quá khứ đến tương lai của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trải qua 80 năm, mười lời thề vẫn còn nguyên giá trị, vẫn ngày đêm nhắc nhở các quân nhân trong mỗi hành động đời thường cũng như khi đối mặt với quân thù, luôn nêu cao quyết tâm, hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao phó./.
St

05 ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHẨM CHẤT “BỘ ĐỘI CỤ HỒ”

 Một là, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Kiên định lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Hai là, có đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, chân thành, lạc quan; nói đi đôi với làm, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân, không thỏa mãn với thành tích, không chùn bước trước khó khăn, hiểm nguy.
Ba là, tích cực huấn luyện, học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi mặt và kiến thức chuyên môn; có phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao; gương mẫu trong công tác, sinh hoạt; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Bốn là, có tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; giữ vững nguyên tắc, phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến góp ý với tinh thần cầu thị. Kỷ luật tự giác, nghiêm minh; gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của Quân đội.
Năm là, chăm lo xây dựng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt, lắng nghe, tôn trọng, học hỏi, giúp đỡ, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Có tinh thần đoàn kết quốc tế, mở rộng và tăng cường đối ngoại quốc phòng góp phần tích cực bảo vệ môi trường hòa bình khu vực và thế giới./.
ST

NHÂN DÂN BIẾT CẢ ĐẤY!

 Phát biểu tại Phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Công tác nhân sự Đại hội phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, khoa học và nhất quán, bảo đảm thật sự công tâm, thật sự trong sáng, khách quan, đặc biệt phải "có con mắt tinh đời"… “. Muốn có được “con mắt tinh đời” đó, phải dựa vào Nhân dân vì “Nhân dân biết cả đấy!”

