Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI PHÒNG CHỐNG “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” Ở CÁC VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI


TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI PHÒNG CHỐNG
 “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” Ở CÁC VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
ĐTM 013/2019
Mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình tồn tại, phát triển hướng tới sự hưng thịnh bền vững của mình đều phải quan tâm đến việc tập hợp lực lượng, tạo dựng  nguồn động lực phù hợp với đặc thù của hoàn cảnh lịch sử. Đối với Việt Nam, đại đoàn kết toàn dân là một truyền thống quý báu, một giá trị tinh thần bền vững, một điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Để phát huy truyền thống quý báu đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm sâu sắc đến công tác vận động quần chúng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân, vì dân, ngay từ khi mới thành lập đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân công tác và lao động sản xuất, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, của Nhà nước và nhân dân. Do đó, tiến hành công tác dân vận (CTDV) là nhiệm vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu của quân đội, là vấn đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Thực tiễn hơn 60 năm qua, mỗi bước trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta đều luôn gắn liền với việc đẩy mạnh CTDV, đều được dựa chắc vào thế trận lòng dân.
Các dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số nhưng lại cư trú trên địa bàn rộng, chiếm phần lớn diện tích của cả nước, chủ yếu ở các vùng cao, trung du và ven biên giới, những vùng có vị trí rất quan trọng cả về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa.
Hiện nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang đẩy mạnh thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động ly khai, hòng chống phá cách mạng Việt Nam. Cuộc đấu tranh giữ đất, giữ dân ở các vùng đồng bào DTTS giai đoạn hiện nay vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân và bình yên đất nước là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị. Vì vậy, việc tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và tăng cường hơn nữa CTDV của quân đội ở các vùng DTTS là yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ trực tiếp đặt ra đối với quân đội ta hiện nay; đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu với nhiều nội dung, nhiều góc độ và vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Trong phạm vi chủ đề tiểu luận: “tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới”, tác giả tập trung làm rõ 2 vấn đề:
- Sự cần thiết phải tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới
- Giải pháp tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới

1. Sự cần thiết phải tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới
          1.1. Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng, nhiệm vụ, mục tiêu công tác dân vận của quân đội trong tình hình mới
          Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng; khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ nhân dân. Quan hệ mật thiết với nhân dân là mối liên hệ bản chất của Đảng, của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, CTDV luôn được coi là một công tác cơ bản của Đảng.
          Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một bộ phận trong CTDV của Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt động công tác chính trị trong quân đội, nhằm vận động cách mạng đối với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối quan hệ, đoàn kết quân dân.
          CTDV có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta. Tầm quan trọng đó được khẳng định dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quần chúng, công tác vận động quần chúng và bài học thực tiễn CTDV của quân đội.
          Các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, là người chủ chân chính của lịch sử, là lực lượng đông đảo của cách mạng. Do đó, phải tiến hành công tác tuyên truyền vận động quần chúng.
          Lênin cho rằng: “Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội ngũ tiên phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó không thể có ngay được và không phải do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành được”[1]. Người cũng chỉ rõ: sức mạnh của cách mạng là ở sự ủng hộ của quần chúng, chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; chỉ có tranh thủ quần chúng và chỉ có như thế chúng ta mới có cơ sở vững chắc cho thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp; chỉ có người nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân, mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền. “Một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phê phán được mọi cái và đi vào hành động một cách có ý thức”[2]. Vì vậy, khi đánh giá thành tích một Đảng, phải căn cứ vào cách đối xử đúng đắn với quần chúng, căn cứ vào cách vận động quần chúng của Đảng.
          Kế thừa những tư tưởng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến công tác vận động quần chúng. Người chỉ rõ: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải công việc của một, hai người. Lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng. Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra. Có lực lưọng dân chúng thì việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Vì vậy: “Cách mạng trước hết phải làm cho dân giác ngộ”[3], phải tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân, phải biết tôn trọng nhân dân và dựa vào dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sự cần thiết phải làm công tác vận động nhân dân và Đảng Cộng sản là người phải tiến hành vận động và tổ chức nhân dân. Theo Người: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc chính phủ và đoàn thể giao cho”[4]. Tiến hành CTDV là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị.
Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời và trưởng thành từ trong phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Quân đội ta vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân chính trị, có nhiệm vụ tiến hành công tác vận động quần chúng trong mọi điều kiện hoàn cảnh và mọi tình huống. Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội quân tuyên truyền”. Như vậy, ngay từ ngày đầu thành lập lực lượng vũ trang cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh  đã chỉ rõ CTDV của quân đội là một vấn đề thuộc chức năng, một nhiệm vụ chính trị của quân đội kiểu mới.
Qua các giai đoạn cách mạng, lúc khó khăn cũng như lúc thuận lợi, trong chiến tranh hay hoà bình, quân đội ta luôn dựa vào nhân dân, bảo vệ nhân dân, chia ngọt sẻ bùi với nhân dân, được nhân dân che chở, đùm bọc, tin cậy. Không có sự giúp đỡ của nhân dân, quân đội ta không thể thực hiện được nghệ thuật chiến tranh nhân dân, không thể giành thắng lợi vẻ vang. Dù ở Đồng bằng hay miền núi, quân đội ta luôn sống trong lòng dân, CTDV của quân đội luôn trở thành một kênh chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đến với đồng bào, vận động, hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào đưa đường lối chính sách vào cuộc sống. Vì vậy, nó góp phần quan trọng xây dựng lòng tin của dân đối với Đảng, tin vào thắng lợi của cách mạng. Dù ở những nơi xa xôi hẻo lánh nhất, những nơi khó khăn ác liệt nhất, nhờ có CTDV mà quân đội luôn sống trong dân, dân luôn bảo vệ quân đội. Đó là nền tảng chính trị tinh thần vững chắc cho mọi thắng lợi của quân đội, của cách mạng.
Làm tốt CTDV, quân đội ta không chỉ góp phần thực hiện có hiệu quả một trong ba chức năng của quân đội, mà còn thể hiện rõ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội kiểu mới, gắn bó máu thịt với nhân dân qua mọi thử thách.
Công tác dân vận là một trong những nội dung CTĐ, CTCT của quân đội, trực tiếp góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp phần giáo dục cho bộ đội về ý thức trách nhiệm của người quân nhân cách mạng, thực hiện quân với dân một ý chí. CTDV của quân đội do chính chủ thể CTĐ, CTCT tiến hành, đồng thời nó là trách nhiệm của mọi quân nhân. Dân vận tốt chính là góp phần giữ vững, tăng cường đoàn kết quân dân, quan hệ giữa Đảng với dân, khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần trực tiếp vào cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát huy bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.
Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ CTDV của quân đội là tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xẫ hội chủ nghĩa; thực sự là một mũi tiến công chính trị có hiệu quả trong phòng chống chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. CTDV tham gia tích cực xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện, trước hết là về chính trị; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, thực hiện chính sách dân tộc - tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tham gia có hiệu quả vào các phong trào, các cuộc vận động cách mạng, các chương trình phát triển kinh tế xẫ hội, giúp dân xoá đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định đời sống nhân dân nhất là ở các vùng trọng điểm chiến lược. Đồng thời, CTDV còn giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ về bản lĩnh chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác dân vận, giữ nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí.
          1.2. Xuất phát từ đặc điểm, vai trò của các DTTS và tình hình CTDV của quân đội ở các vùng DTTS hiện nay
          Các nhà nghiên cứu về Dân tộc đã chỉ rõ: trong quốc gia đa dân tộc, dân tộc chủ thể là dân tộc chiếm đa số hoặc tuyệt đại đa số dân cư. Dân tộc thiểu số là cộng đồng ít người, cùng sống trong một khu vực, có chung nguồn gốc huyết thống, chung ngôn ngữ, văn hoá, phong tục tập quán, tâm lý tư tưởng và trình độ phát triển. Trong tiếng Việt, từ “DTTS” chỉ có nghĩa để phân biệt số đôngsố ít, chứ hoàn toàn không có nghĩa là phân biệt đối xử trong quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng dân tộc, quốc gia.
          * Đặc điểm và vai trò của các DTTS nước ta
Nước ta là một quốc gia đa dân tộc. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm hơn 86%, còn lại 53 dân tộc anh em khác khoảng 10 triệu người, chỉ chiếm 14% dân số cả nước[5]. Với đặc điểm số dân như vậy, các dân tộc này được gọi chung theo khái niệm “Các DTTS”.
Mỗi dân tộc và mỗi vùng DTTS ở nước ta đều có những nét đặc thù riêng, song tựu trung lại có những đặc điểm chung nhất do hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa chính trị, kinh tế, văn hoá quy định. Những đặc điểm của các vùng DTTS nước ta gắn liền với CTDV của quân đội trong giai đoạn hiện nay được thể hiện nổi bật trên mấy vấn đề sau đây:
- Đặc điểm địa bàn, dân cư: Các DTTS nước ta có số dân ít, thậm chí rất ít, nhưng lại cư trú trên địa bàn rộng chiếm tới 3/4 diện tích của cả nước, chủ yếu ở miền núi, bao gồm các vùng cao và trung du, đồng thời tiếp giáp 3.000km biên giới, với nhiều cửa khẩu quan trọng.
Đồng bào thường cư trú tập trung thành từng cụm dân cư theo các buôn làng, bản làng, phum, sóc, trên các triền núi cao, trong thung lũng, ven rừng, trên các giồng đất, cát cao hoặc các vùng nông thôn ven biển. Nhìn chung, đây là các vùng có khí hậu khắc nghiệt, ảnh hưởng cả đến sản xuất và sức khoẻ, đời sống của đồng bào. Dân cư các vùng vừa tập trung tại các cụm, vừa phân tán giữa các cụm với cự ly rất xa, có nơi với cự li phải đi nhiều ngày đường. Điều kiện giao thông, đi lại hết sức khó khăn, nhiều dốc cao, vực thẳm. Thậm chí, có vùng việc đi lại không thể sử dụng phương tiện giao thông mà chủ yếu bằng đi bộ, đi ngựa. Vào các mùa mưa lũ, không ít vùng đồng bào bị cô lập trong nhiều ngày.
