Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2023

 

ĐẤU TRANH BẢO VỆ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

                                                                    

Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng Internet, các trang mạng xã hội để đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu… nhất là vấn đề lý luận nền tảng tưởng của Đảng.

Các thế lực thù địch đang sử dụng nhiều phương tiện với nhiều thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trên một số hướng sau: Phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng: xuyên tạc, phản bác, phủ định Học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; Phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên CNXH của Đảng và Nhà nước ta: Các thế lực thù địch phê phán triệt để CNXH hiện thực, bác bỏ con đường đi lên XHCN, công khai ca ngợi con đường TBCN; Phủ nhận thành quả và vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo; Chúng phản bác Cương lĩnh, quan điểm và nguyên tắc cơ bản của Đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng; Các thế lực thù địch bằng mọi cách tác động vào nội bộ các cơ quan chính phủ Việt Nam, dựng chuyện có phái này, phái nọ, trong các cơ quan Đảng, Nhà nước nhằm tạo ra nghi ngờ nhau trong nội bộ, làm suy giảm đoàn kết trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân...Các thế lực thù địch tìm mọi cách bịa đặt, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước; Phủ định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; Các thế lực thù địch đã  xuyên tạc tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam, phủ nhận những thành tựu to lớn của nhân dân Việt Nam  trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời thổi phồng những yếu kém, khuyết điểm của Nhà nước Việt Nam trong quản lý kinh tế - xã hội, coi tệ quan liêu, tham nhũng là khuyết tật không thể khắc phục được trong xã hội XHCN… Và thực tiễn đã chứng minh rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng thì đất nước ta ngày càng giàu mạnh, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc hơn nhất là công cuộc phòng chống tham nhũng hiệu quả càng cao.

Để  đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội hiện nay cần phải đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung thông tin chính thống, đảm bảo phong phú, đa dạng, nhiều cấp độ, tùy theo đối tượng để cung cấp, phổ biến, truyền tải. Đồng thời luôn xây dựng bản lĩnh vững vàng, có nhận thức đúng đắn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Loại bỏ những thông tin xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch ra khỏi không gian mạng bằng cách tạo môi trường trong sạch về thông tin.

                                                                                              NHK

 

Khuyến khích, bảo vệ cán bộ "6 dám"

 Bảo vệ những cán bộ “6 dám”, gồm “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám nói, dám đột phá sáng tạo và dám đương đầu với khó khăn, thử thách”, là một nội dung mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Tiếp đó, ngày 22/9/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận 14 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, trong đó “khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá”. Trên tinh thần của Kết luận 14, mới đây Bộ Nội vụ đã công bố và tổ chức nhiều hội thảo lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Nghị định quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.

Kết luận 14 được ban hành đã mở ra một chủ trương đúng đắn và hết sức cần thiết, cấp bách trong bối cảnh Đại hội XIII của Đảng đặt ra mục tiêu đưa nước ta đến năm 2030 trở thành nước có nền công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại và vượt qua mức thu nhập trung bình; năm 2045 trở thành nước có thu nhập cao, phồn vinh, hạnh phúc. Yêu cầu đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm chắc chắn sẽ là động lực lớn, thúc đẩy chúng ta đạt được những mục tiêu đó.

Nếu xét về phẩm chất đạo đức gắn với trách nhiệm, thì đội ngũ cán bộ có thể chia thành 3 loại: Thứ nhất là những cán bộ, đảng viên gương mẫu, dám nghĩ, dám làm, không lùi bước trước khó khăn. Thứ hai, là những người có tư tưởng trông chờ, thụ động, né tránh việc khó, không có tinh thần đổi mới, sáng tạo, chịu trách nhiệm, mà chỉ vo tròn, “giữ ghế”. Và thứ ba, là những cán bộ thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền để thu lợi cá nhân.

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đẩy mạnh nỗ lực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đưa ra ánh sáng nhiều cán bộ, đảng viên thuộc nhóm thứ ba. Tuy nhiên, nhóm thứ hai thì dường như vẫn “vô can”. Quan điểm “làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, không làm không sai” được nhóm này coi là “kim chỉ nam”.

Nhìn ra lĩnh vực tư nhân, các doanh nghiệp ngày nay đang thể hiện tính năng động, sáng tạo rất mạnh mẽ, áp dụng nhiều sáng kiến, ý tưởng mới dựa trên những nghiên cứu thực tiễn, để đạt được những bước tiến vượt bậc. Trong khi đó, ở lĩnh vực công, tình trạng trì trệ, không dám làm, dám chịu trách nhiệm đã trở thành một “căn bệnh” thâm căn cố đế. Chuyện một bộ phận cán bộ, đảng viên thường “rỉ tai” nhau “bây giờ làm gì cũng sợ sai, làm xong rồi cũng không biết có sai hay không” không phải là cá biệt.

Cán bộ biết sợ sai là tốt, nhưng sợ đến mức không dám làm, không dám hành động vì sợ gánh trách nhiệm thì lại là một vấn đề đáng lên án. “Sợ sai” ở đây phải hiểu là người cán bộ giữ được phẩm chất đạo đức trong sáng, liêm chính, nắm vững quy định về luật pháp, hiểu biết về chuyên môn để không sai phạm, vi phạm. Chứ không phải “sợ sai” là đồng nghĩa luôn với thụ động, làm việc gì cũng theo lối mòn, “bó gối” chờ chỉ đạo, hoặc đùn đẩy trách nhiệm sang bộ phận khác. “Sợ sai” như vậy đồng nghĩa với gây trì trệ, kìm hãm sự phát triển của tập thể, và rộng ra là cả đất nước.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Tư tưởng bảo thủ như những sợi dây cột chân cột tay người ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám làm”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng từng tuyên bố rất rõ: “Ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm”.

Cán bộ “sợ sai”, không dám nghĩ dám làm, có thể xuất phát từ nguyên nhân trình độ, năng lực kém, lại không chịu học tập, tự trau dồi, bồi dưỡng, chỉ bo bo giữ ghế, đùn trách nhiệm cho người khác. Những cán bộ như vậy thì cần phải loại bỏ khỏi đội ngũ.

Nhưng đáng tiếc nhất là cán bộ có trình độ, năng lực, nhưng không dám nghĩ dám làm, sợ gánh trách nhiệm do “cơ chế”. Thời gian qua, việc khởi tố, kết án một loạt cán bộ, đảng viên, kể cả những cán bộ cấp cao, đã khôi phục được lòng tin mạnh mẽ của quần chúng nhân dân vào Đảng. Nhưng với một bộ phận cán bộ, đảng viên còn non về bản lĩnh, thì chiến dịch chống tham nhũng, tiêu cực càng khiến họ bất an, rút sâu hơn vào vỏ bọc an toàn.

Chính vì vậy, dự thảo Nghị định mới của Chính phủ về khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung là một bước đi cần thiết để cởi bỏ sự bó buộc trong tinh thần của những người cán bộ có năng lực, muốn áp dụng những sáng tạo, đổi mới vào công việc để đạt được hiệu quả, lợi ích cao hơn cho tập thể, nhưng còn e dè “cơ chế”.

Điều quan trọng, dám nghĩ, dám làm không phải làm liều, làm bừa mà là có cơ sở lý luận và thực tiễn, có sự hiểu biết, tính toán thận trọng. Thực tiễn cuộc sống cho thấy, cái mới ra đời chưa bao giờ là suôn sẻ, thậm chí sẽ vấp phải nhiều trở ngại. Vì vậy, chúng ta phải có cơ chế để khuyến khích cho những ý tưởng mới, cách làm hay, những sáng kiến đổi mới, cải tiến đột phá, chưa có tiền lệ nhằm mang lại lợi ích, hiệu quả cao hơn. Từng cá nhân, bộ phận dám nghĩ, dám làm, dám sáng tạo, đổi mới, thì tập thể, địa phương và quốc gia dân tộc mới có thể đạt được những bước phát triển mạnh mẽ.