Công tác nhân sự đại hội không chỉ đơn thuần là một trong những nội dung quan trọng của một đại hội đảng mà còn là yếu tố quyết định đến kết quả thực hiện nghị quyết đại hội, suy rộng ra là vận mệnh của đảng, sự tồn vong của chế độ, quốc gia, dân tộc. Bởi thế, cứ mỗi dịp chuẩn bị kỳ đại hội đảng các cấp, người dân và hàng triệu đảng viên cả nước lại ngóng trông, dõi theo những ai sẽ được đảng cử, dân bầu bước vào điều hành bộ máy lãnh đạo các cấp; để thay mặt nhân dân gánh vách giang sơn, đất nước. Háo hức, tin tưởng thì nhiều nhưng cũng không khỏi ruột gan lo lắng; băn khoăn liệu chúng ta có để những con sâu mọt, thậm chí cả sâu “cải trang”, trà trộn, lọt vào bộ máy lãnh đạo của đảng như nhiệm kỳ vừa qua hay không?
Đường đi của những "con sâu"
Chúng ta hoàn toàn tự tin khẳng định rằng, với hệ thống văn bản, quy chế, quy định về tổ chức đại hội đảng các cấp khá đồng bộ, khoa học, chặt chẽ như hiện nay, nếu đại hội đảng ở các cấp mà đều thực hiện nghiêm túc, chất lượng, hiệu quả các khâu, các bước thì nhất định sẽ chọn lựa được đội ngũ cán bộ, đảng viên ưu tú vào hàng ngũ lãnh đạo của đảng; đó sẽ thực sự là lực lượng tinh hoa của tinh hoa. Và chắc hẳn khi đó sẽ không còn vấp phải tình trạng “nhìn gà hóa cuốc”, “thấy đỏ tưởng chín”, “thấy cái mã bên ngoài, mà che đậy cái sơ sài bên trong”… sẽ không còn phải ray rứt, nuối tiếc vì đã trao nhầm phiếu bầu cho một số cán bộ “rởm” như thời gian vừa qua.
Ai cũng biết, theo quy định mọi đảng viên đều tham gia sinh hoạt trong một tổ chức đảng, nhỏ nhất là cấp chi bộ, đây là nơi gần dân nhất, vì thế đó cũng là tổ chức hiểu dân nhất, và dĩ nhiên cũng là nơi mà dân hiểu rõ cán bộ, đảng viên nhất. Theo nhiệm kỳ, đại hội đảng ta được tổ chức ở nhiều cấp, như vậy, rõ ràng để có thể “lách” vào được vị trí lãnh đạo các cấp trong bộ máy của đảng ta, chắc hẳn những “con sâu” này đã hết sức thành thạo phép “cải trang, biến hình” để che đậy đi bộ mặt thật cũng như những tội lỗi, khuyết điểm. Không chỉ vậy, chúng còn lợi dụng một số tổ chức đảng xa rời nguyên tắc, thiếu nền nếp trong tổ chức và sinh hoạt, buông lỏng trong lãnh đạo, xuề xòa trong tiến hành các quy trình, quy định, các khâu, các bước tổ chức đại hội để qua mặt, “lòe” tổ chức, đặc biệt là trong tổ chức đại hội ở cấp nhỏ. Không chỉ vậy, để tạo dựng được hình ảnh, một số cán bộ cơ hội còn dùng nhiều thủ đoạn để “làm màu”; trước đại hội không ít phần tử còn lên cho bản thân kế hoạch xây dựng hình ảnh; “ghế to” thì kế hoạch lớn, “ghế thấp” thì kế hoạch nhỏ miễn sao có được thành tích mang dấu ấn cá nhân mình để “pi - a”. Có nơi, có cán bộ còn dựa vào uy danh, quyền thế, tiền bạc, mối quan hệ dọc ngang để tạo sức ép, hướng lái bỏ phiếu bầu cho mình; không được thì tìm cách mua quan, bán chức, mua phiếu bầu.... Ở cấp cao hơn, không ít đại hội rất chủ quan trong việc rà soát, thẩm tra, xác minh nhân sự, nhiều nơi trao trọn niềm tin, giao khoán công tác thẩm tra, xác minh nhân sự đại hội cho cấp dưới, thậm chí mắc vào tư tưởng cấp dưới đã rà soát, thẩm định rồi thì việc của cấp trên chỉ là thủ tục hành chính, là hình thức. Có nơi lại vướng vào suy nghĩ “anh ấy”, “chị ấy” đang giữ cương vị này, trọng trách kia, quan trọng như vậy rồi thì cần gì phải thẩm tra, xác minh thêm mữa? Và cứ thế đầu xuôi, đuôi lọt, từng bước chui sâu, leo cao, chễm chệ ngồi vào ghế trong bộ máy lãnh đạo.
Thực tế hiện nay, bên cạnh phần lớn cán bộ, đảng viên kiên định, tâm huyết, trách nhiệm, tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích của nhân dân, của quốc gia- dân tộc và mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, xứng đáng là công bộc của nhân dân thì Đảng ta cũng thẳng thắn thừa nhận: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý…chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, nói nhiều làm ít; còn cán bộ, đảng viên trục lợi, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước, gây ra dư luận xấu trong xã hội, làm ảnh hưởng đến uy tín Đảng, mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thờ ơ, vô cảm, “tự diễn biến”, "tự chuyển hoá”, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Rất đau lòng trước những sai phạm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ chủ trì, chủ chốt, đảm nhiệm những chức vụ cao, quan trọng trong các cơ quan Đảng, Nhà nước thời gian qua. Điều đó đã làm giảm sút uy tín, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ. Những sai phạm trên cũng là “mảnh đất mầu mỡ”, cơ hội để các thế lực thù địch được đà điên cuồng chống phá, lợi dụng các “hiện tượng” để xuyên tạc “bản chất”- chủ trương, đường lối, chính sách, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; bôi nhọ, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta…
Những con số thống kê về số lượng các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, pháp luật bị xử lý trong thời gian qua cho thấy tình trạng suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên trước tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, trước cám dỗ của vật chất. Điều đó lý giải tại sao Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ, toàn diện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nhất là công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, quyết tâm làm trong sạch về tổ chức cũng như đội ngũ cán bộ, đảng viên, coi đây là nhiệm vụ hệ trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vạch lá bắt sâu - hết rồi thời “3 ệ” - xin chào thế hệ “3T”