Do quá trình giao lưu, xâm nhập, quá trình di cư có tổ chức và di cư tự do, cũng đã tạo nên đặc điểm có sự chung sống xen kẽ giữa cư dân các dân tộc, chủ yếu là người Kinh với các DTTS khác. Đây vừa là đặc điểm thuận lợi vừa là những điều kiện nhạy cảm dễ phát sinh mâu thuẫn nội bộ các vùng đồng bào trong điều kiện hiện nay, khi mà kẻ thù lợi dụng xuyên tạc, kích động.
Đặc điểm chung nổi bật của các DTTS nước ta là thường cư trú ở các vùng địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về nhiều lĩnh vực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCHTW khoá IX đã nhận định: “Các DTTS nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái”.
- Đặc điểm văn hoá, tín ngưỡng tôn giáo: Một trong những điều kiện thuận lợi cho CTDV ở các vùng đồng bào DTTS là truyền thống văn hoá lâu đời của các dân tộc, biểu hiện ở sự đoàn kết gắn bó keo sơn trong nội tộc và với các dân tộc khác. Ý chí và tình cảm của mỗi tộc người, mỗi buôn, bản, phum sóc thường được biểu hiện tập trung ở các già làng, trưởng bản, ở các sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể được gìn giữ, lưu truyền và bổ sung, phát triển qua muôn đời. Tuy đời sống kinh tế chưa cao, chưa được ổn định, nhưng tình làng, nghĩa xóm, lòng trung thành với tín ngưỡng, tập quán tốt đẹp, truyền thống nội tộc được thể hiện rõ nét. Tín ngưỡng, tôn giáo là nét in đậm trong quá trình hình thành bản sắc văn hoá mỗi dân tộc. Tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trong các DTTS luôn gắn liền với nhau. Trong các vùng dân cư, tồn tại nhiều loại chùa triền, miếu thờ, đền thờ, nhiều loại hình lễ hội dân gian phong phú cả về nội dung, tính chất, quy mô, nghi thức...có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tâm linh của mỗi dân tộc.
Trong các vùng DTTS, tồn tại nhiều loại hình tôn giáo như Hoà Hảo, Cao Đài, Phật Giáo, Nho Giáo, Đạo Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo... Có những tôn giáo đông hàng trăm ngàn tín đồ, nhưng cũng có những tôn giáo số tín đồ chỉ tính bằng hàng chục hoặc hàng trăm người. Tôn giáo trong các vùng DTTS là vấn đề nhạy cảm trong các địa bàn nhạy cảm hiện nay mà kẻ thù đang triệt để lợi dụng để chống phá ta.
 Nhìn chung trên các địa bàn vùng DTTS còn ảnh hưởng nặng nề của tàn dư tư tưởng phong kiến, tập quán thói quen lạc hậu và cả những tệ nạn xã hội mới nảy sinh. Những tập quán như du canh, du cư, không dùng thuốc mà cúng ma để chữa bệnh, phân biệt đối xử, sinh hoạt khép kín trong các tộc người...là những tàn dư lạc hậu cần phải từng bước xoá bỏ.
Một số vùng dân tộc vừa có ngôn ngữ riêng, vừa biết sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt phổ thông. Tuy nhiên không ít dân tộc chỉ sử dụng ngôn ngữ riêng, thậm chí chỉ có tiếng nói mà không có chữ viết riêng. Đây là một đặc điểm lớn tác động đến công tác vận động quần chúng tại các vùng dân cư DTTS.
Trình độ dân trí thấp, văn hoá, giáo dục chậm phát triển, thiếu các trung tâm văn hoá; nhà trường, bệnh viện thưa thớt và chất lượng thấp. Tỷ lệ mù chữ, trẻ em thất học hoặc tái mù chữ còn cao. Các dịch vụ văn hoá báo chí, phát thanh, truyền hình, phim ảnh...còn không ít “vùng trắng”.
- Đặc điểm kinh tế, xã hội: Đại bộ phận đồng bào sống bằng nghề sản xuất nhỏ gắn với địa bàn cư trú, chủ yếu là nương rẫy, đánh bắt nhỏ, khai thác rừng tạp. Mức phát triển kinh tế và đời sống thấp, nhiều vùng sâu, vùng xa tụt hậu rất xa so với miền xuôi và các trung tâm đô thị. Những nhu cầu thiết yếu về ăn ở, đi lại, học hành, chữa bệnh còn gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng bệnh tật, trẻ em suy dinh dưỡng và số hộ thiếu đói còn nhiều. Một số vùng thiếu đất canh tác, thiếu vốn, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Nếu tính theo chuẩn nghèo mới nhất được công bố táng 12 năm 2005 thì tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng DTTS tăng lên rất cao.
Địa bàn cư trú rộng, dân cư thưa thớt, kinh tế chậm phát triển, giao thông, thông tin liên lạc khó khăn, trong khi đó, điều kiện và trình độ quản lý của các cấp chính quyền địa phương còn chưa chặt chẽ, chưa nắm chắc được đồng bào. Đội ngũ cán bộ, nhất là ở cơ sở còn yếu, chưa đủ trình độ tổ chức quản lý trong những điều kiện phức tạp. Đội ngũ cán bộ, đảng viên là người các DTTS có tỷ lệ rất thấp và nhìn chung trình độ còn bất cập.
Việc qua lại biên giới dễ dàng, tạo thuận lợi trong giao lưu về kinh tế, văn hoá, xã hội của đồng bào ta với nhân dân với các nước lánh giềng. Tuy nhiên, chính đặc điểm này tạo ra nhiều mâu thuẫn trong bảo vệ chính trị, quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội cho ta. Hàng năm, địch thường lợi dụng các điều kiện này để trà trộn với đồng bào dân tộc, xâm nhập trái phép qua biên giới, len lỏi, chui sâu vào nội địa nước ta để móc nối hoạt động chống phá cách mạng. Những năm qua đã xuất hiện nhiều điểm nóng do kẻ thù lợi dụng như ở vùng Tây Bắc, Tây Nghệ An, Tây Nguyên Và Tây Nam Bộ.
Từ những đặc điểm trên, chúng ta khẳng định, các DTTS có vai trò rất quan trọng, là những bộ phận hữu cơ, gắn bó máu thịt trong cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Lịch sử hình thành, tồn tại, phát triển của mỗi dân tộc và vùng DTTS luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam.
Quần cư trên một địa vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nên để tồn tại, con người Việt Nam phải nương tựa vào nhau, đùm bọc và đoàn kết với nhau. Hơn nữa, xét về địa - chính trị, đất nước Việt Nam là địa bàn rất quan trọng, có vị trí là đầu mối Bắc - Nam, Đông - Tây, đất liền và hải đảo, là khu vực thường diễn biến phức tạp của quá trình tộc người, luôn bị các cuộc thôn tính chinh phục của các đế chế phong kiến và các đế quốc thực dân. Toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên và chính trị đó khiến dân tộc Việt Nam thường xuyên phải đương đầu với các thế lực xâm lược hùng mạnh. Một dân tộc nhỏ, đứng trước hoạ xâm lăng, muốn không bị đồng hoá hoặc bị tiêu diệt tất yếu phải đứng lên tự bảo vệ với ý thức đoàn kết, tự lực, tự cường cao nhất. Chỉ có đoàn kết, tự cường mới có thể tồn tại và phát triển.
Trong suốt quá trình lịch sử đó, ý chí và tình cảm của đồng bào các vùng DTTS luôn hoà quyện chung vào tinh thần yêu nước, ý thức cố kết cộng đồng của toàn dân tộc Việt Nam.  Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các DTTS luôn kề vai sát cánh cùng cả nước chiến đấu chống kẻ thù chung, giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Mặc dù kẻ thù lợi dụng trình độ dân trí còn thấp dùng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tôn giáo để mua chuộc lôi kéo hoặc ra sức đàn  áp, gom dân, bắt lính nhưng đồng bào vẫn kiên cường chống lại âm mưu thâm độc đó.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, những cống hiến của đồng bào các vùng DTTS tiếp tục được giữ vững và phát huy; vẫn một lòng, một dạ tin theo Đảng, thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trước những tác động và diễn biến sâu sắc, mau lẹ của tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới và khu vực, đặc biệt là tình hình về vấn đề dân tộc, tôn giáo, kẻ thù lợi dụng chống phá, kích động, đã có một số vùng xảy ra điểm nóng, xảy ra bạo loạn chính trị.
* Tình hình CTDV của quân đội ở các vùng DTTS hiện nay
Trong những năm qua, Đảng Uỷ quân sự trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị trong toàn quân đẩy mạnh thực hiện chức năng đội quân công tác, coi CTDV là một nhiệm vụ chính trị cơ bản, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phòng chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận lòng dân.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 08b/ NQ-HN-TW của BCHTW khoá VI, Chỉ thị 137/ĐUQSTW, Chỉ thị 127/CT của Chủ nhiệm TCCT, CTDV của các đơn vị ở vùng đồng bào DTTS đã được tổ chức thực hiện đồng bộ với các nội dung, hình thức, biện pháp thiết thực, hiệu quả.
Trên cơ sở quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị, quán triệt nhiệm vụ cụ thể và thông qua hoạt động thực tiễn, nhận thức của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các đơn vị đóng quân trên vùng đồng bào DTTS đã có chuyển biến cơ bản, nêu cao ý thức và trách nhiệm trong CTDV, đã nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ và yêu cầu cấp bách phải tăng cường CTDV đối với đồng bào, đặc biệt là các địa bàn trọng điểm.