Trên thực tế, thành quả của công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước ta trong hàng chục năm qua đã ghi nhận phần đóng góp to lớn của những nhân tố dám nghĩ dám làm, dám đổi mới, thể hiện năng lực và bản lĩnh của người cán bộ. Không thể không nhắc tới Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc, người khởi xướng chủ trương “Khoán hộ” (“Khoán 10”) ở Vĩnh Phúc những năm 1966-1968 với những đổi mới, sáng tạo phát triển nông nghiệp; Tổng Bí thư Trường Chinh, người đặt nền móng cho công cuộc Đổi mới; nhà bác học Lương Định Của, người đi đầu trong lĩnh vực cải tạo giống cây trồng; Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với chủ trương “Những việc cần làm ngay”, Giáo sư Trần Đại Nghĩa với những cống hiến to lớn cho ngành công nghiệp quốc phòng.v.v.. Đó là những người cán bộ, đảng viên không chỉ thấm nhuần đạo đức cách mạng, mà còn phát huy vai trò nêu gương, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích của nhân dân.

Một nghị định của Chính phủ về bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm sẽ tạo ra hành lang pháp lý để khuyến khích, bảo vệ những cán bộ “6 dám” mà Đại hội Đảng XIII đã nêu. Việc xây dựng dự thảo nghị định là cấp bách, nhưng cũng không thể vội vàng, qua loa mà cần tiếp thu những ý kiến đóng góp rộng rãi, thực chất và xây dựng để hoàn thiện hành lang pháp lý này một cách thấu đáo, toàn diện, tránh những kẽ hở để bị lợi dụng thành “che chắn” cho sai phạm. Cơ chế bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới khi đó chắc chắn sẽ khơi dậy được khát vọng cống hiến, tinh thần sáng tạo, hết lòng hết sức vì nước, vì dân của đội ngũ cán bộ

QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM VÀ AUSTRALIA


Nhận lời mời của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, Toàn quyền Australia David Hurley thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 3 đến 6/4/2023. Australia là nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trải qua 50 năm (26/2/1973 - 26/2/2023), quan hệ Việt Nam và Australia ngày càng phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, kinh tế-thương mại…

Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam

 Mặc trang phục đặc trưng của nước ngoài để chụp ảnh tại các khu du lịch Việt Nam là quảng bá hết sức vô duyên cho văn hóa nước ngoài, thiếu tôn trọng văn hóa bản địa, văn hóa dân tộc và có thể khiến du khách quốc tế hiểu nhầm. Thay vào đó nên khuyến khích check-in với trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số ở địa phương, vừa nổi bật, vừa phù hợp với khung cảnh.

KHÔNG THỂ BẺ CONG SỰ THẬT!

     Hiện nay, lợi dụng việc lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân vào dự thảo Luật Đất đai ( sửa đổi) thì có nhiều đối tượng chống đối đã lợi dụng quyền tự do ngôn luận và quyền dân chủ đưa ra nhiều luận điệu xuyên tạc hòng chống phá hoạt động hết sức có ý nghĩa này. Cụ thể là:
     Dưới chiêu bài “Trí thức góp ý dự thảo Luật”, họ cố tình xuyên tạc, vu khống theo lối “ bẻ cong sự thật” nhằm bôi đen các vấn đề nhạy cảm, phức tạp liên quan đến đất đai nhằm thực hiện ý đồ chống phá gây rối tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Thời gian gần đây, trên Internet và mạng xã hội đã xuất hiện một số ý kiến núp bóng “ góp ý” nhưng thực tế đã xuyên tạc khi cho rằng, Quốc hội Việt Nam sửa đổi Luật Đất đai nhằm mục đích “ thao túng thị trường đất đai”, vì “ lợi ích nhóm” chứ không vì quyền lợi của nhân dân.
     Họ dùng thủ thuật cắt gọt, làm sai lệch phát biểu chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước để vu khống và tố cáo. Thêm vào đó, họ phủ nhận những gì mà đổi mới đã và đang đem lại những kết quả tích cực trong việc thực hiện pháp luật nhiều năm qua khi cho rằng có sự “ cài cắm” lợi ích vào việc xây dựng pháp luật. Nguy hiểm hơn khi họ quy kết rằng, “ Việt Nam có sửa đổi Luật nhiều lần thì cũng chỉ là hoạt động chắp vá, không thực tiễn, không hề vì dân”. Họ còn vu khống việc sửa đổi Luật Đất đai để tạo cơ sở pháp lý cho việc “ cướp đất” của chính quyền cộng sản Việt Nam và họ lộ rõ mục đích của mình khi trở lại ý kiến: Muốn gỡ rối thì chính quyền Việt Nam phải xóa bỏ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai! Đây là “ chiêu trò” mà họ “ kiên định” đưa ra rất nhiều lần, ngay từ khi các cơ quan có thẩm quyền lên Kế hoạch sửa đổi Luật Đất đai và đưa dự thảo sửa đổi Luật ra xin ý kiến của các tổ chức và cá nhân từ nhiều tháng trước đây.
     Một trong những thủ đoạn rất nguy hiểm nữa là họ thường xuyên đăng các nội dung liên quan đến những tiêu cực về đến đất đai, như các vụ án về tranh chấp phức tạp xảy ra ở một số nơi…nhằm tác động đến tư tưởng của ngưới dân và phát sinh tư tưởng không tin tưởng của nhân dân vào hiệu quả của việc lấy ý kiến đối với dự thảo sửa đổi Luật. Họ còn liên tục lập những ních ảo, tài khoản giả mạo người dân để bình luận, kích động và tạo tâm lý không tin tưởng vào chính quyền.
    Như chúng ta đều biết, việc lấy ý kiến đóng góp với dự thảo Luật Đất đai ( sửa đổi) là việc làm hoàn toàn đúng đắn để phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, đặt nhân dân vào vị trí trung tâm nhằm bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của người dân. Hơn nữa, việc sửa đổi Luật Đất đai là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy nguồn lực đất đai theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao…
     Thời gian qua, công tác lấy ý kiến của các tổ chức và cá nhân được tổ chức rộng rãi trên phạm vi toàn quốc và thu hút sự tham gia của các cấp, các ngành, các giai tầng xã hội. Trên cơ sở những ý kiến góp ý, dự thảo sẽ được Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII sắp tới. Do vậy, những ý kiến xuyên tạc về việc lấy ý kiến dự thảo Luật Đất đai ( sửa đổi) trong thời gian hiện nay càng giúp cho cộng đồng nâng cao tinh thần cảnh giác cao độ đối với những thông tin sai lệch kiểu đó. Chúng ta tin tưởng rằng, các tầng lớp nhân dân sẽ không tin vào những thông tin hòng bẻ cong sự thật nhằm xuyên tạc chính sách đất đai đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam./.
Yêu nước ST.

Chỉ số hạnh phúc của Viêt Nam đã tăng 12 bậc

 Báo cáo hạnh phúc thế giới (World Happiness Report-WHR) năm 2023 công bố ngày 20-3-2023 cho thấy chỉ số hạnh phúc của Việt Nam đã tăng 12 bậc, từ vị trí 77 vào năm 2022 lên vị trí 65 trong năm 2023. Hạnh phúc là mục tiêu cơ bản của con người. Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận mục tiêu này và kêu gọi cách tiếp cận toàn diện, công bằng và cân bằng hơn đối với tăng trưởng kinh tế nhằm thúc đẩy hạnh phúc và phúc lợi của tất cả mọi người. Các tiêu chí được đánh giá gồm: GDP bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội, tuổi thọ trung bình, quyền tự do lựa chọn cuộc sống, sự rộng lượng và nhận thức về tham nhũng.st

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 03 THÁNG 4 NĂM 1953!