Ở một số nơi, đi đến đâu dân tình cũng xôn xao, bức xúc về tình trạng cán bộ thăng tiến nhờ cái gói là “3 ệ” được hiểu ra là “quan hệ, hậu duệ, tiên tệ” len lỏi vào bộ máy lãnh đạo của đảng; dân tình xì xào rằng cái “quỹ đất” đặc biệt là những nơi mà họ vẫn gọi là “vị trí quyền lực” dành cho hiền tài, người thực sự tiêu biểu về phẩm chất và năng lực bước chân vào là rất hiếm, vô cùng khó khăn, gần như không còn nữa, mà nếu có còn thì cũng khó mà đến lượt. Sẽ là tai họa khôn lường cho đảng, nguy hại cho nước, cho dân nếu như để lọt những thành phần “3 ệ” kia vào bộ máy lãnh đạo, đặc biệt là những vị trí trọng yếu.
Mặc dù Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quy định; đặc biệt là Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị, ngày 23/9/2019 về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền, đây được ví như một bản tuyên ngôn về công tác cán bộ; cũng là lần đầu tiên trong quy định, Đảng ta đã nêu rõ các cơ chế kiểm soát quyền lực, nhận diện 6 hành vi chạy chức, chạy quyền, 8 hành vi bao che, tiếp tay cho chạy chức, cũng như quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong chạy chức, chạy quyền và xử lý các hành vi. Quy định đã nhận được sự quan tâm, đồng tình ủng hộ của rộng rãi xã hội, dư luận cho rằng, đảng ta đã nhìn rõ, đánh trúng vào yếu điểm trong công tác nhân sự đại hội, tuy nhiên dường như kết quả mới chỉ dừng lại ở bước đầu.
Kỳ vọng của gần 100 triệu người dân và hơn 5 triệu đảng viên về một dân tộc Việt Nam hùng cường, đất nước Việt Nam thịnh vượng không cho phép chúng ta cả tin, tặc lưỡi, nhắm mắt làm ngơ trao quyền lãnh đạo cho những kẻ có dính líu tới những cái “ệ” ấy. Nhiệm kỳ vừa qua, chúng ta đã làm nhưng chưa triệt để, đã quyết tâm nhưng chưa đạt kết quả như kỳ vọng. Sứ mệnh của đại hội các cấp nhiệm kỳ tới là phải thực hiện triệt để hơn, quyết liệt hơn, hiệu quả hơn tâm thư mà nhân dân trao gửi, lựa chọn cho kỳ được đội ngũ cán bộ thế hệ “3 T” vừa có “Tâm”, vừa có “Tài”, vừa có “Tầm” bước vào điều hành bộ máy, lãnh đạo đất nước.
Khen cho con mắt tinh đời
Chưa bao giờ công tác lựa chọn nhân sự cho đại hội đảng các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương lại được mọi tầng lớp nhân dân quan tâm như hiện nay. Một phần vì nhân dân rất hy vọng, trông đợi vào những đột phá của bộ máy lãnh đạo mới trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến nhanh chóng tiềm ần nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo; phần khác vì không khỏi xốt ruột, lo lắng bởi trong nhiệm kỳ đại hội vừa qua không ít cán bộ, thậm chí cả lãnh đạo chủ chốt được dân mến, dân tin bầu vào các vị trí lãnh đạo của đảng, có cả vị trí chủ chốt nhưng đã không hoàn thành nhiệm vụ, thoái hóa biến chất, phản bội Tổ quốc, trở mặt nhân dân; có tội với dân, với nước. Vì thế sau mỗi nhiệm kỳ đại hội đảng, nhất là khóa XIII vừa rồi để chúng ta thêm một lần rút ra những kinh nghiệm máu xương, chuẩn bị chu toàn hơn, cặn kẽ hơn, hiệu quả hơn cho tiến hành công tác nhân sự đại hội đảng nhiệm kỳ tới.
Hiền tài của đất nước chưa bao giờ thiếu, song ở thời nào thì cũng có sâu mọt nảy nở, sinh sôi; vì vậy, rất cần có một kỳ đại hội đảng các cấp thực sự sáng suốt, tỉnh táo, tinh tường trong công tác lựa chọn nhân sự cán bộ các cấp. Muốn làm được điều đó, thiết nghĩ trước hết những người làm công tác tham mưu cho đại hội về vấn đề nhân sự phải thực sự là những người tiêu biểu, lòng dạ sáng trong, kiểu mẫu về tính trung thực, công tâm, khách quan, bám sát và giữ vững nguyên tắc, quy chế, quy trình, quy định, đề cao trách nhiệm, phát huy dân chủ, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong tham mưu, lựa chọn nhân sự; phải chịu trách nhiệm trước đảng, nhà nước và nhân dân về chất lượng tham mưu, giới thiệu; chống các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng cán bộ ngay trong những người làm nhân sự đại hội.
Muốn tìm được cán bộ có đức, có tài thì rất cần đại hội phải nối dài tầm mắt thông qua nắm bắt dư luận, lắng nghe ý kiến phản hồi, lấy phiếu tín nhiệm của quần chúng nhân dân. Nhân dân là lưới lọc cán bộ tốt nhất cho đảng; song việc lấy ý kiến của nhân dân cũng cần phải có cơ chế phù hợp thì mới hòng mang đến dân chủ và đạt hiệu quả thực sự, thực chất như mong muốn. Cần coi trọng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm, hướng dẫn để phát huy tốt vai trò của người dân; thậm chí mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân được lựa chọn, giới thiệu nhân sự, nghiên cứu phương án minh bạch, công khai danh sách nhân sự giới thiệu vào các cơ quan đảng, nhà nước thậm chí là công khai quy hoạch nhân sự Ủy viên Trung ương để nhân dân nắm, kiểm tra, giám sát và cho ý kiến.
Không ai gần cán bộ bằng nhân dân, không ai hiểu cán bộ bằng nhân dân và cũng không ai ngoài nhân dân có thể phân biệt, nhận biết rõ hơn trong đội ngũ cán bộ ai là người thật, người giả, ai tốt, ai xấu, ai là người tận tâm, tận tụy với nước với dân và ai là người rao giảng vì dân nhưng lại thực chất là vì mình. Rất nhiều vụ án nhờ dân phát hiện, vì vậy muốn biết nhà quan chức có bao nhiêu xe, bao nhiêu nhà, đất, có giàu nhanh hay không thì nào cần đâu xa, hỏi dân là biết tường tận. Những ý kiến, phản ánh của nhân dân, của cử tri, người dân nơi công tác, cư trú, cũng như từ các tổ chức chính trị - xã hội mới thực sự là lá phiếu chuẩn xác, đáng tin cậy nhất trong lựa chọn nhân sự cho đại hội các cấp.