Do thống nhất được nhận thức, cấp uỷ và chỉ huy các đơn vị đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai CTDV một cách toàn diện, đồng bộ, theo một cơ chế thống nhất, chặt chẽ với nhiều nội dung, hình thức phong phú. CTDV ở các vùng DTTS đã có sự phát triển cả bề rộng và chiều sâu, chuyển mạnh xuống cơ sở. Nội dung CTDV đã bám sát và đi sâu vào thực tế các lĩnh vực đời sống xã hội, vận động mọi tầng lớp dân cư, nhất là đồng bào các dân tộc, tôn giáo trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng xung yếu và địa bàn trọng điểm chiến lược.
Bốn hình thức công tác có tính phổ biến cơ bản mà Hội nghị CTDV của quân đội đã tổng kết là: Kết nghĩa; hành quân dã ngoại, làm công tác dân vận; hoạt động của tổ, đội công tác và cử cán bộ tăng cường cho cơ sở, đã được vận dụng một cách linh hoạt, hiệu quả. Đã có 100% đơn vị cấp cơ sở tổ chức kết nghĩa với các đơn vị địa phương, phát huy tác dụng trong xây dựng cơ sở, vành đai an toàn. Đã tổ chức trên 11.000 lượt hành quân dã ngoại làm dân vận từ cấp đại đội, tiểu đoàn đến cấp trung, lữ đoàn; đã góp phần tham gia xây dựng 2.436 lượt xã, phường, cơ sở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc.
Từ năm 2002, thực hiện chỉ thị 123/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về “Củng cố, kiện toàn và hoạt động của các tổ đội công tác tăng cường trên các địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và biên giới Việt Lào”, các quân khu 2, 4, 5, 7, 9, và Quân đoàn 3 đã thành lập 216 đội công tác, với 1658 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và hạ sĩ quan chiến sĩ tham gia về 25 tỉnh, trên 100 huyện, 240 xã trọng điểm, tổ chức tuyên truyền tập trung 3.348 buổi, có 29 vạn đồng bào các dân tộc tham gia; góp phần củng cố 222 lượt tổ chức cơ sở đảng, 579 tổ chức chính quyền cấp xã, thôn, 1.118 lượt tổ chức quần chúng, xây dựng 1.027 lượt tổ an ninh nhân dân; củng cố huấn luyện quân sự cho 61 đơn vị dân quân tự vệ; tham gia cùng địa phương xoá đói giảm nghèo cho 245 hộ với 1.552 nhân khẩu, giúp địa phương giải quyết kịp thời, dứt điểm 715 vụ việc phức tạp phát sinh ở cơ sở[6].
 Đồng thời các đơn vị đã kết hợp tốt các hình thức mới như tham gia chương trình phổ cập tiểu học, chương trình quân - dân y, liên kết ứng dụng khoa học kỹ thuật, tạo nguồn cán bộ cơ sở, giao lưu văn nghệ, thể thao...
Các đoàn kinh tế quốc phòng trên các địa bàn trọng điểm chiến lược đã góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị cùng với bộ đội biên phòng bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, góp phần xoá đói giảm nghèo vùng đồng bào DTTS, vùng biên giới. Các đơn vị này đã thực sự trở thành chỗ dựa của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, được đồng bào các dân tộc tin cậy, yêu mến.
Những kết quả CTDV của quân đội ở các vùng DTTS đạt được là rất quan trọng. Song từ thực tiễn hoạt động và những diễn biến mới nảy sinh, CTDV ở các vùng DTTS cũng đặt ra nhiều vấn đề bất cập:
- Nhận thức vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung, yêu cầu nhiệm vụ CTDV ở các vùng DTTS của không ít cán bộ, chiến sĩ, thậm chí có cả cán bộ chủ trì đơn vị cơ sở còn thiếu sâu sắc, thiếu toàn diện.
- Một số đơn vị tiến hành các hình thức CTDV còn thiếu linh hoạt, thậm chí còn có biểu hiện hình thức, chạy theo thành tích, chưa coi trọng chất lượng, hiệu quả; một số ít trường hợp lợi dụng công tác dân vận để mưu lợi cá nhân.
- Năng lực tiến hành CTDV trong điều kiện tiếp xúc với đồng bào các DTTS của số không ít cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế, thiếu hiểu biết về đặc điểm văn hoá, truyền thống, phong tục, tập quán, những điều cấm kỵ riêng biệt...hiện tượng không biết, không hiểu ngôn ngữ dân tộc còn khá phổ biến, cản trở lớn đến công tác vận động, mặc dù đã có chủ trương thúc đẩy học tiếng dân tộc trong thời gian qua.
- Có không ít trường hợp biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác đối với âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, thiếu kiên định, vững vàng khi gặp phải những trường hợp phức tạp nảy sinh về chính trị, xã hội, tỏ ra lúng túng do không nắm vững chủ trương, chính sách, kiến thức công tác quần chúng.
- Các đơn vị còn thiếu thốn nhiều về cơ sở vật chất trong tiến hành CTDV ở các vùng DTTS, trang bị còn đơn điệu, không thiết thực.
Toàn bộ tình hình đó phản ảnh một tình trạng chung của CTDV của quân đội ở các vùng DTTS là còn biểu hiện thiếu tính hệ thống, còn tình trạng manh mún, kém hiệu quả, chưa thực sự vững chắc.
1.3. Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng nước ta
Đối với các DTTS, âm mưu xuyên suốt của kẻ thù là chia rẽ dân tộc, nhất là chia rẽ các DTTS với người Kinh, chia rẽ nhân dân các DTTS với Đảng, Nhà nước và chế độ, chia rẽ nội bộ nhân dân các dân tộc; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, kích động ly khai, xúi dục đòi tự trị dân tộc hòng chia rẽ, xé nhỏ nước ta, làm suy yếu rồi đi đến thôn tính Việt Nam.
Từ âm mưu đó, đối với từng vùng DTTS cụ thể, các thế lực thù địch lại có những âm mưu, thủ đoạn riêng mà chúng cho là thích hợp với từng vùng:
-  Đối với các DTTS khu vực phía Bắc: Chúng kích động đồng bào đòi thành lập “Vương quốc Hmông tự trị”, “Khu tự trị người Thái”, tuyên truyền tư tưởng “Đại Thái”, kích động gây phỉ, xưng vua, tổ chức đón rước gây bạo loạn.
- Đối với các DTTS vùng Tây nguyên: Âm mưu, thủ đoạn của chúng là nhằm tạo ra sự ly khai, chia rẽ. Để thực hiện âm mưu này, bọn đế quốc và các thế lực thù địch bên ngoài đã chỉ đạo, kích động các đối tượng trong nước đòi thành lập “Nhà nước Đề Ga độc lập”, lập ra “Tin lành Đề Ga” (tách khỏi Tin lành của người Kinh) để hoạt động chống phá ta. Chúng không ngừng phát triển thứ đạo Tin lành theo kiểu Mỹ.
- Đối với dân tộc chăm: Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề lịch sử, kích động đấu tranh đòi phục hồi “Vương quốc Chăm”.
- Đối với vùng Tây Nam Bộ: Thủ đoạn chủ yếu của chúng là gây thù hằn, chia rẽ người Khơme với người Kinh, giữa Việt Nam với Campuchia, tuyên truyền vận động theo một luận điệu phản động là đòi “trả” vùng Khơme Nam Bộ về Campuchia, lập “Nhà nước Khơme Campuchia Krôm độc lập”.
Trước đây, chúng thường hoạt động lén lút, bí mật, ta khó phát hiện. Nay chúng chuyển sang phương thức hoạt động mới, núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, vừa bí mật, vừa “công khai hoá”, “quốc tế hoá”, kêu gọi bên ngoài can thiệp khi bị xử lý.
 Hoạt động cụ thể đối với từng vùng DTTS có khác nhau và có sự thay đổi tuỳ theo tình hình, khả năng của chúng. Nhưng nổi lên trong giai đoạn hiện nay là các thủ đoạn sau:
+ Tăng cường tập hợp lực lượng phản động lưu vong ở bên ngoài vào các tổ chức, hội, nhóm, đẩy mạnh liên kết với nhau và câu kết với các phần tử chống đối trong nước hoạt động chống phá ta. Bọn phản động người Chăm lưu vong lập ra các tổ chức: “Văn phòng Chămpa quốc tế”, “Hội bảo tồn văn hoá Chămpa tại Hoa Kỳ”, “Hội văn hoá truyền thống Chămpa”...tại Hoa Kỳ và Pháp, trong đó chủ yếu là các phần tử chống đối cũ, gồm cả chức sắc bất mãn, bọn FULRO.
Bọn phản động người H mông, người Thái, người Dao lưu vong tại Mỹ, Pháp thành lập các tổ chức: “Hội người Hmông thế giới”, “Hội văn hoá cổ truyền người H mông”, “Liên hiệp những người Dao”, “Trung tâm nghiên cứu Thái học”...
+ Lợi dụng chính sách mở cửa của ta và sự phát triển khoa học kỹ thuật về mạng thông tin quốc tế toàn cầu, từ bên ngoài chúng tăng cường tác động vào các vùng DTTS nước ta. Ngoài việc đưa người trực tiếp móc nối, chỉ đạo lực lượng phản động trong nước, chúng đã và đang lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng (sách, báo, đài phát thanh...), phương tiện kỹ thuật hiện đại (điện thoại, Fax, Internet...) để tác động vào trong nước. Lợi dụng chính sách mở cửa, đa dạng hoá, đa phương hoá, thông qua hoạt động du lịch, thăm thân nhân, tài trợ, hợp tác, hoạt động từ thiện để đưa người, tài liệu vào hoạt động móc nối, gây cơ sở, lôi kéo, kích động tư tưởng chống đối vào số trí thức, cán bộ người DTTS.