"GIÚP NHÂN DÂN NƯỚC BẠN
LÀ TỰ GIÚP MÌNH”!
Đó là lời của Bác được trích trong thư gửi các đơn vị bộ đội có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào ngày 3/4/1953: "Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”.
     Thực hiện tuyên bố chung “Đoàn kết Việt-Miên-Lào chống Pháp”, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho Quân đội ta nhiệm vụ vừa giúp bạn tổ chức, xây dựng lực lượng, vừa cùng quân và dân nước bạn trực tiếp chiến đấu chống quân xâm lược. Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta tham gia làm nhiệm vụ quốc tế, phải coi việc giúp đỡ bạn là tự giúp mình.
     Thực hiện lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn sát cánh, gắn bó, chiến đấu và sẵn sàng hy sinh để giúp đỡ quân đội và nhân dân nước bạn trên tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả, trong sáng và vô tư; cùng nhau đánh thắng kẻ thù chung, giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân, xây dựng và phát triển đất nước.
     Mối quan hệ, tình đoàn kết đặc biệt Việt-Lào mãi mãi là niềm tự hào của hai dân tộc. Đó là mối quan hệ mẫu mực hiếm có, trong sáng, hết mực thủy chung, được xây đắp trên tinh thần quốc tế vô sản, tạo nên một sức mạnh giúp nhân dân hai nước vượt qua mọi khó khăn, giành được thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
     Ngày nay, mối quan hệ đặc biệt Việt-Lào vẫn được Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội hai nước không ngừng củng cố và tăng cường. Hợp tác chính trị ngày càng bền chặt, hợp tác quốc phòng, an ninh được giữ vững; hợp tác kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội ngày càng đa dạng… mang lại hiệu quả và lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thương nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua/ Việt-Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
     Học và làm theo lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, tích cực giúp bạn, đẩy mạnh hợp tác quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển./.
Môi trường (Yn) ST.

NGUYÊN TỔNG THỐNG CHILE KHÓC KHI NGUYÊN CHỦ TỊCH NƯỚC NGUYỄN MINH TRIẾT KỂ VỀ "NGƯỜI MẸ" CỦA CẢ HAI

 Chiều 30-3, tại thị xã Bến Cát (Bình Dương) diễn ra cuộc hội ngộ xúc động giữa hai người bạn thân và đồng thời là hai anh em có chung một “người mẹ”: Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và nguyên Tổng thống Chile Michelle Bachelet.

Đây là lần hội ngộ đầu tiên giữa hai anh em sau lần gặp gần nhất ở Hà Nội vào năm 2017, nhân dịp Việt Nam tổ chức Hội nghị cấp cao APEC.
"Hôm nay tôi và các lãnh đạo tỉnh Bình Dương rất vui được chào đón nguyên Tổng thống Chile Michelle Bachelet và đoàn đại biểu đến thăm. Chile là người bạn lớn của nhân dân Việt Nam. Riêng bà Bachelet có nhiều đóng góp rất quan trọng cho quan hệ hợp tác giữa hai nước" - Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết chia sẻ khi đón tiếp bà Bachelet tại nhà riêng.
Sau đó, nguyên Chủ tịch nước xúc động nói: "Tôi rất nhớ mẹ Ángela. Mẹ Ángela là người mẹ duy nhất có hai con là nguyên thủ quốc gia" - nguyên lãnh đạo Việt Nam xúc động kể về bà Ángela Margarita Jeria Gómez - mẹ ruột của nguyên Tổng thống Bachelet và mẹ nuôi của ông.
Chủ tịch nước và tổng thống tuy khác nhau về cách gọi nhưng cùng một nghĩa là "President", tức nguyên thủ quốc gia.
Trong lúc nguyên lãnh đạo Việt Nam kể lại những kỷ niệm của ông về mẹ Ángela, bà Bachelet chăm chú nghe và có những khoảnh khắc bà xúc động, lấy tay quệt nước mắt.
Trở lại Việt Nam lần thứ tư đúng dịp kỷ niệm 52 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Chile, nguyên Tổng thống Chile Michelle Bachelet cho biết bà như trở về nhà. "Tôi rất vui mừng và hạnh phúc được trở lại Việt Nam. Tôi luôn nhận được sự đón tiếp rất đặc biệt của Việt Nam, nhất là của người anh Nguyễn Minh Triết" - bà xúc động nói.
Trong chuyến thăm lần này, bà Bachelet đi cùng Quận trưởng và các lãnh đạo Quận Cerro Navia, địa phương Chile nơi đặt bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bà Bachelet là một trong những lãnh đạo nước ngoài thăm Việt Nam nhiều lần nhất, tổng cộng 5 lần. Bà thăm Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1977 ở tuổi 26 với tư cách là thành viên của Liên đoàn Thanh niên Dân chủ thế giới, phản đối chiến tranh Việt Nam. Sau đó, bà thăm Việt Nam thêm nhiều lần nữa trên cương vị Tổng thống Chile và phó Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.
Tình bạn đặc biệt giữa bà Bachelet và nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bắt đầu từ năm 2006, khi Tổng thống Chile Bachelet đến Việt Nam dự Tuần lễ cấp cao APEC, sự kiện quốc tế do Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết chủ trì.
Trong thời gian còn đương chức (2006-2011), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Tổng thống Chile Bachelet luôn nỗ lực dành thời gian gặp nhau bên lề các diễn đàn đa phương như Thượng đỉnh APEC ở Singapore năm 2010.
Về phía ngược lại, trong hai nhiệm kỳ tổng thống (2006 - 2010 và 2014-2018), bà Bachelet luôn quan tâm thúc đẩy quan hệ giữa hai nước vì "Việt Nam luôn trong trái tìm bà". Bà đã nâng cấp quan hệ đối tác toàn diện Chile - Việt Nam vào năm 2007.
Khi còn là nguyên thủ của Chile, bà Bachelet luôn đưa mẹ đi cùng trong những chuyến công du nước ngoài. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã từng gặp mẹ Ángela hai lần ở Việt Nam. Khi ông thăm chính thức Chile năm 2019, ông cũng đến tận nhà riêng thăm em gái Bachelet và mẹ Ángela./.
ST


THÁNG 4❤️ NHỚ NGÀY NON SÔNG THỐNG NHẤT!

 Một tháng Tư nữa đã lại về, ta chợt quên bao chuyện riêng tư thường nhật để hòa chung niềm vui toàn dân tộc – niềm vui của ngày chiến thắng 30-4, ngày giang sơn được nối liền một dải từ ải Nam Quan đến tận mũi Cà Mau...

Từ làng trước xóm sau, từ phố phường tấp nập đến bản vắng buôn sâu đều tưng bừng, rạng rỡ cờ hoa hướng về ngày đại lễ…
Tháng Tư bồi hồi, xao xuyến lòng ta. Ta nhớ về những cuộc tiễn đưa trước cổng làng, trên những cây cầu, những bến tàu, nhà ga hay trong khuôn viên trường đại học. Những chàng trai mười tám, đôi mươi phơi phới tuổi xuân cùng gửi lại cho người thân việc cấy cày, chài lưới, để cùng khoác ba lô, cầm súng náo nức lên đường vào Nam, hòa mình vào cuộc hành quân gian lao mà anh dũng của toàn dân tộc. Người ra đi giữ gìn một niềm tin chiến thắng, người ở lại vững bền một lòng son sắt, thủy chung, mong về một ngày đoàn tụ non sông…
Ta nhớ về những anh giải phóng quân yêu đời, hồn nhiên với vành mũ tai bèo cười rung rung vòng lá ngụy trang trong nắng sớm. Lớp cha trước, lớp con sau cùng thành người đồng chí, cùng chung câu quân hành tiến về ngày giải phóng miền Nam.
Những người lính áo vương bụi đỏ Trường Sơn, bước chân thần tốc góp phần làm nên từng “cơn bão lửa”. Từ Tây Nguyên, Huế – Đà Nẵng, Sài Gòn – những địa danh là những chiến công nối dài mùa xuân thắng lợi, nối dài con đường độc lập, tự do đang tỏa đi khắp thân mình Tổ quốc.
Tháng Tư thiêng liêng dâng hương hoa và khói nhang tri ân những người con của quê hương đã ngã xuống dọc dặm dài đất nước. Các anh nằm lại ven rừng, trên đỉnh đèo, sườn núi, dưới lòng sông và ở ngay cửa ngõ Sài Gòn – nơi cách niềm vui chiến thắng chỉ mấy bước chân. Các anh nằm lại mãi mãi với tuổi hai mươi trẻ trung, sôi nổi để bao người mẹ, người vợ mòn mỏi chờ trông, mòn mỏi dõi tìm trong khung kính mờ tỏ khói hương…
Đã 48 tháng Tư trôi qua, thời gian dần phủ màu xanh cây rừng trên khắp chiến trường xưa. Sự sống vươn lên từ những nương chè, cánh rừng cà phê, cao su và công trường, nhà máy… đang dần chữa lành vết thương chiến tranh.
Đất nước, quê hương đã thay da đổi thịt và vươn lên từng ngày trong giọng hát, tiếng cười của mỗi người dân nước Việt. Lòng ta cũng trẻ như cờ đỏ sao vàng hòa cùng bài ca chiến thắng đang náo nức ngân vang: “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng/ Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng…”.
ST