Cán bộ giữ vị trí, trọng trách càng cao thì càng phải lựa chọn cẩn trọng, chặt chẽ; làm đúng, làm đủ, làm hiệu quả thực sự các quy trình, các khâu, các bước; không vì vị trí hiện tại mà xuề xòa, khỏa lấp đi những “tì vết” trước đó; theo đó, rất cần tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc bước thẩm tra, xác minh; rà soát kỹ càng hiệu quả thực tế công việc mà cán bộ, đảng viên dự bầu đã từng được phân công đảm nhiệm trước đó; tránh giản đơn, nóng vội, chủ quan, đốt cháy giai đoạn, duy ý chí trong giới thiệu, lựa chọn nhân sự cho đại hội để khỏi hối tiếc và rơi vào tình trạng “tá hỏa” về những chuyện đã rồi, những hệ lụy mà họ đã “dính chàm”, gây ra trước đó. Đồng thời cũng có biện pháp để cảnh báo với những người “có vết” nên xin rút, dẹp ngay những trường hợp ngồi nhầm ghế, loại bỏ những cán bộ có tư tưởng luồn sâu, trèo cao để trục lợi. Chúng ta tin tưởng nhưng không tuyệt đối hóa, đặt trọn niềm tin vào những người đã được tôi luyện, thử thách, đi lên từ gian khó mà cần phải kiểm tra, giám sát, theo dõi thường xuyên, liên tục để họ luôn giữ vững được danh dự, thấm sâu tư cách, đạo đức cách mạng, thực sự có sức đề kháng, hệ miễn dịch tuyệt đối, không vướng vào các “tử huyệt”, tránh bị cám dỗ, lôi kéo, sa chân khi được giao những cương vị, chức trách, nhiệm vụ lớn hơn.
Một điều mà trong công tác nhân sự nhiều kỳ đại hội gần đây chúng ta đều quan tâm đó là phương hướng nhân sự đại hội phải dựa trên cơ cấu hài hòa, hợp lý về tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ thiểu số, nhà khoa học, văn nghệ sĩ, lãnh đạo một số tập đoàn, tổng công ty lớn của nhà nước đủ tiêu chuẩn, điều kiện… vừa bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, phát triển liên tục, có sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ, cân đối về số lượng và chất lượng, trong đó chất lượng là quan trọng. “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, phải thấu triệt quan điểm bảo đảm được tiêu chuẩn, tuyệt đối không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chí, tiêu chuẩn; làm tốt công tác nhân sự từ đại hội đảng bộ cấp dưới để chuẩn bị kỹ lưỡng nhân sự đại hội cho Trung ương; đặc biệt tránh tình trạng làm đúng quy trình, quy định những vẫn không chọn được đúng người, vì thế trong giai đoạn hiện nay nhất thiết phải bám sát Quy định số 214-QĐ/TW ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ theo một định lượng cụ thể; nghiên cứu, ứng dụng “phác đồ” căn cơ để điều trị dứt điểm căn bệnh mất dân chủ trong đảng, thiếu minh bạch, công tâm, khách quan trong lựa chọn, giới thiệu nhân sự đại hội.
Dưới có vững thì trên mới bền chắc, đại hội đảng các cấp có tốt thì đại hội toàn quốc mới thành công. Quá trình chuẩn bị nhân sự cho đại hội là quá trình lâu dài với nhiều khâu, nhiều bước, phải được tiến hành dày công, kỹ lưỡng, bài bản, chặt chẽ, nếu như sơ xuất, chúng ta sẽ phải trả giá thậm chí là giá rất đắt. Nhận thức chung rằng, lựa chọn đúng cán bộ, đặt họ vào đúng vị trí để phát huy tốt năng lực, sở trường của họ là trọng trách của những người “cầm lái”, vì vậy hơn lúc nào hết để lựa chọn, sàng lọc được từ trong đội ngũ tinh hoa những “anh hùng đứng giữa trần ai” đủ sức gánh vác, tô đẹp giang sơn, gấm vóc của ta thì công tác nhân sự đại hội đảng các cấp rất cần phải có một tư duy mới, cách nhìn mới và hành động mới.
Còn với mỗi cán bộ, đảng viên thiết nghĩ phải giữ đúng bổn phận, xứng đáng là công bộc của nhân dân. Muốn vậy, cần tu dưỡng “Đảng tính” thật tốt, làm việc gì cũng phải tính đến lợi ích chung của tập thể, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết; cần giữ cho mình “tâm chính”; phải làm kiểu mẫu về cần, kiệm, liêm, chính; tận tâm, tận tuỵ với công việc được giao. Mỗi cán bộ, đảng viên luôn nhắc nhở bản thân dù ở địa vị cao hay thấp, dù đảm đương công việc, nhiệm vụ lớn hay nhỏ, cán bộ cấp trung ương hay cơ sở…thì đều là đày tớ, công bộc của nhân dân; không để mắc các bệnh như quan liêu, mệnh lệnh, xa dân, kiêu ngạo, thờ ơ với nhân dân, nói suông, tự kiêu, tự đại, xa xỉ, vô cảm, thiếu và sợ trách nhiệm…phải tự học tập nâng cao trình độ mọi mặt, luôn giữ được phẩm giá, nhân cách của người cộng sản trước nhân dân, có vậy mới lãnh đạo được cơ quan, đơn vị, mới phục vụ được nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên tự suy ngẫm, rút ra cho mình bài học kinh nghiệm, để không đi vào “vết xe đổ”, đồng thời cần đấu tranh mạnh mẽ với những hành vi sai trái như “lợi ích nhóm”, tạo “uy tín giả”, “làm xiếc”, bệnh sĩ diện, thích sống sang, ăn sang, tiêu sang, chơi sang…
Suy cho cùng, mọi thành công hay thất bại đều do yếu tố con người và tất nhiên sự thành bại của cách mạng cũng chủ yếu do cán bộ, đảng viên của Đảng tốt hay xấu. Hiện nay, Đảng rất cần những cán bộ, đảng viên thực sự trung thành, trong sạch, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc; luôn nói đi đôi với làm, chí công vô tư, hết lòng, hết sực phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng có thành công được hay không tuỳ thuộc rất lớn vào những cống hiến, hy sinh của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Do vậy, công tác lựa chọn nhân sự của Đảng thời gian tới cần tiếp tục đổi mới, phải thực sự soi sao cho kỹ, chọn sao cho đúng để tìm được những người có “mắt sáng”, “lòng trong”, “tay sạch” đứng ra gánh vác việc non sông./.
St