          Thông qua đài phát thanh, báo chí bằng tiếng dân tộc để tuyên truyền, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chính sách, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, tư tưởng hướng ngoại, tuyên truyền phát triển đạo trái phép vào các vùng DTTS, đặc biệt là vùng Tây Bắc và Tây Nguyên.
          Thông qua việc gửi tiền, hàng, tài liệu phản động, các văn hoá phẩm độc hại vào các vùng DTTS trong nước để tuyên truyền cuộc sống phồn vinh ở nước ngoài, kích thích tư tưởng hướng ngại, gieo rắc tư tưởng hoài nghi trong nhân dân các dân tộc đối với Đảng, với chế độ. Chúng đặc biệt chú ý lợi dụng các hoạt động nghiên cứu văn hoá dân tộc để thâm nhập vào nội bộ, đi sâu xuống tận cơ sở thu thập tin tức, lôi kéo tranh thủ cán bộ, trí thức, chức sắc người DTTS, âm mưu tạo dựng “ngọn cờ” nhằm tập hợp quần chúng, hình thành tổ chức, lực lượng bên trong, tạo cớ can thiệp và bạo loạn khi có cơ hội.
          + Đẩy mạnh các hoạt động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc bằng các thủ đoạn: Khơi lại vấn đề lịch sử, sưu tầm tài liệu, thu thập “bằng chứng” về quá trình hình thành, phát triển và diệt vong của mỗi dân tộc nhằm mục đích lừa bịp các dân tộc thiêu số rằng họ bị dân tộc Kinh “xâm lược”, cai trị, đồng hoá nên các dân tộc nhỏ bé  bị mất nước, kích động đòi phục hồi các quốc gia xa xưa. Lợi dụng những khó khăn về đời sống, khuyết điểm và thiếu sót trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc, chúng tuyên truyền xuyên tạc, kích động chống đối trong đồng bào. Chúng khơi lại các mâu thuẫn, xung đột xảy ra giữa các dân tộc trong quá khứ nhằm kích động sự chống đối trong người DTTS đối với người Kinh. Đối với các DTTS phía Bắc: các thế lực thù địch tuyên truyền vấn đề “Vương quốc Hmông”. Đối với vùng Khơme Nam Bộ: Chúng tuyên truyền vùng đất Nam Bộ trước đây là của Campuchia  bị Việt Nam xâm chiếm, và rằng “ở đâu có cây thốt nốt, có chùa Khơme thì ở đó là đát Khơme...”. Chúng tuyên truyền luận điệu người Kinh phá chùa, giết sư sãi, cấm đạo, cấm học chữ Khơme, đồng hoá người Khơme. Đối với dân tộc Chăm: chúng tuyên truyền rằng lịch sử Chămpa đã từng có nhà nước hưng thịnh, quá trình diệt vong của Vương quốc Chămpa là do người Việt gây nên, kích động đòi phục hồi “Nhà nước Chămpa”. Đối với vùng Tây Nguyên: Chúng tuyên truyền luận điệu rằng người Kinh lên chiếm đất và tài nguyên của người dân tộc, phân biệt đối xử với người dân tộc.
          + Lợi dụng chính sách đổi mới và chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước ta để đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phát triển đạo vào các vùng DTTS với âm mưu “tôn giáo hoá dân tộc”.
          + Tác động, móc nối, lôi kéo cán bộ, trí thức người dân tộc; già làng, trưởng bản; người đã có thời gian tham gia tổ chức nguỵ, đảng phái phản động cũ; thân nhân các đối tượng bị ta xử lý.
          + Hoạt động nhen nhóm, lập tổ chức chính trị, tôn giáo để tập hợp lực lượng, khi có thời cơ điều kiện thì gây bạo loạn chính trị.
1.4. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Hội nghị TW8 khoá IX đã xác định mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là: Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết số 152/NQ-ĐUQSTW ngày 1-8-2003 của ĐUQSTW về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới, đã chỉ rõ: “Bảo vệ không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng cho mình mạnh lên, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ trong mỗi con người, mỗi cơ sở; việc gì có lợi cho dân, cho nước, có ích cho độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải quyết tâm làm”.
Công tác dân vận của quân đội ở các vùng DTTS  hơn lúc nào hết cần quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm đó trong toàn bộ mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ kế hoạch hoạt động. Chỉ có như vậy công tác dân vận ở các vùng DTTS mới không rơi vào tình trạng manh mún, thiếu hệ thống, kém hiệu quả; mới thực sự trở thành động lực tinh thần to lớn của mọi cán bộ, chiến sĩ, của toàn thể các cấp uỷ, chính quyền địa phương, đồng bào các DTTS, tạo nên sức mạnh tổng hợp và hiệu quả thực sự vững chắc trong thực tế.
          2. Giải pháp tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới
          Tăng cường CTDV của quân đội ở các vùng DTTS trong tình hình mới là tăng cường toàn diện cả về lãnh đạo, chỉ đạo, cả lực lượng, phương tiện, tăng cường về mức độ và hiệu quả tác động, phát triển cả bề rộng và chiều sâu, coi trọng chất lượng và bảo đảm tính hệ thống, biến CTDV của quân đội thành công tác tự vận động, tự xây dựng, tự bảo vệ của các DTTS, cùng cả dân tộc Việt Nam dựng nước và giữ nước. Trong những điều kiện mới, CTDV cuả quân đội ở các vùng DTTS cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
          2.1. Nâng cao nhận thức, phát huy trách nhiệm, bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác dân vận ở vùng dân tộc thiểu số cho mọi lực lượng trước hết là các cấp uỷ đảng, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị, các tổ đội công tác
Đây là giải pháp rất quan trọng, xuyên suốt và tạo cơ sở cho các giải pháp khác. Có nhận thức đúng đắn sẽ củng cố động cơ, định hướng và thúc đẩy hành động tích cực của cán bộ, chiến sĩ. Nhận thức càng sâu sắc, càng sát thực tiễn thì động cơ càng mạnh mẽ, vai trò định hướng và thúc đẩy hành động càng rõ rệt. Trong đó, đặc biệt là nhận thức của lãnh dạo, chỉ huy và cơ quan có vai trò rất quan trọng.
Nhưng nhận thức của cán bộ, chiến sĩ không phải tự phát hình thành mà phải thông qua hoạt động tư tưởng và tổ chức một cách đồng bộ, và phải thường xuyên, có kế hoạch, có mục đích, phương pháp cụ thể thiết thực, nghiêm túc, kiên trì, bền bỉ.
          Thực tiễn CTDV các vùng DTTS của các đơn vị cho thấy, ở đâu cấp uỷ và người chỉ huy có nhận thức đúng, trách nhiệm cao thì ở đó đội ngũ cán bộ, chiến sĩ được giáo dục quán triệt, bồi dưỡng phương pháp, tác phong chu đáo. Họ luôn có nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của CTDV đối với đồng bào các DTTS; phương pháp năng lực thực hành luôn được củng cố, đơn vị đó luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngược lại, hầu hết các khuyết điểm trong CTDV ở các vùng DTTS thời gian qua đều có nguyên nhân từ sự thiếu quan tâm, trách nhiệm không cao, nhận thức đơn giản của các cấp uỷ, người chỉ huy.
Để CTDV của quân đội ở các vùng DTTS phát triển cả bề rộng và chiều sâu, có hiệu quả cao, đòi hỏi phải làm tốt hơn nữa công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi tổ chức, mọi lực lượng tham gia. Trong tình hình hiện nay, công tác giáo dục, quán triệt cần đạt được các yêu cầu sau:
- Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính toàn diện, chuyên sâu, phù hợp với trình độ nhận thức, chức trách, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, lực lượng, sát với tình hình địa bàn và đối tượng tuyên truyền, vận động. Kết hợp giáo dục nhận thức với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức tác phong, trang bị kiến thức kinh nghiệm, phương pháp tiến hành CTDV cho bộ đội. Kết hợp giữa định hướng tư tưởng với hướng dẫn hành động, rèn luyện bản lĩnh, sự nhạy cảm, khả năng phát hiện và đấu tranh phê phán, loại bỏ những quan điểm tư tưởng, nhận thức, hành động sai trái.
- Hình thức, phương pháp giáo dục phải phong phú, đa dạng, chặt chẽ, bảo đảm tính thường xuyên, liên tục và gắn với các nhiệm vụ, hoạt động khác của đơn vị.
- Phát huy cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và chỉ huy các cấp; vai trò tham mưu và tổ chức thực hiện của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và các tổ chức quần chúng trong giáo dục, nâng cao nhận thức cho bộ đội.  
Để đạt được các yêu cầu đó, công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cần tập trung vào những nội dung sau:
- Giáo dục những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo, công tác vận động quần chúng của Đảng, của quân đội trong giai đoạn mới. Kết hợp giáo dục lý luận với việc bồi dưỡng cho bộ đội nắm vững những vấn đề cơ bản về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các chủ trương, chương trình kế hoạch phát triển, các phong trào cách mạng của địa phương nơi đóng quân trên các lĩnh vực đời sống xã hội; nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị hiện nay.
- Tăng cường bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn tiến hành CTDV đối với đồng bào DTTS cho cán bộ, chiến sĩ để họ nâng cao trách nhiệm và tự tin, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ.
Coi trọng việc giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao hiểu biết về phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào từng khu vực, từng dân tộc; bởi vì các tín ngưỡng, tôn giáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào. Mặc dù có nguồn gốc xuất xứ bản địa hay du nhập từ nước ngoài, ít nhiều đồng bào vẫn tìm thấy trong các tín ngưỡng, tôn giáo một chỗ dựa tinh thần nào đó khi trong cuộc sống, trong nhận thức, trong tình cảm gặp những khó khăn, rủi ro, bất trắc do tự nhiên hay xã hội đưa lại; họ đều muốn hướng tới sự yên ổn, tu tâm dưỡng tính, hướng thiện, chống lại cái ác; trừ các loại tà giáo hoặc âm mưu lợi dụng của các thế lực thù địch.