SỨC MẠNH PHI THƯỜNG CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM

 Đi dưới trời khuya sao đêm lấp lánh

Tiếng hát ai vang vọng cây rừng
Phải chăng em cô gái mở đường
Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát.
Ơi những cô con gái đang ngày đêm mở đường
Hỏi em bao nhiêu tuổi mà sức em phi thường...
ST




GIỚI HẠN NÀO CHO SÁNG TẠO, DÁM NGHĨ, DÁM LÀM?

 Những ngày cuối tháng 3-2023, Bộ Nội vụ tổ chức nhiều cuộc hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Đây là nghị định cụ thể hoá Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.

Đây là vấn đề mới, khó thu hút sự quan tâm không chỉ đội ngũ cán bộ, đảng viên mà toàn xã hội. Bởi cuộc sống luôn biến động, nhất là khi tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, suy thoái kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh… đang đặt ra những khó khăn, thách thức không thể giải quyết trong một sớm, một chiều. Không có cơ chế khuyến khích, tạo động lực cho cán bộ sáng tạo, dám đột phá, đương đầu với thử thách, khó thúc đẩy được công cuộc đổi mới đi lên.
Nhưng sáng tạo, dám nghĩ, dám làm đến đâu?
Lằn ranh giữa đổi mới, thực hiện các ý tưởng sáng tạo, dám làm những suy nghĩ chưa từng có với cố ý làm trái rất mỏng manh. Hơn nữa, dù đã có rất nhiều tiến bộ nhưng hệ thống pháp luật của ta chưa đồng bộ. Cùng một vấn đề, áp dụng luật này thì đúng, nhưng khi thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra áp dụng luật khác thì thành sai. Thời điểm này có thể đúng, khi kiểm tra ở thời điểm khác lại sai, cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung chưa được thể chế hóa…
Tuy nhiên, không vì thế mà cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý có tinh thần trách nhiệm cao chùn bước.
Quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, thực tiễn đòi hỏi cán bộ phải có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách. Trong đó có những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không còn phù hợp với thực tiễn, nhằm mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước, dân tộc. Không có một Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc dám vượt lên đường lối làm ăn tập thể để “giao khoán ruộng" cho nông dân, làm sao chúng ta có được "khoán 10", nhờ đó mà đất nước mới thoát khỏi nền nông nghiệp năng suất thấp?
Việt Nam chẳng những không phải vất vả lo dân thiếu lương thực mà còn trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo, khi tiềm năng đất đai, lao động, sự sáng tạo của nông dân được khai thác triệt để. Mặc dù khi đó, cái giá phải trả của người đi tiên phong là những sóng gió, thăng trầm. Không có một Tổng Bí thư Trường Chinh với tầm nhìn sáng suốt, bản lĩnh quyết đoán làm sao những sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của cấp được bảo vệ, thực hiện thành công trên cả nước?
Giữa bao vây cấm vận, muôn vàn bao khó khăn bộn bề của đất nước, không có bước đi mang tính "vượt rào" của Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt; không có tinh thần kiên định "nói và làm" của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh làm sao chúng ta có sức mạnh phá bỏ những rào cản nằm ngay trong chính bộ máy lãnh đạo, xoá bỏ tình trạng trì trệ, bảo thủ, tháo gỡ những vấn đề bức xúc của đất nước và làm sao có được thành tựu rạng rỡ của sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua?
Có được tinh thần sáng tạo, dám nói, dám làm ấy phải chăng không chỉ có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với sự nghiệp của Đảng mà trong suy nghĩ của những cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn ghi lòng tạc dạ lời dạy của Bác Hồ làm kim chỉ nam trong mọi hành động: Việc gì có lợi cho dân ta phải cố gắng làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh. Đấy cũng là giới hạn rộng lớn mà mỗi cán bộ, đảng viên thoả sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích của Nhân dân, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
ST

LỜI BÁC DẶN NĂM XƯA: “TRÍ TUỆ VÀ SÁNG KIẾN CỦA QUẦN CHÚNG LÀ VÔ TẬN”

 Ta càng thêm nhớ ông Ké, già Thu trong những ngày hoạt động trong sự đùm bọc nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc. “Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán... người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mạng”.

Cách đây tròn 65 năm, trong lưu bút ghi tại triển lãm ngành Hậu cần quân đội (1-4-1958), Bác Hồ viết: “Trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận”.
Đây không chỉ là lời nhắc nhở với riêng cán bộ, chiến sĩ ngành Hậu cần quân đội, mà là cho đến hôm nay vẫn là bài học đạo đức dành cho tất cả chúng ta về ý thức gần dân, trọng dân và phát huy sức mạnh của Nhân dân trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào.
Không quá khi nói biểu tượng sức mạnh của dân tộc Việt Nam là lòng dân. Lời Bác nhắc nhớ cảnh dân làng góp cơm, góp cà để cậu bé Gióng vươn mình thành người khổng lồ đánh đuổi giặc Ân. Những tích truyện dân gian về các bậc tiên hiền đã dựa vào sức mạnh của Nhân dân để đánh đuổi ngoại xâm, giữ yên bờ cõi vẫn truyền miệng đời đời. Là tiếng hô “Sát Thát” rung chuyển điện Diên Hồng của bô lão cả nước, “chúng chí thành thành” bảo vệ non sông xã tắc vững vàng trước vó ngựa Nguyên Mông. Là Lê Lợi trong những ngày khởi nghĩa Lam Sơn còn trong trứng nước, đã được những vợ chồng lão nông đang bắt cá, bà hàng nước ven đường cứu giúp lúc gian nguy; được dân bản dưới chân núi Phay Lệnh, Phay Tong giúp đặt bẫy Pát giết bầy chó ngao của giặc Minh... Là Quang Trung Nguyễn Huệ trọng sĩ, cầu hiền, nhất mực tôn La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là “bậc thầy để thờ”, 2 lần tìm để hỏi kế diệt giặc; thâu nạp quanh mình những sĩ phu đứng đầu đất Bắc Hà như Ngô Văn Sở, Đặng Tiến Đông, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm... thành những cánh tay đắc lực cho sự nghiệp thống nhất sơn hà.
Và, chẳng phải hình ảnh chiếc xe thồ là biểu tượng cho sáng kiến của Nhân dân, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đấy sao.
Ta càng thêm nhớ ông Ké, già Thu trong những ngày hoạt động trong sự đùm bọc nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc. “Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán... người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mạng...” (Lòng nhân ái và đức khoan dung, NXB Hà Nội, 2020). Trong căn lán Nà Lừa - Tân Trào trước ngày tổng khởi nghĩa, Bác lâm bệnh nặng, được “Ông cụ lang già người Tày xem mạch, sờ trán Bác rồi đốt cháy một thứ củ vừa đào trong rừng về, hòa vào cháo loãng. Sau đó Bác tỉnh. Hôm sau, Bác ăn thêm vài lần với cháo loãng nữa, cơn sốt nhẹ dần...” (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký) - chẳng phải cũng là biểu hiện sinh động của trí tuệ quần chúng.
Hoạt động cách mạng trong sự đùm bọc của Nhân dân, vì thế mà trong suốt sự nghiệp cách mạng của mình, Bác luôn đề cao tư tưởng trọng dân, vì Nhân dân phục vụ, coi trọng sức mạnh vĩ đại của Nhân dân. Người khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân. Khi sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thành vô địch”. “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được... Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt”.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị là Chủ tịch nước, Người đã có bài viết với tiêu đề “Tìm người tài-đức” đăng trên Báo Cứu quốc để quy tụ, tập hợp nhân sĩ, trí thức mang tài năng, đảm lược ra giúp nước. Cùng với lời hiệu triệu, ứng xử của Bác với nhân sĩ, trí thức cũng trở thành những bài học luôn nóng hổi tính thời sự. Ví như chuyện, sau khi Hội nghị Fontainebleau thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với phía Pháp bản Tạm ước ngày 14-9-1946 nhằm kéo dài hòa bình. Trước lúc trở về Tổ quốc, Bác gặp và nói với kỹ sư Phạm Quang Lễ - thời điểm đó đang được nước Pháp hết sức trọng dụng vì tài năng, rằng: “Bác về nước, chú chuẩn bị về với Bác. Hai ngày nữa ta lên đường”. Chỉ thế thôi và cách mạng Việt Nam có được một Thiếu tướng, Giáo sư, Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa sau này.
Học tập và làm theo tư tưởng trọng dân và phong cách gần dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cấp ủy, chính quyền cần luôn quan tâm phát huy dân chủ, đề cao ý kiến của Nhân dân. Có các giải pháp để tiếp tục tập hợp, đoàn kết, cổ vũ và khuyến khích Nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước “đem sức dân, tài dân, của dân làm lợi cho dân”./.
ST