TRÒ CHUYỆN VỚI CHÁU VỀ SƯ MINH TUỆ

 Sự kiện sư Minh Tuệ xuất hiện không chỉ làm rung chuyển xã hội như sóng trào, mà còn tác động mạnh mẽ thấm sâu vào tâm trí mỗi con người dài lâu…

Đứa cháu H.P của tôi có nhiều băn khoăn, tâm tư về chuyện này. Nay ông trao đổi với cháu về những băn khoăn bằng mấy câu hỏi - đáp dưới đây.
1. Đạo Phật tu như sư Minh Tuệ: Vô sản là hạnh phúc, vậy không cần phấn đấu làm giàu thì xã hội phát triển làm sao?
- Nước ta có 100 triệu người, có hơn 40.000 tăng ni mà cả nước chỉ có 01 sư Minh Tuệ tu “Hạnh đầu đà” thôi. Nhưng một mình ông tu như vậy đã giúp mọi người tỉnh ngộ ra, thấy Chân lý của Đạo Phật chân thật, giản dị như thế nào, để tu tập cho đúng. Chỉ vậy thôi, đóng góp của ông là vô giá.
Còn mọi người muốn hạnh phúc thì phải phấn đấu làm thật tốt công việc của mình và sống một cách có PHẬT TÍNH, như thầy Minh Tuệ nói: Bớt Tham, Sân, Si, đừng có trộm cắp, tà dâm, nói láo… Nghĩa là sống, làm việc có Trí tuệ và lòng Từ bi; giàu có, nhưng sống giản dị, tiết kiệm, biết chia sẻ giúp đỡ mọi người… thì mới hạnh phúc. Còn chỉ tham giàu vật chất mà tâm bất thiện thì luôn bất an, đau khổ, chứ hạnh phúc sao được. Thực tế xã hội chưa bao giờ phơi bày ra biết bao nhiêu “tấm gương” tham, sân, si - vô minh dẫn đến thân bại, danh liệt để ta suy ngẫm thấm thía như thời nay.
Nên tuổi trẻ phải nhớ: KHOA HỌC và ĐẠO PHẬT là hai thanh đường ray đưa con tàu xã hội tới văn minh, hạnh phúc. (Câu này của một hiền nhân nói, ông đọc lâu quá, quên tên rồi). Phải giỏi khoa học, công nghệ, đồng thời biết tu tâm làm hiển lộ Phật tính thì cá nhân mới có hạnh phúc, xã hội mới tốt đẹp.
2. Tu để hạnh phúc, nhưng ông Minh Tuệ tu khổ thế thì ai học được?
- Tâm nguyện, lý tưởng của ông Minh Tuệ là tu để giải thoát hoàn toàn, “thoát khỏi luân hồi sinh tử” noi theo Đức Phật, nên ông xả bỏ triệt để, tận cùng Tham, Sân, Si, Ngã chấp, buông bỏ mọi dính mắc ở đời, kể cả gia đình, cha mẹ; tối giản nhu cầu vật chất để nuôi sống cái xác thân chỉ cần ở mức tối thiểu nhất cho sự sống còn. Người thường thấy ông ấy khổ cực vô cùng, nhưng ông ấy rất hạnh phúc vì mỗi phút giây thấy mình vượt qua tất cả khổ đau, hoan hỉ dấn bước trên con đường tu tập đi gần đến Chân lý…
Ta người thường, tu theo lời Phật dạy để sống giàu có, văn minh mà lương thiện an vui, hạnh phúc, chứ cháu đừng có xuất gia vào chùa, cũng đừng bắt chước tu “Hạnh đầu đà” như sư Minh Tuệ, con gái càng không tu như thế được!
3. Sao lại phải ăn một bữa, ngủ ngồi, mặc áo vá…?
- Ăn một bữa cũng đủ sống, đi bộ cả ngày đấy thôi; ai cho đồ chay là ăn, không kén chọn… Đó là để diệt cái tâm Tham ăn (Muốn ăn nhiều bữa, ăn vặt, ăn của ngon vật lạ, thèm sơn hào hải vị…).
- Ngủ ngồi là đối trị với tâm tham ngủ nằm, ngủ nướng, nằm ì lười biếng… Ngồi thiền, lúc mệt, buồn ngủ thì chợp mắt một lúc, rồi tỉnh thức…
- Mặc “Y phấn tảo” là tiết kiệm tột cùng, chỉ nhặt những mảnh vải người ta vứt bỏ, chắp vá vào may “ba y”, đối trị hoàn toàn với tâm Tham, si mê chạy theo các mốt, mua sắm hàng trăm bộ áo quần xa hoa, lãng phí…
- Ngủ ở ngoài trời, nghĩa địa, gốc cây… để đối trị với tâm tham đắm vào giường êm, đệm ấm, điều hoà nóng lạnh…
- Đầu trần, chân đất đi bộ vẫn đi khắp mọi miền đất nước như Tổ tiên ta ngày xưa, sao bây giờ mấy bước là lên xe, xuống tàu?
Tóm lại, tự nguyện sống khổ tột cùng để trải nghiệm nỗi khổ, biết khổ, vượt khổ được, tâm sẽ không vướng mắc gì, ngập tràn niềm an lạc…
Còn một lý do sư Minh Tuệ mặc “Y phấn tảo”, ôm ruột nồi cơm điện đi khất thực để không lẫn với các sư ở chùa mặc áo vàng, cầm bình bát “xịn” giả vờ đi khất thực quanh chùa…
Từ những phân tích trên, ta phải xem lại mình, xem đã sống lãng phí biết bao mà vẫn muốn thật nhiều nữa; chính lòng ham muốn vô độ ấy làm ta khổ trong tâm và khổ lây người khác. Hãy buông xả bớt đi, cuộc sống sẽ đơn giản, nhẹ nhàng, tâm sẽ an lạc, tươi vui hơn.
4. Sao đầu trần, chân đất mà ông đi khắp đất nước làm gì?
- Thì ông Minh Tuệ đã nói: Mấy năm tu ở một chỗ, đi khất thực loanh quanh thì cảm thấy chưa hiểu đời, hiểu mình, nên muốn “ra đời” xúc chạm xã hội để tập học được nhiều điều. Đó chính là tu. Mấy năm ông ít giao tiếp xã hội nên nói năng vụng về, có người cho là “nói ngô nghê”... Đi khắp các vùng miền, gặp đủ mọi hạng người trong xã hội, có người thương hoan hỉ bố thí; có người vừa cho vừa khinh; có người xua đuổi, mắng chửi, nhiếc móc, thấm chí bị đánh hộc máu mồm… Đó đều là tu, vượt qua mọi kiếp nạn để trau dồi bản lĩnh kiên cường, nhẫn nhục, từ bi, trí tuệ. Đúng là để rèn luyện sức khỏe cả thể xác và tâm trí, hiểu Trời, hiểu Đất, hiểu Người, hiểu Mình… Có tu vậy mới hy vọng thành bậc đại Trí, đại Bi, đại Dũng …
Tuổi trẻ muốn trưởng thành cũng phải rèn luyện, trải nghiệm trong thực tiễn xã hội khắc nghiệt, chứ những cô chiêu, cậu ấm sống trong nhung lụa, kẻ hầu người hạ, yếu hèn, rồi thành “thái tử đỏ” thì chỉ ăn tàn, phá hại là chính!
5. Sao với ai ông ấy cũng xưng “Con”?
- Cháu thấy những người xưng “Thầy”, “Sếp”, “Bác”, “Chú”, “Cô”, “Anh”, “Chị”, “Tao”... là thể hiện bề trên với người đối thoại- tự cho cái “Ngã” của mình cao hơn; người xưng “Trẫm”, “Sư phụ”... tự coi “Ngã” của mình là “siêu”; còn “Mày có biết “bố” là ai không”? cái “Ngã tướng” mới kinh! Khi cái “Ngã” dính chặt vào tâm, sinh ra Ngã mạn, Ngã ái, Ngã kiến, Ngã tướng, Ngã si… làm con người dễ u mê, nói năng, hành động mù quáng.
Khi xưng “CON” với mọi người, ông Minh Tuệ muốn buông bỏ cái “Ngã”, đến tận cùng, coi mình thấp kém, hèn hạ; ai có coi thường, khinh bỉ mình cũng không sao cả!
Ta là người bình thường, trong quan hệ xã hội, phải vừa biết khẳng định “cái Tôi” của mình một cách đúng đắn vừa biết khiêm nhường với tất cả.
6. Tuổi trẻ có thể học gì từ sư Minh Tuệ?
- Sống có mục đích, lý tưởng, hoài bão xa xa, chứ đừng quá thực dụng, “gà què ăn quẹn cối xay”! Thành bác sĩ, kỹ sư, doanh nhân, nhà nông giỏi, sĩ quan giỏi, thợ giỏi, nhà khoa học, nhà giáo, nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động xã hội uy tín…”nhà” gì đã chọn lựa thì phải toàn tâm, toàn ý “tu tập” đến nơi đến chốn, mới hy vọng đạt đến tầm cao của quốc gia, quốc tế.
- Để đạt đến mục đích xa ấy phải kiên trì học tập, làm việc âm thầm bền bỉ, trung thực, vượt qua mọi khổ nạn, như sư Minh Tuệ phải qua 8 năm mới lộ diện và bừng sáng, rồi vẫn phải tiếp tục tu tập…Ta phấn đấu nhưng không phải kiểu “hy sinh đời bố, củng cố đời con” hay “Gian khổ ba năm, hạnh phúc muôn đời” như khẩu hiệu xạo, mà cảm thấy vui thích trong từng việc làm trung thực, hữu ích…Hạnh phúc trên con đường đi đến đích chứ không phải khi “đạt thành tích thi đua”, “nhận bằng cấp”, “giấy khen”... mới “ăn mừng hạnh phúc”!
- Trong đời sống vật chất, biết đủ, biết dừng, sống chân thật, giản dị, tiết kiệm cho tâm nhẹ nhàng, thanh thản; đừng sống buông thả, phóng thể, chạy theo lối ăn chơi vô độ, hoang phí thời gian, sức lực, tiền bạc vô ích; cần nghiêm khắc với bản thân, biết tồn tâm, dưỡng khí, sống lành mạnh, làm những việc có ích, sẽ thấy hạnh phúc.
- Hãy quan sát, phân tích tâm của mình để hiểu bản thân, biết quý trọng bản thân, chăm sóc bản thân cho tốt, đẹp, từ đó mới hiểu người, biết quý trọng người khác… Cũng gọi là sống Từ bi và Trí tuệ.
- Hãy tu tâm theo lời Phật: Bớt Tham, Sân, Si, không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, không nói láo, không nói lời độc ác, vu khống, bịa đặt, tuyên truyền dối trá; không ngã chấp, mơ tưởng hão huyền… Sống chân thật, vui vẻ mỗi ngày, làm tốt từng việc, sẽ thấy vui thích trong từng ý nghĩ, lời nói, việc làm.
Thôi tạm thế đã. Biết đến đâu hãy thực hành đến đó, qua trải nghiệm mới nhận ra sự thật. Đó là Giác ngộ. “Ngộ ra” mới tự mình thay đổi được. Có thay đổi gì hãy chia sẻ với ông nhé.
Ông yêu cháu.
St

THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG TÁC PHẨM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, có nội dung rộng lớn, phong phú, phức tạp. Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng ta luôn bổ sung, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề này một lần nữa được làm sâu sắc hơn trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất nước, từng bước xây dựng, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có quan niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trước đây quan niệm về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn bộc lộ một số hạn chế; về cơ bản chưa đề ra được cách thức, biện pháp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hệ quả, kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX.
Để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới (năm 1986), mà trước hết là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chính vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lần đầu tiên Đảng ta phác thảo ra mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua các kỳ Đại hội sau đó, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”. Vấn đề này một lần nữa được làm sáng rõ, sâu sắc hơn trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Trước hết, nội dung trong tác phẩm đã khẳng định tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”.
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và bằng cách nào để đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam là một vấn đề không hề đơn giản cả về lý luận và thực tiễn, “đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam”. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho rằng, để chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, lạc hậu lên hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ quá độ dài hay ngắn tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, cách thức, biện pháp đi lên xây dựng chế độ mới của từng quốc gia - dân tộc. Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào? Đây là vấn đề không đơn giản, bởi trước đổi mới chúng ta còn nhiều hạn chế trong nhận thức và hành động, muốn đốt cháy giai đoạn. Tổng kết thực tiễn cách mạng, nhất là thực tiễn của công cuộc đổi mới xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...”. Vì vậy, “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách chống phá nên càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải thực hiện đồng thời các phương hướng, nhiệm vụ:
Một là, “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”. Đây là nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ, chuẩn bị đầy đủ điều kiện kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội. Để chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trước hết phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, trong đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là nội dung cốt lõi để thực hiện mục tiêu đó, nhất là trong điều kiện chịu tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thì vai trò của kinh tế tri thức ngày càng quan trọng. Để thực hiện mục tiêu này, phải phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Hai là, “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cùng với quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng đúng, đầy đủ, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, thì nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng từng bước được hình thành và phát triển. Theo đó, “đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn chỉ rõ, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”.
Ba là, “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Xây dựng nền văn hóa và con người xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ quá độ lên xây dựng chế độ mới. Xóa bỏ những tàn dư, yếu tố văn hóa lạc hậu cản trở sự phát triển của xã hội; giữ gìn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người. Vì vậy, trong phát triển kinh tế phải gắn với nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Theo đó, “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Bốn là, “bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, phương châm đặt ra cần thực hiện là phải bảo đảm tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đây là điều kiện góp phần ổn định chính trị, xã hội để phát triển đất nước trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Năm là, “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc và lợi ích của toàn nhân loại. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”.
Sáu là, “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại”. Dân chủ hóa đời sống xã hội đang là xu thế chung của sự phát triển loài người. Để thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo ra sự đồng thuận xã hội, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”.
Bảy là, “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Cùng với quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì nhận thức về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng từng bước được hình thành và phát triển. Theo đó, “chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”. Vì vậy, “chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”.
Tám là, “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”. Yếu tố quyết định nhất của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải xây dựng Đảng xứng đáng là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý phát triển đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa… Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa,... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”.
Như vậy, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phải xác định đúng đặc điểm, nội dung, thực chất của thời kỳ quá độ, để từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện đúng định hướng. Đây là thời kỳ có sự đấu tranh, đan xen giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh thành tựu, những mặt tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. “Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Đây là những chỉ dẫn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt trong nhận thức và hành động để từng bước hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.
ST

CHIẾC MÁY LẶN CỦA ANH HÙNG NGUYỄN HÙNG LỄ.

 Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đang lưu giữ hiện vật là chiếc máy lặn làm bằng hợp kim nhôm, vòi cao su, có đồng hồ, do Liên Xô sản xuất. Máy lặn kích thước 25cm x 43cm của Thiếu úy, Anh hùng LLVT nhân dân, Liệt sĩ Đặc công Nguyễn Hùng Lễ.

Khi hy sinh, đồng chí Nguyễn Hùng Lễ là Phân đội trưởng Phân đội 1, Đoàn 126 (nay là Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126), Quân chủng Hải quân.
Đồng chí Nguyễn Hùng Lễ quê ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1961, đồng chí nhập ngũ và nhận nhiệm vụ ở Đoàn 126. Với năng khiếu bơi lội giỏi, đồng chí cùng chiếc máy lặn đã góp phần làm nên nhiều chiến công hiển hách lưu danh trong lịch sử của Bộ đội Hải quân. Điển hình là: Vào đêm 29-6-1967, đồng chí Nguyễn Hùng Lễ và chiến sĩ Thìn tiêu diệt chiếc tàu LST trọng tải 500 tấn chở nhiều xe tăng và vũ khí của địch đang đậu ở cảng Cửa Việt (Quảng Trị). Đây cũng là chiếc tàu vận tải cỡ lớn đầu tiên bị Đoàn 126 đánh chìm bằng khí tài kỹ thuật. Đêm 1-9 rạng sáng 2-9-1967, đồng chí Nguyễn Hùng Lễ cùng 3 đồng chí dùng máy lặn, mang 300kg thuốc nổ tiến công cụm tàu giặc đậu trong cảng Đông Hà (Quảng Trị), đánh chìm tại chỗ 5 chiếc tàu (3 chiếc LCU, 2 chiếc LCM) và làm thiệt hại 2 chiếc LCU khác, lập công xuất sắc...
Vào tháng 2-1968, khi quân ta mở chiến dịch ở mặt trận phía Bắc Quảng Trị, đồng chí Nguyễn Hùng Lễ nhận nhiệm vụ chỉ huy tổ Đặc công đánh sập cầu Đông Hà nhằm chặt đứt con đường tiếp viện của địch lên mặt trận phía Bắc. Đêm 5-2-1968, trong khi tiếp cận cầu Đông Hà cách khoảng vài chục mét thì tổ đặc công bị lộ và bị thương do trúng đạn của địch. Tuy vậy, đồng chí Nguyễn Hùng Lễ vẫn quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Để giảm thương vong, đồng chí lệnh cho bộ đội rút lui, còn đồng chí tiếp tục ôm bộc phá tiếp cận đánh cầu. Sau một tiếng nổ vang trời, cây cầu bị đánh sập, đồng chí Nguyễn Hùng Lễ đã anh dũng hy sinh. Đồng chí Nguyễn Hùng Lễ được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân ngày 20-9-1971./.
St

BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ NÓI VỀ NGUYÊN NHÂN CHƯA CÓ BẢNG LƯƠNG MỚI

 Theo Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, việc bãi bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương để xây dựng các mức lương cơ bản trong các bảng lương mới có nhiều bất cập...