Trong tình hình hiện nay, hiểu biết và tôn trọng, có thái độ đúng đối với tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các DTTS là một yêu cầu rất cao của người làm CTDV nơi đây.
Bên cạnh đó, cần tập trung làm rõ âm mưu và những thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với các vùng dân tộc và trên từng địa bàn đóng quân của từng đơn vị.
- Bồi dưỡng xây dựng phương pháp, tác phong làm việc khoa học cho cán bộ, chiến sĩ trong CTDV. Đó là tác phong sâu sát thực tế, cụ thể tỷ mỷ, thực hiện phương châm nghe đồng bào nói, nói để đồng bào hiểu, hướng dẫn đồng bào, làm để đồng bào tin và rèn luyện phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân”, có trách nhiệm với đồng bào. Chống biểu hiện quan liêu, hách dịch, xa rời thực tế, thiếu sâu sát với đồng bào.
- Bồi dưỡng cho cán bộ chiến sĩ có phương pháp tiếp cận tốt với đồng bào, biết chào hỏi đồng bào theo đúng phong tục, thể hiện lòng thân ái, biết tránh các điều kiêng kỵ, biết giao lưu văn hoá văn nghệ, nhất là các điệu múa của đồng bào các dân tộc.
          2.2. Tăng cường giáo dục và duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân đối với mọi cán bộ, chiến sĩ.
          Các đơn vị quân đội dù ở đồng bằng hay miền núi đều thường dóng quân trong các khu vực dân cư, quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện SSCĐ, công tác đều thường xuyên tiếp xúc với đồng bào. Nếu không có nhận thức đúng và giữ nghiêm kỷ luật dân vận sẽ không những không vận động được đồng bào mà còn làm tổn hại đến uy tín đơn vị, quân đội đến lòng tin của nhân dân.
Trong thực tế thời gian qua, không ít trường hợp vi phạm kỷ luật dân vận, thiếu tôn trọng, quậy phá, lừa dối hoặc lợi dụng đồng bào để làm việc sai trái đã xảy ra, ảnh hưởng xấu đến CTDV, lòng tin và tình đoàn kết quân dân. Vì vậy, giáo dục và duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân là một nội dung biện pháp rất quan trọng, vừa cơ bản lâu dài vừa cấp bách hiện nay.
          Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Trong giáo dục phải quan tâm đến chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng; các quy định của điều lệnh, điều lệ quân đội, 12 điều kỷ luật trong quan hệ quân dân, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, truyền thống của đơn vị...làm cơ sở bồi dưỡng, rèn luyện tính tự giác, gương mẫu trong chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; có phương pháp tác phong khiêm tốn, giản dị, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân; thành khẩn tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm, tạo sự tự tin cho đồng bào.
Đặc biệt, với đồng bào các dân tộc thiểu số, do điều kiện ngôn ngữ và các tập tục, tín ngương riêng của từng dân tộc, việc giữ nghiêm kỷ luật không chỉ dừng lại ở các chế độ, nền nếp kỷ luật chung đã quy định, mà còn là ý thức và hành động đúng, phù hợp với lễ giáo, thuần phong, mỹ tục của từng vùng.
 Giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ gương mẫu chấp hành pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật dân vận, tôn trọng kỷ cương xã hội, tôn trong phong tục, tập quán của đồg bào các DTTS. Giáo dục phải đi đôi với tổ chức quản lý, duy trì kỷ luật vững chắc, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
          2.3. Nắm vững và vận dụng có hiệu quả các hình thức công tác dân vận của quan đội.
Có nhận thức đúng, nội dung chương trình công tác đúng muốn biến thành kết quả, hiệu quả thực tế phải có các hình thức CTDV đúng. Coi trọng rút kinh nghiệm và vận dụng, phát huy tốt hiệu quả của bốn hình thức công tác dân vận đã được tổng kết.
Trong thời kỳ mới, cơ cấu thành phần dân cư ở các vùng, miền tiếp tục biến đổi theo xu hướng ngày càng đa dạng, hoạt động kinh tế xẫ hội của các tầng lớp nhân dân trở nên phức tạp, điều này đòi hỏi CTDV phải luôn đổi mới hình thức phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn.
Để thực hiện tốt giải pháp này, cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
- Cấp uỷ và chỉ huy các cấp quan tâm giáo dục, bòi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực cho các tổ chức, các lực lượng, các tổ đội trực tiếp làm CTDV.
- Cần xây dựng nội dung, kế hoạch, chương trình dạy tiếng dân tộc cho cán bộ chiến sĩ; trước hết ưu tiên cho các dối tượng cán bộ dân vận chuyên trách, cán bộ tham gia cấc đội công tác 123, cán bộ và chiến sĩ đội vận động quần chúng của các đồn biên phòng.
Bồi dưỡng trình độ hiểu biết tiếng dân tộc cho lực lượng chuyên trách làm CTDV, bởi vì có trình độ chuyên môn giỏi nhưng chưa biết tiếng dân tộc, thì sẽ hết sức khó khăn. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cán bộ chuyên trách phải tích cực, chủ động tự học tiếng dân tộc, tối thiểu là những từ ngữ phổ biến trong giao tiếp; mặt khác các cơ quan đơn vị phải quan tâm gửi đội ngũ cán bộ này đi học tiếng dân tộc ở các trường trong và ngoài quân đội. Thành thạo tiếng dân tộc là cơ sở để người cán bộ nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào. Đồng thời với vấn đề học tiếng dân tộc, cần tập trung và phát huy lực lượng các quân nhân là người DTTS  cùng tham gia tiến hành CTDV.
- Quan tâm bảo đảm kinh phí, phương tiện cần thiết cho lực lượng chuyên trách làm công tác tuyên truyền vận động đồng bào.
- Đối với các tổ đội, các cán bộ tăng cường cho cơ sở thì phải có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc, động viên kết hợp nhắc nhở kịp thời, tránh khoán trắng cho các lực lượng này.
          2.4. Kết hợp tốt việc tuyên truyền, giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh.
          Hiệu quả CTDV xét cho cùng phụ thuộc vào chính kết quả đời sống mọi mặt của đồng bào. Vì vậy, kết hợp tốt việc tuyên truyền, giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh là yêu cầu tất yếu.
          Các đơn vị quân đội cần quan tâm, tham gia giúp đỡ đồng bào lao động sản xuất, cùng địa phương phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào. Điều đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
          Đẩy mạnh vận động đồng bào định canh, định cư, ổn định đời sống. Chú trọng giúp đỡ đồng bào biết tổ chức sản xuất, xoá đói, giảm nghèo. Đối với các vùng có điều kiện, động viên hướng dẫn đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, khai thác thế mạnh trong sản xuất của từng hộ, từng địa phương, phấn đấu làm giàu cho gia đình, đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình, tăng cường các hoạt động văn hoá - thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở...
          Tham mưu cho địa phương xây dựng các dự án, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp với quốc phòng ở các vùng đồng bào dân tộc; quan tâm đầu tư đồng bộ, có trọng điểm vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Giúp địa phương thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm, nước sạch. Phối hợp cùng các ban, ngành địa phương thực hiện chương trình xoá mù chữ, giảm tái mù chữ, phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ dân trí. Tiến hành các hoạt động văn hoá, duy trì các lễ hội truyền thống, giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc; đồng thời đấu tranh bài trừ các hủ tục văn hoá lạc hậu, đấu tranh phòng ngừa văn hoá xấu độc thâm nhập vào đồng bào các dân tộc.
          Đồng bào các DTTS thường sinh sống trên các địa bàn có điều kiện khí hậu thời tiết khắc nghiệt, thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt, lũ quét, động đất, bệnh tật đe doạ. Bên cạnh đó, kẻ thù lợi dụng khó khăn, tăng cường hoạt động phá hoại sản xuất, đời sống của đồng bào. Nhiều trường hợp ở nhiều vùng biên giới cửa khẩu, kẻ xấu đã lợi dụng đồng bào để làm ăn phi pháp, buôn lậu, phá rừng, vi phạm pháp luật.
Vì vậy, trong tiến hành CTDV của các đơn vị, phải hết sức coi trọng các biện pháp tích cực chủ động, kiên quyết bảo vệ đồng bào được an toàn cả về tính mạng, tài sản, sự bình yên cuộc sống trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi tình huống. Hướng dẫn, động viên đồng bào biết và có khả năng tự bảo vệ trước sự tàn phá của cả thiên nhiên khắc nghiệt và các thế lực thù địch, các đối tượng xấu.
          2.5. Phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền địa phương nhằm xây dựng cơ sở chính trị địa bàn vững mạnh; tham gia giải quyết có hiệu quả những yếu tố gây mất ổn định và xử lý các tình huống phức tạp ở các địa phương.
Xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện là một mục tiêu chủ yếu của CTDV, nhằm thực hiện tư tưởng chỉ đạo xây dựng chính là để phòng ngừa, là để bảo vệ tích cực, chủ động. Nội dung CTDV tham gia xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở phải hướng vào xây dựng thực lực chính trị, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý Nhà nước của các tổ chức trong hệ thống chính trị địa phương.