NHỮNG CÔ GÁI TRƯỜNG SƠN.

 Có lẽ giờ em đã ngủ ngon

Trong chăn ấm bên người thương hạnh phúc
Em có mơ thấy ngày xưa đi đ.ánh gi.ặc
Đường Trường Sơn mây trải lối anh qua.
Em có nhớ những tr.ận b.om lửa khói mịt mờ
Lấp hố b.om cho xe ra t.iền tuyến
Em còn nhớ rừng trường sơn những chiều mưa lạnh
Những ngày dông cơn lá đổ rừng già.
Em còn nhớ ngày đoàn quân đã từng qua
Dặm Trường Sơn đá ghềnh rừng heo hút
Nụ cười em má mồ hôi thấm ướt
Vẫn ửng hồng tươi thắm tuổi còn xuân.
Anh nhắc thầm ôi cô gái Việt Nam
Trong khổ đ.au vẫn tươi duyên đến lạ
Có phải em từ miền quê quan họ
Từng têm trầu như cô Tấm ngày xưa.
Mà kiên trung trước b.om đ.ạn kẻ th.ù.
Ủ ấm tình quê ngọn rau rừng măng đắng
Em có nhớ bên ven rừng cháy bỏng
Em chở đò đưa đón các anh qua
Đã bao lần em chặt nứa kéo đưa về
Bó ống xăng dầu ngăn che b.om đ.ạn gi.ặc
Đã bao lần hang cổng trời em hát
Đường Trường Sơn lầy lội lối anh qua.
Bây giờ đây Nam Bắc đã một nhà
Em còn nhớ anh nhớ Trường Sơn ngày ấy
Cây gậy Trường Sơn giờ nở hoa kết trái
Nụ cười xưa giờ má thêm một nếp nhăn.
Vẫn ngời ngời trong hai tiếng Việt Nam
Em đi hội trong lễ nghi quân phục mới
Ngực đỏ thắm huân chương quân đội
Ngôi sao vàng lấp lánh mũ ngày xưa./.
ST


NGĂN CHẶN VIỆC SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI NHƯ MỘT CÔNG CỤ KÍCH ĐỘNG HẬN THÙ, CHIA RẼ ĐOÀN KẾT

 Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, Internet và mạng xã hội đang ảnh hưởng ngày càng lớn đến mọi mặt đời sống xã hội. Chúng ta không phủ nhận những tiện ích to lớn mà mạng xã hội đem lại cho cộng đồng. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng những ưu thế mà mạng xã hội đem lại để tăng cường tuyên truyền, xuyên tạc nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Hàng nghìn trang mạng xã hội, blog,… được các thế lực thù địch, phản động lập ra để sử dụng như một công cụ chủ lực trong tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt nhằm kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và thế giới.

​Từ những trang mạng xã hội có địa chỉ ở nước ngoài, rất nhiều thông tin, tài liệu bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt, xấu độc được lan truyền gây ảnh hưởng tiêu cực đến cộng đồng cư dân mạng. Những sự kiện “nóng”, những vấn đề nhạy cảm, phức tạp các thế lực thù địch, phản động tập trung thời gian gần đây là: mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước, nhất là các nước lớn, đặc biệt phản ứng của Việt Nam trước các sự kiện quốc tế, trong đó có cuộc xung đột vũ trang giữa Nga và Ukraine; tình hình ở Biển Đông; những vấn đề liên quan đến dân chủ, nhân quyền; cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; nội dung các kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương, Chính phủ, Quốc hội, công tác nhân sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam…Chẳng hạn như xung quanh cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine, trên mạng xã hội họ bịa chuyện cho rằng nước này, nước kia “rất thất vọng” khi Việt Nam bỏ phiếu trắng. Họ trích dẫn ý kiến cá nhân của người này, người kia trên mạng xã hội từ đó suy diễn cho rằng Việt Nam bị “gây sức ép” khi bỏ phiếu tại Liên hợp quốc. Rồi họ quy kết: Vấn đề chính là Việt Nam không thể tự chủ trong đường lối đối ngoại cũng như phải nhìn “sắc mặt” của các cường quốc để ứng xử. Cũng chính từ đây họ hoài nghi đặt câu hỏi: Có hay không việc Việt Nam ủng hộ dùng vũ lực để giải quyết những bất đồng giữa Nga và Ukraine?... nhằm lợi dụng sự kiện ở Ukraine để chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới.
​Còn nhiều nữa những dẫn chứng có thể chỉ ra cho thấy mạng xã hội đang bị các đối tượng thù địch, tư tưởng phản động triệt để khai thác biến thành công cụ tuyên truyền kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế. Cần khẳng định rằng, những hành động đó không chỉ trái pháp luật Việt Nam mà còn vi phạm công ước quốc tế. “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” năm 1966 quy định rất rõ về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Khoản 2, Điều 19 của Công ước quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ”. Tuy nhiên, cần nhớ rằng, những quyền ấy không phải là quyền tuyệt đối, quyền lợi phải gắn với trách nhiệm và phải có ràng buộc: Khoản 3, Điều 19 “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” năm 1966 ghi rõ: “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
​Không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, không một quốc gia nào dung túng, bao che cho những hành động sử dụng Internet, mạng xã hội làm công cụ xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet trên cơ sở tuân thủ Công ước quốc tế và pháp luật Việt Nam. Chính phủ Việt Nam luôn chủ động phối hợp, tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, phát triển Internet và các phương tiện truyền thông hiện đại. Nhưng Việt Nam cũng làm hết sức mình để ngăn chặn thông tin xấu, độc, thông tin vi phạm pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế. Việt Nam luôn mong muốn chung tay với các nước, các tổ chức quốc tế xây dựng môi trường Internet lành mạnh, an toàn, hữu ích ở Việt Nam và toàn cầu. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Việt Nam lên án mạnh mẽ, đấu tranh kiên quyết, không cho phép bất kỳ ai được lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet để tán phát những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, những luận điệu thù hận, phỉ báng, kích động có thể gây căng thẳng, gây chia rẽ đoàn kết và đưa đến xung đột. Mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng Internet, mạng xã hội và phương tiện truyền thông đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật./.
ST