Nhiều vướng mắc trong thực hiện cải cách tiền lương
Phát biểu tại phiên thảo luận tổ của Quốc hội về các nội dung cải cách tiền lương; điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và trợ cấp xã hội từ ngày 01-7-2024, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà khẳng định, cải cách chính sách tiền lương là một vấn đề lớn, hệ trọng, liên quan trực tiếp đến kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp tới gần 10 triệu cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người có công.
Đồng thời, cũng tác động trực tiếp tới khoảng 10 triệu đối tượng hưởng chính sách xã hội hiện nay và khoảng gần 15.000 lao động trong doanh nghiệp (nhà nước và tư nhân).
Do đó, khi triển khai Nghị quyết số 27 của Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, Thủ tướng Chính phủ và Thường trực Chính phủ tổ chức 21 cuộc họp thảo luận kỹ lưỡng về các nội dung cải cách tiền lương; điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và trợ cấp xã hội từ ngày 01-7-2024.
Đồng thời, Thường trực Ban chỉ đạo đã tổ chức lấy ý kiến các ban, bộ, ngành, chuyên gia, nhà quản lý để hoàn thiện dự thảo báo cáo. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Bộ Nội vụ, việc bãi bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương để xây dựng các mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể trong các bảng lương mới có nhiều bất cập. Điển hình như tương quan tiền lương mới chưa hợp lý giữa các đối tượng hưởng lương.
"Đối tượng thì được tăng cao trên 30%, đối tượng thì tăng dưới 5-7-15%, nhưng rất nhiều đối tượng tăng thấp hơn so với lương hiện hưởng. Đặc biệt là bảng lương đối với chức vụ và chức danh lãnh đạo", Bộ trưởng Bộ Nội vụ nói và nhấn mạnh đây là phát sinh lớn nhất.
Một vấn đề phát sinh khác, theo Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà, là khi thay đổi cơ cấu quỹ phụ cấp (sẽ giảm 24% so với hiện nay) và bỏ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức, viên chức một số chuyên ngành (chỉ quy định đối với lực lượng vũ trang), phải sắp xếp lại nhiều chế độ phụ cấp hiện nay thành một chế độ phụ cấp mới nên kéo theo nhiều khó khăn.
"Những đối tượng chúng ta muốn quan tâm để bảo đảm tiền lương như giáo viên, y tế thì rất khó thực hiện. Vì lương hiện hưởng của những đối tượng này đang được hưởng phụ cấp rất cao. Nếu công tác ở vùng đặc biệt khó khăn thì phụ cấp còn cao hơn. Nhưng khi thực hiện theo cải cách tiền lương mới thì phải sắp xếp lại tất cả phụ cấp", Bộ trưởng nói.
Một bất cập nữa được Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà chỉ ra là việc xây dựng vị trí việc làm. Dù đã triển khai xây dựng vị trí việc làm từ năm 2012 nhưng cũng còn nhiều khó khăn. Vừa qua, cả hệ thống chính trị đều gấp rút hoàn thiện và phê duyệt xong đề án vị trí việc làm nhưng nhìn chung chưa bảo đảm yêu cầu, chất lượng.
Hơn nữa, Bộ Chính trị cũng chưa ban hành được danh mục vị trí việc làm trong hệ thống chính trị, nên việc thiết kế và xây dựng vị trí việc làm, gắn với mô tả, khung năng lực của vị trí việc làm còn vướng mắc.
Trước những khó khăn trên, cuối cùng Chính phủ đã trình phương án thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo lộ trình hợp lý, từng bước, thận trọng, chắc chắn, khả thi và hiệu quả.
"Rõ đến đâu chúng ta làm đến đấy, những gì khó khăn, vướng mắc, bất cập cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, không cầu toàn, không nóng vội để bảo đảm ổn định, không xáo trộn", Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh.
Sau năm 2026 lấy nguồn đâu để cải cách tiền lương?
Theo Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, Chính phủ đã xác định rất rõ các nguồn để thực hiện cho chế độ tiền lương mới. Với việc tăng 30% mức lương cơ sở, theo tính toán của Bộ Tài chính, tổng nhu cầu kinh phí để điều chỉnh lương cơ sở tăng 30%, thực hiện tiền thưởng 10% quỹ lương cơ bản, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp lũy kế 3 năm 2024 - 2026 tăng thêm là 913.300 tỷ đồng.
“Như vậy, kinh phí tăng so với phương án ban đầu đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ sáu 127.000 tỷ đồng”, Bộ trưởng Bộ Nội vụ cho biết và thông tin, trong kỳ họp này sẽ đề xuất bổ sung thêm nguồn kinh phí này để thực hiện cải cách tiền lương cho năm 2024. Sang năm sau, tiếp tục đề xuất điều chỉnh, bổ sung thêm.
Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cũng khẳng định, Chính phủ bảo đảm được nguồn kinh phí cho cải cách chính sách tiền lương. Cụ thể, Chính phủ có tích lũy được 680.000 tỷ đồng và thời gian tới, tiếp tục nỗ lực để có thêm nhiều nguồn thu bảo đảm nguồn tiền cải cách tiền lương.
Người đứng đầu ngành Nội vụ cũng nhìn nhận, trong thời gian tới, nền kinh tế phục hồi sẽ góp phần tăng nguồn thu ngân sách; đồng thời phải kiềm chế được lạm phát. Chính phủ cũng đã lên các kịch bản rất chi tiết để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa kiềm chế lạm phát và đồng thời bảo đảm nền kinh tế vĩ mô.
Trước băn khoăn, sử dụng hết nguồn tiền tích lũy để cải cách tiền lương trong 3 năm (2024 - 2026) thì sau năm 2026 lấy nguồn đâu, Bộ trưởng Bộ Nội vụ nhấn mạnh, giai đoạn sau phải có những giải pháp quyết liệt mới bảo đảm nguồn tiền, trong đó thực hiện tiết kiệm chi, tăng thu ngân sách… Đồng thời, báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền để điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi Nghị quyết số 27 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, để tạo cơ sở thực hiện cải cách chính sách tiền lương cho giai đoạn sau năm 2026./.
ST

ĐỪNG XUYÊN TẠC, HẠ THẤP QUAN HỆ THỦY CHUNG, CHIẾN LƯỢC VIỆT - NGA.

  Sự kiện Tổng thống Liên Bang Nga (LB Nga) Vladimir Putin thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam ngay sau khi đắc cử nhiệm kỳ Tổng thống thứ 5 (2024-2030) và cũng là chuyến thăm thứ 5 Tổng thống Putin tới thăm Việt Nam là minh chứng thể hiện sự coi trọng, tin cậy chính trị dành cho quan hệ hai nước. Tuy nhiên đây cũng thời cơ và cũng là cái “cớ” để các trang mạng phản động, những kẻ luôn mặc cảm, đố kỵ, thâm thù với chế độ vu cáo, xuyên tạc, bôi nhọ Đảng và Nhà nước ta.