Trong điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội các vùng dân tộc thiểu số còn hết sức khó khăn, điều kiện cán bộ, cơ sở vật chất hoạt động của các tổ chức còn hạn chế, CTDV của quân đội tham gia xây dựng cơ sở phải nghiên cứu kỹ tình hình, xác định nội dung, chương trình phải thiết thực hiệu quả, tránh hình thức, hời hợt. Đặc biệt chú trọng việc tạo nguồn và giúp bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Hoạt động dân vận của các đơn vị phải góp phần xây dựng thế trận và tiềm lực quốc phòng - an ninh ở cơ sở, xây dựng khu vực phòng thủ và các phương án tác chiến trên từng địa bàn, từng cơ sở. Đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vụ việc nảy sinh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tôn giáo và dân tộc, gây chia rẽ đoàn kết quân dân của các thế lực thù địch.
Tham gia củng cố, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh là vấn đề cốt lõi để nâng cao hiệu lực thực tế của công tác dân vận. Khéo vận động đồng bào cùng tham gia xây dựng các tổ chức đảng, khắc phục những mặt yếu kém, các hiện tượng tiêu cực trong lãnh đạo, củng cố nâng cao uy tín của các tổ chức đảng với đồng bào.
Tích cực tham gia xây dựng, củng cố tổ chức chính quyền ở cơ sở vững mạnh đủ sức quản lý, điều hành mọi hoạt động của địa phương, bảo đảm chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Các tổ đội công tác kịp thời phát hiện và đánh giá đúng những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ đồng bào, tham mưu giúp chính quyền và cùng chính quyền giải quyết tốt các mâu thuẫn đó. Tăng cường xây dựng mối quan hệ mật thiết giữ cấp uỷ đảng, chính quyền, đơn vị và nhân dân, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của địch.
Tham gia xây dựng các tổ chức đoàn thể vững mạnh là một biện pháp rất quan trọng. Biết tổ chức giúp đỡ các tổ chức như: Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến binh, các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội chữ thập đỏ kiện toàn tổ chức, thu hút hội viên, hoạt động có hiệu quả theo chức năng của từng tổ chức.
Đẩy mạnh hoạt động kết nghĩa giữa đơn vị với các tổ chức địa phương nhằm trao đổi kinh nghiệm và có điều kiện giúp đỡ địa phương đẩy mạnh các phong trào quần chúng, góp phần tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân dân.
Tham gia xây dựng, vận động phát huy mặt tích cực của các thiết chế văn hoá xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc, cùng thực hiện tốt các chủ trương, kế hoạch, các phong trào, các cuộc vận động của địa phương.
Bằng những nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp, có lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức chặt chẽ, các đơn vị quân đội phải cùng với cấp uỷ chính quyền địa phương giải quyết tốt những vấn đề bức xúc nổi lên như: tranh chấp đất đai, khiếu kiện đặc biệt, vượt biên trái phép, buôn lậu qua cửa khẩu, tụ tập nghe truyền đạo trái phép; tụ tập kích động kỳ thị dân tộc, các tệ nạn xã hội, phá rẫy, khai thác rừng trái phép... Để đảm bảo hiệu quả, giải quyết vụ việc phải trên cơ sở phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến đồng bào, cùng đồng bào bàn bạc, thảo luận trước khi xử lý các vấn đề liên quan đến lợi ích đồng bào, lợi ích của từng buôn, bản, làng, phum sóc... theo đúng chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tạo niềm tin cậy của đồng bào với Đảng, Nhà nước, với chính quyền địa phương; bảo vệ đồng bào trong mọi điều kiện hoàn cảnh.
          Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một bộ phận trong CTDV của Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội, nhằm vận động cách mạng đối với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối quan hệ, đoàn kết quân dân. Tiến hành CTDV là nhiệm vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu của quân đội, là vấn đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. CTDV có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta.
          Các DTTS ở Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số nhưng là bộ phận hữu cơ, có vai trò cực kỳ quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân, trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước với mọi tiến trình lịch sử và cách mạng. Trách nhiệm và vinh dự của toàn Đảng, toàn quân, của cả hệ thống chính trị là phải không ngừng tiến hành vận động, thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc dựng xây vì sự nghiệp đại đoàn kết, đại thắng lợi của cả đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đó là nhiệm vụ cấp bách, là truyền thống, là đạo lý Việt Nam.
          Công tác dân vận của quân đội ở các vùng DTTS thời gian qua đã thu được những kết quả hết sức quan trọng, song cũng còn bộc lộ nhiều yếu kém bất cập do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan tác động. Trong khi đó, kẻ thù đang ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Do đó, thực hiện tốt và tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
 Để tăng cường CTDV của quân đội ở các vùng DTTS đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, cần vận dụng đồng bộ và có trọng điểm các giải pháp nêu trên. Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò riêng, có cơ sở lý luận và thực tiễn, yêu cầu và nội dung khác nhau, nhằm tác động trên từng mặt, từng mức độ, song các giải pháp là một hệ thống có quan hệ chặt chẽ.
Vì vậy, quá trình vận dụng tránh hiện tượng tách rời, hoặc cứng nhắc mà phải vận dụng đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm, linh hoạt, coi trọng chất lượng, hiệu quả, góp phần thúc đẩy CTDV của quân đội ở các vùng DTTS ngày càng được tăng cường và đi vào chiều sâu, vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.














[1] V.I.Lê nin: Toàn tp, Nxb tiến b, Mátxcơva, 1977, tp 39, tr. 251.
[2] V.I.Lê nin: Toàn tp, Nxb tiến b, Mátxcơva, 1976, tp 35, tr. 23.
[3] H Chí Minh: Toàn tp, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2000, tp 2, tr. 267.
[4] H Chí Minh: Toàn tp, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2000, tp 5, tr. 698.
[5] TCCT, V vn đề dân tc Nam B và Tây Nguyên hin nay, Tài liu phc v lãnh đạo, H. 2003, tr. 8.
[6] Tóm lược s liu, theo Lê Văn Dũng, Xây dng QĐNDVN v chính tr, Nxb QĐND, H. 2004, tr. 394.

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN LẤY XÂY DỰNG VỀ CHÍNH TRỊ LÀM CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI


XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN LẤY XÂY DỰNG VỀ CHÍNH TRỊ LÀM CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI.
ĐTM 012/2019
  luận và thực tiễn đã khẳng định: xây dựng yêu tố chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Đây là một nguyên lý bất di, bất dịch. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử, do bối cảnh của cuộc đấu tranh dân tộc trong nước và trên trường quốc tế; do sự tác động của những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, mà yêu cầu, nội dung xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị có sự phát triển phù hợp.
Việc xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị trong giai đoạn hiện nay đặt ra những vấn đề rất mới cả về nhận thức, tổ chức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng chính trị của xây dựng  lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
I. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng  lực lượng vũ trang cách mạng của giai cấp công nhân.
1. xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị theo quan điểm Mác – Lênin.
 Cũng như giai cấp và nhà nước, chiến tranh và quân đội là những hiện tượng chính trị xã hội. Sự xuất hiện của chiến tranh và lực lượng vũ trang gắn chặt với  sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin đã nghiên cứu lý luận về chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với lý luận về giai cấp và nhà nước.
Lực lượng vũ trang là một hiện tượng lịch sử. Lực lượng vũ trang ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu và loài người bị phân chia thành các giai cấp. Đi đôi với việc phân chia xã hội thành giai cấp, sự bất bình đẳng về sở hữu tài sản càng trở nên sâu sắc, lực lượng vũ trang được tăng cường và có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn. Khi xuất hiện bộ máy cưỡng bức đặc biệt là nhà nước, thì cũng  đẻ ra thiết chế xã hội mới về chất là lực lượng vũ trang
Khi đã xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước, nảy sinh mâu thuẫn đối kháng thì chiến tranh cũng xuất hiện trong đời sống xã hội. đối với bọn bóc lột thì chiến tranh đã trở thành phương tiện và công cụ quan trọng để nô dịch các dân tộc khác, để củng cố địa vị thống trị của chúng ở trong nước. Ăng ghen đã viết: “ Quân đội là một tập đoàn người vũ trang có tổ chức, do nhà nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công hoặc chiến tranh phòng ngự”
Như vậy, sự xuất hiện của hiện tượng  lực lượng vũ trang trong lịch sử gắn chặt với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, giai cấp, nhà nước và chiến tranh. Lực lượng vũ trang là công cụ để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định.
C. Mác,  Ph. Ăng ghen và Lênin xem xét vấn đề chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ với chính trị. Phạm trù bạo lực, chiến tranh và lực lượng vũ trang bao giờ cũng gắn liền với phạm trù chính trị - giai cấp. Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực; lực lượng vũ trang là công cụ để tiến hành chiến tranh, để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định
Lực lượng vũ trang là lực lượng đặc biệt của một giai cấp, là công cụ vũ trang chủ yếu của nhà nước để tiến hành chiến tranh nhằm thực hiện mục đích chính trị của giai cấp. lực lượng vũ trang hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, bị chi phối bởi chính trị, là công cụ thực hiện chính trị. Mọi mặt hoạt động của lực lượng vũ trang đều bị quy định bởi chính trị và phụ thuộc vào chính trị. Chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang với giai cấp, với chế độ xã hôi, với nhan dân, với dân tộc. Lực lượng vũ trang  bao giờ cũng gắn chặt với giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu sắc. Không có và không thể có  lực lượng vũ trang “phi giai cấp” hoặc “siêu giai cấp”, “quân đội phi chính trị” hoặc “đứng ngoài chính trị”.
Trong khi chăm lo xây dựng sức mạnh toàn diện của lực lượng vũ trang, để làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới thực sự trung thành và phục vụ lợi ích của giai cấp vô sản, Mác, Ăng ghen và Lênin hết sức chăm lo xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, nhất là chăm lo củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, coi đó là vấn đề sống còn của lực lượng vũ trang cách mạng, là một trong những nguyên tắc hết sức cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới.   