Sự khẳng định nhất quán tư tưởng lấy dân làm gốc

 Đây là sự khẳng định nhất quán tư tưởng lấy dân làm gốc, người dân là chủ thể, là mục đích, là trung tâm của mọi quá trình phát triển. Thế nhưng trên một số trang mạng, thế lực thù địch và những kẻ phản động cố tình xuyên tạc rằng, phương châm “dân thụ hưởng”, hay “lấy dân làm gốc” mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra là không thực chất, chỉ là mị dân. Nhưng cho dù kẻ xấu có xuyên tạc thế nào thì cũng không thể phủ nhận thực tế rằng, người dân Việt Nam đã và đang thực sự thụ hưởng thành quả cách mạng…

CÓ MỘT DI TÍCH LỊCH SỬ VIỆT NAM RẤT NỔI TIẾNG TRÊN TIKTOK


Theo các bạn, địa điểm du lịch nào ở Việt Nam được xem nhiều nhất trên Tiktok? Không phải Đà Nẵng, Nha Trang, Hạ Long, Đà Lạt... Đó chính là địa đạo Củ Chi, một di tích lịch sử cách mạng nằm ở phía Tây Bắc của TP. Hồ Chí Minh.
Cách đây 2 tháng, blogger du lịch từ Tây Ban Nha đã đăng tải hành trình trải nghiệm địa đạo Củ Chi và video của anh nhanh chóng nhận được 40 triệu lượt xem, trở thành một trong những video review du lịch được xem nhiều nhất năm 2023 tính đến thời điểm hiện tại. Tài khoản Tiktoker chuyên review du lịch Việt Nam là @unseenvietnamtours cũng thu được hơn 31 triệu lượt xem từ một video trải nghiệm các cạm bẫy tại vùng đất địa đạo khói lửa này. Reviewer @akasa.dinarga cũng thu được hơn 24 triệu lượt xem từ một hành trình trải nghiệm địa đạo Củ Chi…
Ngoài ra, chỉ cần tìm kiếm từ khóa “Cu Chi Tunnels”, các bạn sẽ thấy rất nhiều những video về xứ địa đạo huyền thoại này với lượt xem rất khủng và phần lớn người xem lẫn người đăng tải là người nước ngoài.
Địa đạo Củ Chi đem lại trải nghiệm đặc biệt với du khách, đặc biệt là du khách phương Tây. Trên Reddit, có một meme về địa đạo Củ Chi cực kỳ nổi tiếng, meme này nói về việc một hướng dẫn Việt thò lên từ một cửa hầm địa đạo khiến một người cựu binh la hét, sợ chết khiếp trong vòng 10 phút.
Địa đạo Củ Chi xuất hiện hàng chục lần trên phim bom tấn Hollywood, trên các cuốn hồi ký, phim tài liệu… Vô tình hành động này đã PR cho công trình địa đạo Củ Chi.
Một đặc thù có lẽ là không đâu có trên thế giới là các du khách sẽ được trải nghiệm những “cạm bẫy” - cũng là một phương pháp chiến đấu rất nổi tiếng của các chiến sĩ du kích Việt Nam sử dụng trong cuộc chiến bất đối xứng với quân thù.
Một người bạn của mình làm du lịch tại Củ Chi cho biết phần lớn khách đặt tour đi Củ Chi có quốc tịch phương Tây. Họ đến đây vì muốn trải nghiệm một công trình lịch sử vô tiền khoáng hậu trên thế giới, một di tích độc đáo mà không tìm được ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới…
Một di tích mà độ kì vĩ, lớn lao, ý nghĩa lịch sử không hề thua kém các di tích, công trình lịch sử khác ở trên thế giới.

Cần vạch trần, phản bác những luận điệu sai trái về giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

 