Chằng hạn, ngày 21/6/2024, trên Thoibao.de giật tít hỗn hào rằng “Tổng Bí thư lẫn, Đảng lòa, đất nước khốn đốn!”, xuyên tạc rằng “Tổng thống Putin của Nga bị xem là tội phạm chiến tranh, ông ta đã xua quân xâm lược Ucraina, gây ra những cái chết vô tội, vô cùng nghiêm trọng tại nước này. Vậy lý do gì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại mời một tên tội phạm như Putin sang thăm Việt nam, trong khi việc này không mang lợi ích gì cho Việt Nam, mà ngược lại gây các cảm cho các quốc gia văm minh, thậm chí có thể họ xa lánh”!? đòi Việt Nam “nếu đứng trên quyền lợi quốc gia thì Đảng cần quay lưng lại với tên độc tài sắc máu Putin, phương Tây và Mỹ mới là những người bạn thực sự, mới là nơi mà nền kinh tế Việt Nam có thể dựa vào mà phát triển. Mỹ có thể cung cấp vũ khí cho Việt Nam, thứ mà Trung Quốc không hề có, còn Nga chỉ toàn bán những thứ đồng nát, lạc hậu chất lượng thấp mà Trung Quốc cũng có và có rất nhiều. Thử hỏi Việt Nam có lợi gì”!?
BBC ngày 17/6/2024, trả lời Reuters, người phát ngôn Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội cho biết: “Không có quốc gia nào nên cho Putin một nền tảng để thúc đẩy cuộc chiến tranh xâm lược của ông ta và nếu làm vậy là cho phép ông ta bình thường hóa những tội ác của mình… Nếu ông ta có thể đi lại tự do, điều này có thể bình thường hóa những vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế”.
Trên VOA Tiếng Việt đăng quan điểm của ông Giáo sư Alexander Vuving thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh K. Inouye châu Á – Thái Bình Dương ở bang Hawaii, Mỹ cho rằng: “Đón tiếp ông Putin trong một chuyến đi kết hợp, bao gồm việc ông ấy thăm Triều Tiên, là hình ảnh xấu cho Hà Nội và sẽ mang lại một số rủi ro. Điều này có thể làm cho Việt Nam bị xem là kém tin cậy trong con mắt của phương Tây, Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng mặt khác Hà Nội sẽ tăng mức độ đáng tin cậy trong con mắt của Nga”.
Việt Tân giật tít “CSVN đón tiếp Putin thể hiện lòng trung thành với Tập Cận Bình”!? …
Có thể thấy, tất cả những lời lẽ, cùng các phát ngôn, nhận định trên là không có cơ sở, phiến diện, bịa đặt, với dụng ý nói xấu nhằm bôi nhọ, phá hoại mối quan hệ hữu nghị Việt – Nga.
Trước hết, Nga là đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, việc nguyên thủ thăm nhau, củng cố quan hệ, giống như với Hoa Kỳ, Trung Quốc, Pháp, Nhật, Úc …là vì lợi ích dân tộc, là thể hiện đúng đường lối đối ngoại theo tinh thần độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, và đóng góp vào hòa bình, ổn định trên thế giới…
Thứ hai, nhìn lại lịch sử, trải qua nhiều thế hệ, người dân Việt Nam với người dân Liên Xô trước đây cũng như LB Nga hiện nay, luôn dành cho nhau những tình cảm đặc biệt, hiếm có. Việt Nam luôn khẳng định lập trường thủy chung, xây dựng niềm tin chiến lược trong củng cố quan hệ giữa các đối tác. Cuba là minh chứng rõ nét. Trong khi đó, những tình cảm trốt đẹp, thủy chung Tổng thống Nga Putin dành cho Việt Nam, không có lý do gì, không vì bất cứ hoàn cảnh nào có thể cản trở, tác động, ảnh hưởng đến quan hệ giàu tính lịch sử, thắm tình đồng chí, thực sự như Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định, đây là cuộc gặp gỡ nồng ấm, tin cậy của những người bạn gần gũi, những tình cảm và đối thoại chân thành “từ trái tim đến trái tim”. Nhân dân Việt Nam luôn biết ơn sâu sắc và ghi nhớ tình cảm gắn bó, thủy chung của những người bạn Nga. Việt Nam và Nga sẽ tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, tin cậy lẫn nhau, tiếp tục kề vai sát cánh giúp nhau vượt qua khó khăn, thử thách, vì lợi ích của nhân dân hai nước.
Cùng bày tỏ chứng kiến, phản bác lại các luận điệu bịa đặt, xuyên tạc của các phần tử chống đối Việt Nam, chính ông Ian Storey, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện nghiên cứu đông nam Á ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở tại Singapore, khẳng định với Reuters, một cách thẳng thắn, công bằng, không thiên vị, mạch lạc, rằng “Trên quan điểm của Hà Nội, chuyến thăm của ông Putin nhằm ‘chứng tỏ rằng Việt Nam theo đuổi đường lối đối ngoại cân bằng, không đi theo bất kỳ cường quốc nào’”. Trên thực tế, Việt Nam không chọn phe, không chọn bên. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 chỉ rõ chính sách quốc phòng “4 không”, đó là: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Điều này cũng từng được minh chứng, khi Mỹ và Triều Tiên đều chọn Việt Nam là địa điểm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Triều lần 2 (tháng 2/2019). Lý giải, vì sao cả hai nước trên đều chọn Việt Nam? Việt Nam là biểu tượng của một tiến trình bước qua chiến tranh, khép lại quá khứ, mở cửa hội nhập và phát triển tiến lên. Việt Nam chọn lựa biến khát vọng về những điểm nóng xung đột trên thế giới trở thành điểm đến của hòa bình và phát triển. Việt Nam là đất nước điểm đến của hòa bình, sự an toàn, tin cậy trong con mắt của các cường quốc và bạn bè trên thế giới, luôn thể hiện rõ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam đất nước, con người có tin thần và lòng nhân đạo, có tinh thần hòa hiếu dân tộc, đánh kẻ chạy đi, không đánh kẻ chạy lại.
Từ Pháp, Mỹ là hai kẻ thù trực tiếp của dân tộc Việt Nam, nhưng với tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai Việt Nam, đến nay, với Pháp hiện đã trở thành nước quan hệ Đối tác chiến lược và Mỹ đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam. Chỉ trong vòng 9 tháng, (từ 9/2023 - 6/2024) Việt Nam đã tiếp đón những lãnh đạo đứng đầu thế giới, gồm Tổng thống Mỹ Joe Biden, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Liên Bang Nga Putin, trong các chuyến thăm cấp nhà nước để nâng cấp và củng cố quan hệ ngoại giao lên tầm cao mới./.
ST