Trong quá trình xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị; xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin đã thường  xuyên quan tâm xây dựng cả 3 phương diện chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là sự kiên định và thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp công nhân; giáo dục hệ tư tưởng Mác – Lênin, thực hiện đường lối, nguyên tắc tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ quan lực lượng vũ trang theo quan điểm, đường lối của giai cấp công nhân. Mặt khác, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin rất quan tâm xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang với nhân dân, coi đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới khác về chất với các kiểu lực lượng vũ trang của giai cấp, nhà nước bóc lột trước đây. Đồng thời, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin rất quan tâm đến tăng cường xây dựng các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, nhất là mối quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ trên tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, trên cơ sở thống nhất về nghĩa vụ và quyền lợi; tăng cường củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa trên tinh thần quốc tế vô sản.
V.I Lênin đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành công tác tưởng, công tác tổ chức trong lực lượng vũ trang, coi đó là một nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, trực tiếp nâng cao chất lượng chính trị, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. V.I Lênin đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ luận điểm sai lầm và phản động của giai cấp tư sản coi lực lượng vũ trang “ là trung lập đứng ngoài chính trị”, từ đó đi tới phủ nhận nội dung giai cấp trong xây dựng lực lượng vũ trang.
Những thảm kịch ở Liên Xô và Đông Âu đầu những năm 90 vừa qua là bài học đau xót và lời cảnh tỉnh cho những ai xa rời những nguyên lý, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, nhất là vấn đề xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang kiểu mới.
2. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho lực lượng vũ trang ta luôn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.
Bằng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản quý báu, thể hiện ở một số nội dung sau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở cho mọi mặt khác, coi việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần là một trong những yêu tố quyết định đến tiến trình và kết cục của chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị” và “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”
Tư tưởng coi trọng nhân tố chính tri – tinh thần, coi trọng nguyên tắc xây dựng về chính trị thể hiện tập trung ở vấn đề cốt lõi là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ta luôn luôn là lực lượng chính trị trung thành tin cậy của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân
Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang ở một nước mà thành phần tham gia lực lượng vũ trang là con em của các tầng lớp nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, là đóng góp lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về sự thống nhất gắn bó giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của lực lượng vũ trang nhân dân.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản như quan hệ giữa lực lượng vũ trang với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, quan hệ giữa lực lượng vũ trang ta với lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa – những mối quan hệ cơ bản quyết định quá trình hình thành, phát triển bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị gắn liền với những quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua thực tiễn hơn sáu thập kỷ qua những tư tưởng đó ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và trở thành những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng  lực lượng vũ trang. Đó là nguyên tắc coi trọng xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị là “gốc”, là cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện; không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tinh nhân dân, tính dân tộc; giữ  vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác lập và không ngừng nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị; xây dựng tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Thực tiễn hơn 60 năm xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã tạo dựng được sức mạnh chính trị – tinh thần to lớn của lực lượng vũ trang để chiến đấu và chiến thắng những lực lượng vũ trang xâm lược nhà nghề có số lượng đông, có vũ khí, trang bị, kỹ thuật hiện đại. Lực lượng vũ trang ta đã lập nên những chiến công vẻ vang, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp đấu tranh giành quyền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những giá trị lý luận xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn lực lượng vũ trang phải tập trung sức tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở.
3. Những yếu tố tác động đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị trong giai đoạn hiện nay
a- Tình hình thế giới khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường đang tác động mạnh mẽ sâu sắc, nhiều mặt đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
 Cục diện kinh tế, chính trị thế giới thay đổi sâu sắc, nhanh chóng, nhất là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu làm cho tương quan so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng thay đổi bất lợi cho chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra trong điều kiện mới, với những nội dung mới, hình thức phức tạp mới,  dưới những sắc thái mới, mà tính chất của chúng không kém phần gay go, quyết liệt
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển với tốc độ phi thường đưa tới những tiến bộ to lớn, làm xuất hiện nhiều nhân tố mới trong kinh tế và cả trên các mặt của đời sống xã hội … đồng thời, làm nảy sinh những khó khăn thánh thức mới cực kỳ gay gắt.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù định thay đổi chiến lược tiến công chủ nghĩa xã hội và các phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới, từ xâm lược bằng vũ trang là chủ yếu sang xâm lược bằng phi vũ trang, bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” là chủ yếu, kết hợp với răn đe quân sự, sẵn sàng tiến hành chiến tranh xâm lược, kể cả tiến hành chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao.
b- Sự phát triển của đất nước trong tiến trình đổi mới, đẩy mạnh cong nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra những vấn đè mới đối với xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đời sống xã hội những nhân tố kinh tế, chính trị xã hội, giai cấp, tư tưởng đang biến đổi và tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trên các mặt chủ yếu sau đây:
Sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị
Sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của đất nước đã tác động tích cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang: lòng tin vào Đảng, vào chế độ được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, làm tăng thêm sức mạnh chính trị – tinh thần của lực lượng vũ trang .
Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tích cực, thì mặt trái của nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới, tác động không nhỏ đến lực lượng vũ trang như: ý thức giác ngộ chính trị; nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự thoái hoá biến chất, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Vì vậy, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là vấn đề cốt tử trong xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
Sự tác động của những biến đổi về cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta hiện nay đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Trong quá trình vận động, biến đổi, các giai cấp và tầng  lớp xã hội có xu hướng xích lại gần nhau, liên kết, hợp tác với nhau, trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặt khác với cơ cấu xã hội – giai cấp không thuần nhất, phát triển đa dạng, đan xen, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự không thuần nhất về chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng khác nhau thậm chí đối lập nhau sẽ tác động đến quá trình xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay phải giải quyết mâu thuẫn giữa việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang với thành phần tham gia lực lượng vũ trang từ các giai cấp, tầng lớp khác nhau của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ.
c- Sự tác động của cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh ý thức hệ đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị
Hiện nay cùng với những tàn dư của tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản là hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa chống cộng và chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, xét lại đang tấn công toàn diện và mạnh mẽ vào bản chất cách mạng của quân đội ta.
Bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch coi trọng chống phá ta về chính trị, tư tưởng và văn hoá, chúng tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng “về sự phá sản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, rêu rao luận điệu “ Phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang làm tha hoá về tư tưởng, đạo đức, lối sóng của cán bộ, chiến sĩ ta, làm cho lực lượng vũ trang biến chất về chính trị.
Đây  là cuộc chiến tranh không có khói lửa, không có tiếng súng, không dễ dàng nhận rõ mặt kẻ thù như trong chiến tranh vũ trang trước đây, chúng ta không chỉ chống lại chiến lược “Diễn biến hoà bình” mà còn chống lại cả nguy cơ “Tự diễn biến” từ bên trong.
Trong những điều kiện đó việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tư tưởng đó trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang, là một nội dung rất cơ bản, có tính chất quyết định đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
d- Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Quán triệt đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ và từ thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta từ sau năm 1975 đến nay, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có sự phát triển từng bước và đổi mới mạnh mẽ trong quá trình đổi mới đất nước.
Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ chủ yếu là tư duy về quân sự, về chiến tranh đã phát triển một cách toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao, quân sự; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân để chủ động ứng phó với mọi tình huống, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà bình để xây dựng đất nước, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
Phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng – an ninh với đối ngoại; quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong khi đặt nhiệm vụ trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn coi trọng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ, quan hệ khăng khít với nhau
Yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau đây:
Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.
Xây dựng và phát triển chế  độ kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, vững mạnh, đồng thời phải trực tiếp bảo vệ từng tế bào của chế độ một cách kiên quyết và thường xuyên. Xây dựng và bảo vệ xâm nhập lẫn nhau, diễn ra một cách phổ biến, thường xuyên ở mọi lúc mọi nơi, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động, trong mỗi tổ chức, mỗi con người.
Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, một mặt nhấn mạnh tích cực xây dựng đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác không coi nhẹ các biện pháp vũ trang bảo đảm có đủ sức mạnh cần thiết để răn đe, giữ vững hoà bình và sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược. điều đó đòi hỏi:
Phải chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước: tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị – tinh thần, tiềm lực khoa học – công nghệ và tiềm lực quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ, giữ gìn hoà bình, không để xảy ra chiến tranh là thượng sách để giữ nước. Xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là tạo ra sức mạnh lớn nhất để bảo vệ đất nước, là quá trình bảo vệ tích cực nhất, chủ động nhất. Mỗi bước phát triển của quá trình xây dựng là tạo nên một sức mạnh mới để bảo vệ Tổ quốc
Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng an ninh và đối ngoại trong công cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ động đối phó có hiệu quả và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động chống phá từ bên trong và tấn công quân sự từ bên ngoài của các thế lực thù địch.
e- Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay:
Cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới
Luôn luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữa vững ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong giai đoạn mới.
Tích cực tham gia, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang lao động sản xuất trong giai đoạn mới.
II- Những giải pháp cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân về chính trị trong giai đoạn hiện nay.
1. Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang.
Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị là vấn đề rất cơ bản, làm cơ sở tạo ra sức mạnh của lực lượng vũ trang. Chỉ có giác ngộ chính trị cao, lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng thì lực lượng vũ trang mới kiên định với mục tiêu lý tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao
Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh chính trị, tư tưởng, tinh thần, làm cơ sở tạo thành sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang. Lập trường, bản lĩnh chính trị còn là cơ sở để cán bộ, chiến sĩ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là điều kiện cơ bản để cán bộ, chiến sĩ nhận thức, xem xét và giải quyết đúng đắn các sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã hội; nhận thức đúng kẻ thù, không mơ hồ ảo tưởng, lẫn lộn bạn – thù, địch – ta; có thái độ kiên quyết, đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái xấu, cái sai.
Lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang còn là một trong những điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị, làm cho lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân
Nội dung nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang bao gồm:  Nâng cao nhân thức, giác ngộ cho cán bô, chiến sĩ về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kiên định, không giao động, hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; xây dựng ý chí, động cơ, quyết tâm thực hiện mục tiêu lý tưởng; đấu tranh với những quan điểm sai trái, hiện tượng hòai nghi, dao động về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu, học tập, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tưởng của Đảng giữ vai trò chủ đạo chi phối, định hướng nhận thức và hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí minh, bổ sung, hoàn thiện đường lối. đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các trào lưu tư tưởng tư sản, phản động, những quan điểm, hiện tượng sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thường xuyên quán triệt, phổ biến tình hình, nhiệm vụ cách mạng nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, của từng đơn vị. Làm cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang luôn thấu triệt nhiệm vụ, nắm vững tình hình mọi mặt, có động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Giáo dục âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, xây dựng ý thức cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ.
Thường xuyên giáo dục truyền thống, lịch sử vẻ vang của dân tộc, của Đảng, của quân đội, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu Đảng, yêu chế độ, yêu nhân dân. Xây dựng tình cảm, trách nhiệm giữ gìn và phát huy truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc và quân đội.
Bồi dưỡng, xây dựng, hình thành ở cán bộ, chiến sĩ thế giới quan khoa học và cách mạng, có quan điểm và phương pháp xem xét, giải quyết các sự kiện, hiện tượng một cách đúng đắn, có lập trương, bản lĩnh chính trị vững vàng, có thái độ kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái mới, cái tiến bộ, phê phán cái xấu, cái sai, cái tiêu cực, lạc hậu
Đấu tranh khắc phục, ngăn chặn những hiện tượng thoái hoá, biến chất về chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu kiên định, thiếu nhạy cảm về chính trị, “dĩ hoà vĩ quý” “ gió chiều nào che chiều ấy”, cơ hội, thủ đoạn về chính trị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh…
2. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang.
Kiên trì, giữ vững sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, kết hợp với nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang, lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đấu tranh chống thủ đoạn “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với quân đội. Củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương.
Xây dựng các tổ chức trong lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của quân đội. Thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ đảng gắn với kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ trì, cán bộ chủ chốt. Coi trọng củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, có chất lượng cao, số lượng phù hợp, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giữ vững và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật Đảng.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện ché độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội. Chế độ một người chỉ huy và chế độ chính uỷ, chính trị viên đều là bộ phận trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Người chỉ huy và người chính uỷ, chính trị viên hoạt động dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng uỷ cùng cấp. Người chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chủ trì công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị. Quan hệ giữa người chỉ huy và người chính uỷ, chính trị viên là quan hệ hợp đồng công tác.
Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững sự lãnh đạo của Đảng với tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Không đối lập sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục quan niệm sai lầm đòi tăng cường sự quản lý của Nhà nước bằng cách buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
3.3 Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư, công tác tổ chức trong lực lượng vũ trang
Nắm vững đường lối, nhiệm vụ chính trị; bám sát đối tượng và tình hình thực tiễn, đổi mới nội dung hình thức, tiến hành công tác tư tưởng, công tác tổ chức phù hợp, thiết thực kịp hời. đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, văn hoá, nhất là công tác giáo dục chính trị, công tác tư tưởng lý luận, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; xây dựng và tuyên truyền đường lối, chính sách, giải thích có lý, có tình những hiện tượng của đời sống xã hội; đấu tranh tư tưởng lý luận; xây dựng, củng cố niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, xây dựng động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ. Đổi mới  công tác tổ chức xây dựng Đảng, công tác cán bộ, công tác quần chúng, công tác chín sách…kết hợp chặt chẽ công tác tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách để tiến hành có hiệu quả mọi nhiệm vụ, mọi lĩnh vực hoạt động của lực lượng vũ trang
3.4. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị trong xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị
Đội ngũ cán bộ là lực lượng nòng cốt tạo thành tổ chức, tạo thành quân đội. Đường lối, chính sách và cán bộ là nhân tố quyết định sự nghiệp cách mang, xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang. Bản chất giai cấp công nhân, bản chất chính trị xã hội, sức mạnh chính trị của lực lượng vũ trang được thể hiện tập trung ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ là người trực tiếp chỉ huy đơn vị, giáo dục rèn luyện chiến sĩ, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh làm cơ sở để xây dựng các đơn vị lực lượng vũ trang  vững mạnh vè chính trị, giáo dục, rèn luyện chiến sĩ. Để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị phải hết sức coi trọng xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ trì về chính trị.
3.5. Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội trong lực lượng vũ trang vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, đảo bảo chất lượng, hiệu quả.
Các tổ chức chính trị trong lực lượng vũ trang gồm: đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ, Công đoàn, Hội đồng quân nhân. Đây là một bộ phận của hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động ở các đơn vị lực lượng vũ trang để đại diện, bảo vệ lợi ích và thực hiện, phát huy quyền làm chủ của các thành viên, hội viên. Cùng với việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện thì xây dựng tổ chức chính trị,  xã hội vững mạnh sẽ trực tiếp góp phần xây dựng, củng cố thể chế chính trị trong lực lượng vũ trang vững mạnh – một nội dung cơ bản xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
3.6. Tăng cường củng cố sự đoàn kết thống nhất, phát huy dân chủ, tăng cương kỷ luật, giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang.
Quan hệ chính trị của lực lượng vũ trang được thể hiện trước hết ở quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng xây dựng củng cố và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, đó là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, quan hệ đồng chí đồng đội, quan hệ cá nhân với tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy với phục tùng… Đây là mối quan hệ nội tại bên trong của quân đội cách mạng, được thể hiện trên cơ sở giác ngộ sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, thống nhất lợi ích. Vì vậy, các mối quan hệ đó phải được thực hiện trên cơ sở  tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của điều lệnh, kỷ luật của lực lượng vũ trang đồng thời phải thực sự dân chủ, bình đẳng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, lợi ích. Cá mối quan hệ đó phải được xây dựng và giải quyết trên nền tảng của tình cảm đồng chí, đồng đội, luôn sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Đó phải là mối quan hệ đoàn kết, thương yêu, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau được tạo lập và phát triển từ yêu càu của hoạt động lực lượng vũ trang, hoạt động chiến đấu.
3.7. Nâng cao chất lượng công tác dân vận, giữ vững, tăng cường quan hệ đoàn kết quân dân.
Lực lượng vũ trang ta là lực lượng vũ trang của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân là thể hiện bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang. Hơn nữa, cơ sở chính trị xã hội vững chắc của quân đội là nhân dân, sức mạnh từ gốc của lực lượng vũ trang là trận địa lòng dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu… Là tiêu chí để phân biệt quân đội cách mạng với phản cách mạng, đồng thời thể hiện tập trung bản chất chính trị của lực lượng vũ trang. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng giữ vững, tăng cường quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tiến hành và nâng cao công tác dân vận. 
3.8. Thường xuyên quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong giữ vững ổn định chính trị .
Hồ Chí Minh khẳng định: Chính trị của lực lượng vũ trang phải được thể hiện trong lúc đánh giặc. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị được thể hiện bằng những hoạt động chính trị, giải quyết các mối quan hệ chính trị, được hội tụ ở việc tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
Cần thực hiện thống nhất và thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất, đội quân công tác của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới. Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. xây dựng quân đội cách mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, vững chắc; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp mọi nơi nòng cốt cho nhân dân địa phương đánh giặc. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Ngăn chăn làm thất bại mọi mưu đồ xâm lược, “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
3.9. Tích cực đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng, phong, chống “diễn biến hoà bình” “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang.
Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống những âm mưu, thủ đoạn, quan điểm, hiện tượng sai trái thù địch. Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang sử dụng chiến lược diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá toàn diện sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Một trong những thủ đoạn cơ bản của chiến lược đó là chống phá trên lĩnh vực chính trị tư tưởng – văn hoá, “phi chính tri hoá” lực lượng vũ trang . Phòng, chống, đấu tranh, ngăn chặn và làm thất bại những âm mưu thủ đoạn đó sẽ góp phần trực tiếp xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang về chính trị.
Tích cực, kiên quyết đấu tranh vạch trần những thủ đoạn xuyên tạc phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội và trong lực lượng vũ trang; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận lịch sử, truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc, lực lượng vũ trang, những luận điệu “ đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập”; ca ngơi, cổ vũ những giá trị của chủ nghĩa tư bản, văn hoá, lối sống phương tây; những thủ đoạn kích động đối lập Đảng với Nhà nước, với hệ thống chính trị, với lực lượng vũ trang; xuyên tạc, phủ nhận bản chất, mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, tầm thường hoá, vô hiệu hoá vai trò của lực lượng vũ trang trong thời bình.
  Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở là yêu cầu khách quan, là nguyên tắc bất di, bất dịch trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải toàn diện, cả về chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật… trong đó xây dựng về chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với hoàn thành nhiệm vụ được giao của các lực lượng vũ trang, sự sống còn của chế độ. Để đáp ứng yêu cầu đó, Đảng phải nắm vững những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam xác định quan điểm chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang đúng đắn, nhằm xây dựng lực lượng vũ trang trở thành lực lượng nòng cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Ngày nay thường xuyên quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về chính trị; nhất là trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO. Thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân. Thực hiện tốt Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị trong quân đội… Đảm bảo: Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” lực lượng vũ trang nhân dân.
Tài liệu tham khảo
1. Lênin, Toàn tập, tập 12, 41, Nxb Mátxcơva, 1980.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, 5, 6, 7, 9 và 11, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000.
3. Văn kiện Đại hội Đảng IX, X, Nghị quyết Trung ương VIII Khoá IX.
4. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VII, VIII.