        Dựng nước đi đôi với giữ nước là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, được Đảng ta đúc kết, khái quát từ thực tiễn lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến, kiến quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở kế thừa, vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm về đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tính chân lý, giá trị và ý nghĩa của hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được khẳng định từ thực tiễn cuộc sống, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Nó toát lên sức thuyết phục bởi cơ sở khoa học không thể chối cãi; nhờ đó, đã bác bỏ cách nhìn siêu hình và các quan điểm lệch lạc, sai trái về mối quan hệ này. Nhận rõ vị trí, vai trò quan trọng của giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trịđã tìm mọi cách ngăn chặn sự ảnh hưởng và kết quả giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong đời sống xã hội bằng “cách nhìn siêu hình” nhằm cản trở công cuộc đổi mới của nhân dân ta; muốn Đảng ta phạm sai lầm trongnhận thức và giải quyết lệch chuẩn mối quan hệ này, dẫn tới tự sụp đổ và thất bại. Vì vậy, trên các trang mạng xã hội đã xuất hiện nhiều luồng ý kiến khác nhau với các quan điểm đối lập nhau; song, chúng có chung một mục đích là xuyên tạc bản chất, vai trò, giá trị và ý nghĩa của hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hướng lái dư luận, nhận thức của nhân dân theo khuynh hướng: tuyệt đối hóa mặt này hoặc coi nhẹ mặt kia và ngược lại nhằm hạ thấp uy tín, vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc bản chất mối quan hệ bao trùm, cơ bản, xuyên suốt trong phát triển cách mạng Việt Nam; hướng lái nước ta đi theo con đường TBCN. Loại ý kiến thứ nhất là tập trungthổi phồng nguy cơ chiến tranh, xung đột quân sự; bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN và trong quan hệ của Việt Nam với các nước lớn, các nước truyền thống, láng giềng. Chúng cho rằng, nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh đang cận kề và nó có thể bùng phát thành nội chiến và chiến tranh. Loại ý kiến này đang gieo vào lòng người dân sự nghingờ, lo lắng về tương lai, vận mệnh của đất nước; gây áp lực lên xã hội, buộc Đảng ta phải dồn tiền của, công sức, các nguồn lực cho quốc phòng, an ninh, nhất là mua sắm vũ khí, trang bị quân sự để đối phó với nguy cơ chiến tranh, từ đó suy yếu về kinh tế. Ý kiến này lấy sự kiện xung đột quân sự Nga - Ucraina để “hù dọa” và kiến nghị Đảng, Nhà nước ta phải “chạy đua vũ trang”. Từ đó, hy vọng Đảng, Nhà nước ta lơ là, sao nhãng nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng đất nước dẫn đếnsự yếu kém về mặt xây dựng, chậm phát triển kinh tế; làm cho đời sống của nhân dân xuống cấp; gây sự bức xúc, phản đối mạnh mẽ từ nhân dân; bào mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tính ưu việt của chế độ XHCN. Đây là một trong những âm mưu thâm độc nhất của thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chúng ta cần nhận thức đúng và hết sức cảnh giác. Cùng với đó, chúng sử dụng chiêu trò “hù doạ” nguy cơ chiến tranh từ sự tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông để cáo buộc Đảng ta “sợ mất vai trò cầm quyền, lãnh đạo, buộc phải duy trì số đôngbinh lính quân đội và công an để trấn áp ở bên trong, đàn áp bên ngoài nhằm bảo vệ “lợi ích của các phe nhóm quân đội và công an”. Hơn thế, chúng đề cao thái quá vai trò của quốc phòng, an ninh; cho rằng “Đảng CSVN muốn tạo ra lãnh địa riêng” để dễ bề dùng tiền thuế của dân,dễ tham ô, tham nhũng vì không ai có quyền kiểm soát lĩnh vực “đặc biệt” là quân sự, an ninh. Từ đó, chúng vu khốngĐảng ta bao che, dung túng cho “quân đội làm suy yếu đất nước”. Hơn thế, chúng đặt ra yêu cầu “Đảng, Nhà nước phải chấm dứt việc cho phép quân đội làm kinh tế vì đó là một hình thức bóc lột sức lao động của binh lính”. Chúng tung tin rằng, “quân đội các nước TBCN không làm kinh tế, chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nên không có tham nhũng”. Từ đó, chia rẽ quân đội với công an, lực lượng vũ trang với nhân dân để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an. Ngược lại, một số ý kiến khác lại tập trung nhấn mạnh vai trò quyết định của yếu tố kinh tế, của sản xuất vật chất, coi “thắng hay thua” của Việt Nam là do kinh tế và sức mạnh của tiền bạc quyết địnhTính thâm độc của loại ý kiến này là “lấy độc trị độc”; nghĩa là lấy lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quyết định của sản xuất vật chất, của nhân tố kinh tế đối với sự phát triển của xã hội để khẳng định tính chất phụ thuộc của chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào kinh tế nhằm lừa gạt nhân dân, nhất là những người dân nhẹ dạ cả tin theo hướng ngụy biện, xuyên tạc sự thật này. Đây là một chiêu trò đánh tráo khái niệm, lừa bịp, mỵ dân. Vì thế, chúng cho rằng thế kỷ XXI là thế kỷ hòa bình, không có chiến tranh nên khuyên Đảng, Nhà nước ta phải coi nhẹ các yếu tố quốc phòng, an ninh và luận giải sự không cần thiết phải xây dựng quân đội, công an hiện đại; không cần thiết phải chi tiêu “khoản ngân sách kếch xù” để nuôi quân đội, công an và xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Chúng tuyên truyền “kinh tế mạnh sẽ chiến thắng” và yêu cầu Đảng, Nhà nước ta phải giảm mạnh quân số thường trực; tinh giảm tối đa quân đội và công an. Sự lý giải sai trái này đã trở thành chỗ dựa cho quan điểm “phi chính trị hóa” quân đội; phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Đây là loại quan điểm “độc hại” rất nguy hiểm, cần phải vạch trần bản chất xấu sa của nó, phải kiên quyết đấu tranh phản bác. Việc khuyến nghị Đảng, Nhà nước ta đầu tư cho cho các tập đoàn kinh tế lớn, các khu công nghiệp mũi nhọn, mở mang thị trường, phát triển thương nghiệp. Đồng thời, mở cửa, đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn với các công ty tư bản nước ngoài để thu hút vốn, đội ngũ chuyên gia đến làm việc tại Việt Nam, v.v.. Thoạt nghe thì quan điểm này có điểm hợp lý nhưng suy xét kỹ, chúng ta thấy rõ mưu đồ phủ nhận mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; làm cho nhân dân ta lơ là, mất cảnh giác, thực hiện thiên lệch hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trái ngược với quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, có ý kiến đã cáo buộc Đảng, Nhà nước ta không quan tâm đến giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nên đã gây lãng phí nhiều nguồn lực quý...Theo chúng, Đảng, Nhà nước ta phải từ bỏ sự độc quyền về lĩnh vực công nghiệp quốc phòng vì không cần thiết; cần học kinh nghiệm của các nước TBCN để tư nhân hóa lĩnh vực này. Cùng với đó, khuyến nghị Đảng, Nhà nước ta mở rộng dân chủ, nhân quyền, công khai hóa các thông tin trên báo chí, mạng xã hội, nhất là công khai các vấn đề về chủ quyền biển, đảo, biên giới đất liền của Việt Nam, cho rằng, Đảng ta“không được sợ Trung Quốc”; cần mở rộng mối quan hệ với NATO và phương Tây để tạo thế cân bằng chiến lược, v.v..Sự thật không thể chối cãi là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử hơn 37 năm đổi mới mà nhân dân ta đã dành được là một thực tế không thể xuyên tạc; không thể đảo ngược. Ai cũng biết rằng, đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế như ngày nay là nhờ Đảng, Nhà nước ta đã giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Mâu thuẫn, bất đồng, xung đột vũ trang và chiến tranh là điều nhân dân Việt Nam không bao giờ mong muốn. Vì thế, chúngta đã đứng lên cầm súng đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ Tổ quốc; đã nhậnthức đúng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc – hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.Vì thế, nhân dân ta có được cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc hôm nay là nhờ kết quả của quá trình nhận thức đúng và giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo. Nếu sai lầm trong giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì làm sao Nhân dân ta có được cơ đồ, thành quả cách mạng to lớn như bây giờ. Những người xuyên tạc mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược này đã phớt lờ điều ấy nên rơi vào sai lầm, thật đáng trách, đáng phải lên án. Theo đuôi kẻ xấu, một số người đòi Đảng ta phải “phi chính trị hóa” quân đội, xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” là phi lý, không thể chấp nhận.Sức mạnh chiến đấu của quân đội ta là sức mạnh tổng hợp, không chỉ là sự lớn mạnh của vũ khí, trang bị, mà còn là sức mạnh của nhân tố chính trị - tinh thần; là sự giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, suốt đời “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Vì vậy, Quân đội ta đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng là một nguyên tắc “bất di bất dịch”; là cội nguồn sức mạnh để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ai đó cho rằng một sốquân nhân cấp tá, cấp tướng đã thoái hoá, biến chất do vi phạm kỷ luật của Quân đội, pháp luật của Nhà nước để vu cáo Quân đội phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bôi đen phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là vô lý, chỉ “nhìn thấy cây mà không thấy rừng”, “chỉ biết một là không biết hai”. Cần phải thấy rằng một số rất ít quân nhân vi phạm kỷ luật chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh”. Nó không thể làm thay đổi bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.Việc một số cán bộ thoái hoá, biến chất và bị xử lý kỷ luật nghiêm minh là quy luật của sự đào thải, chính điều đó đã làm cho quân đội ta ngày càng vững mạnh; Nhân dân ta càng thêm yêu quý “Bộ đội Cụ Hồ”. Ở Việt Nam, việc Quân đội được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ tham gia sản xuất, phát triển kinh tế, thực hiện chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất là do đặc điểm lịch sử, tính tổ chức kỹ luật chặt chẽ của lực lượng vũ trang cách mạngvì nó thật sự cần thiết, lại liên quan trực tiếp đến chiến lược phòng thủ của đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, hoàn toàn không phải thích là làm như ai đó đã nói cho sướng miệng. Trên thực tế, sự kết hợp các chức năng của quân đội đã phát huy tốt vai trò, tác dụng, đem lại hiệu quả thiết thực trong phát triển một số lĩnh vực có liên quan đến công nghiệp quốc phòng, an ninh; biên giới; biển, đảo, phát triển kinh tế- xã hội, phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, đóng góp một phần kinh phí cho quốc phòng, an ninh, xoá đói giảm nghèo, phát triển đất nước. Mưu đồ xuyên tạc mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chỉ là cái cớ để các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Vì lẽ đó, chúng ta cần vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn xấu xa của chúng, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mơi.Lẽ phải và chân lý thuộc về chúng ta, trở thành niềm tin, lẽ sống của mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu CNXH. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là góp phần đập tan âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN và sự nghiệp đổi mới của Nhân dân ta do các thế lực thù địch chủ mưu./.

 

Không thể phủ mờ những nỗ lực trong bảo đảm bình đẳng giới ở Việt Nam

 


Lợi dụng vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam, trong đó xuyên tạc vấn đề bình đẳng giới là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động. Trong dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, các luận điệu này lại được dịp “bung nở” trên nhiều diễn đàn, mạng xã hội của các tổ chức, đối tượng chống phá.

Các thế lực thù địch, tổ chức phản động sống lưu vong ở nước ngoài, các hãng truyền thông định kiến với Việt Nam đã đăng, phát tán nhiều bài viết, hình ảnh, video cố tình xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về bình đẳng giới. Họ phủ nhận những nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm bình đẳng giới, vu cáo Việt Nam không có bình đẳng giới, Việt Nam phân biệt đối xử với phụ nữ, quyền của phụ nữ Việt Nam “bị đối xử nghiêm trọng, bị bỏ rơi”. Họ rêu rao, dưới chế độ “đảng trị”, phụ nữ bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế và “Đảng chỉ đưa ra những con số mị dân, lừa bịp chị em”, cho rằng, bị phân biệt đối xử là “nỗi thống khổ của phụ nữ dưới chế độ đảng trị”! Đây là những luận điệu sai trái, xuyên tạc của những kẻ đội lốt dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam. Tung ra những luận điệu xảo trá như vậy, mục đích của các thế lực thù địch nhằm gây ra sự phân tâm, hoài nghi của nhân dân, trong đó có một bộ phận phụ nữ về các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề bình đẳng giới, công tác phụ nữ. Từ đó, họ cố gắng gieo rắc tâm lý mặc cảm, tự ti đối với phụ nữ, làm cho phụ nữ thiếu tin tưởng về vị trí, vai trò của mình đối với gia đình, cộng đồng xã hội. Tìm cách gieo rắc tư tưởng bị phân biệt, kỳ thị, làm giảm sự chung tay, cống hiến đóng góp của phụ nữ trên các lĩnh vực đời sống xã hội, thậm chí gây tư tưởng chia rẽ giữa phụ nữ các vùng miền, phụ nữ giữa các thành phần, dân tộc. Không những vậy, các thế lực thù địch còn ra sức cổ xúy, thúc đẩy việc hình thành các tổ chức, hội, nhóm đối lập do các đối tượng chống đối là phụ nữ cầm đầu hoặc có sự tham gia của phụ nữ như “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội dân oan” … Những hội nhóm lấy danh nghĩa giúp đưa tiếng nói, ý chí, nguyện vọng của nhân dân vào đóng góp xây dựng đất nước, kêu gọi quyền lợi cho phụ nữ nhưng thực chất đây là số hội nhóm có thái độ, hành động chống phá đất nước quyết liệt, được sự hậu thuẫn, hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, tổ chức, cá nhân phản động sống lưu vong ở nước ngoài. Số này núp dưới danh nghĩa, vỏ bọc “phản biện xã hội” để phản bội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý xã hội của Nhà nước cũng như tầm quan trọng của các tổ chức chính trị – xã hội, có những việc làm đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

 

 

Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ nam – nữ bình quyền là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Bình đẳng giới và trao quyền năng cho phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn là một trong những mục tiêu chiến lược, lâu dài, quan trọng của Đảng, Nhà nước ta.

Về pháp lý, Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp luật và chính sách khá toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới được khẳng định trong Điều 26, Hiến pháp 2013: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”. Cùng với đó, hệ thống văn bản pháp luật từng bước cụ thể hóa Hiến pháp được hoàn thiện theo hướng bình đẳng giới như: Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh, chữa bệnh… Hệ thống chính sách, pháp luật nước ta đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, chúng ta đã tham gia ký kết nhiều công ước quốc tế và các chương trình nghị sự lớn về quyền của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới. Về chính trị, Việt Nam chủ trương khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy cơ quan công quyền. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đề cao, phát huy vai trò của phụ nữ như: Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ…Về kinh tế, từ nhiều năm trước, Chính phủ ban hành nhiều nghị định ưu tiên hỗ trợ đối với phụ nữ như Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 về tiền lương, khẳng định quyền bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong việc trả lương; Nghị định số 33/2003/NĐ-CP ngày 02/4/2003 của Chính phủ quy định không được xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi và cả với lao động nam đang phải nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi; Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ quy định về những chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho các đối tượng là lao động nữ… Mặt khác, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội tạo tiền đề để thực thi bình đẳng giới ngày càng hiệu quả hơn, các chính sách liên quan đến vai trò, vị trí của nam và nữ đều được thực hiện bình đẳng như nhau. Về xã hội, Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”; Đề án thúc đẩy phụ nữ tham gia phát triển kinh tế, tăng thu nhập cũng như kết nối, mở rộng liên kết, khuyến khích ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ cho phụ nữ và Quyết định số 938/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 – 2027, được Chính phủ ban hành ngày 30/6/2017… Các đề án này nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát huy vai trò chủ động của phụ nữ trong ứng phó và tham gia giải quyết có hiệu quả một số vấn đề xã hội, đề án hướng tới mục tiêu giảm thiểu những tác động tiêu cực, nâng cao chất lượng cuộc sống phụ nữ, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Những năm qua, Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ với một chiến lược rõ ràng, nhất quán và phù hợp với thực tiễn. Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành sớm nhất mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới, nâng cao vị thế cho phụ nữ và hiện đang nỗ lực thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030, trong đó có các mục tiêu về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái. Trên phương diện kinh tế, phụ nữ Việt Nam đang ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò của mình, có cơ hội để mang lại thu nhập cao hơn. Điều đó góp phần quan trọng giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thập kỷ qua. Số doanh nghiệp do nữ giới lãnh đạo, điều hành, quản lý thành công ngày càng tăng cho thấy sự phấn đấu, trưởng thành, tiến bộ của phụ nữ, mặt khác khẳng định bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế. Theo khảo sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam năm 2021, cứ 4 doanh nghiệp tư nhân sẽ có 1 doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo, nữ giới đóng góp tới 40% của cải cho nền kinh tế Việt Nam. Báo cáo chỉ số nữ doanh nhân Mastercard (MIWE) năm 2021 cho thấy, số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tại Việt Nam ở mức 26,5%, xếp thứ 9 trên 58 nền kinh tế được nghiên cứu về số lượng phụ nữ trong vai trò lãnh đạo. Trong lĩnh vực chính trị, theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới. Hiện nay, trên tất cả các lĩnh vực đều có sự cống hiến của nữ giới, chất lượng, hiệu quả, uy tín của cán bộ nữ đã ngày càng chứng tỏ nỗ lực cá nhân phụ nữ cũng như vai trò của các cấp, các ngành trong quá trình thực hiện bình đẳng giới. Sau Đại hội Đảng các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cán bộ nữ tham gia cấp uỷ các cấp tăng cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, tỷ lệ nữ ủy viên BCH Đảng bộ cấp tỉnh trung bình toàn quốc đạt 16%; có 61/63 tỉnh, thành phố có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Trong Quốc hội, số lượng đại biểu nữ nhiệm kỳ khóa XV là 30,26%, tăng 3,54% so với khoá XIV (26,72%). Kết quả bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 cũng ghi nhận sự tăng lên của các nữ đại biểu, trong đó tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt 29% (so với 26,5% của nhiệm kỳ trước). Đối với văn hóa, giáo dục, phụ nữ Việt Nam ngày càng phát huy vai trò không thể thiếu trong xây dựng văn hóa con người Việt Nam, văn hóa gia đình, nếp sống khu dân cư, tích cực tham gia bài trừ các tập tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, có những cống hiến to lớn trong đánh thức tiềm năng văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Đặc biệt, trong giáo dục phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế, vai trò có đầy đủ phẩm chất, năng lực trình độ để đảm nhận các vị trí quản lý, nhà giáo dục có trình độ học vấn cao. Ông Jesper Morch, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đã đánh giá: “Việt Nam là nước dẫn đầu khu vực châu Á-Thái Bình Dương về các chỉ số về bình đẳng giới qua việc cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục tới các trẻ em gái, trẻ em trai, phụ nữ và nam giới. Sự chênh lệnh về tỷ lệ nhập học giữa các em nữ và các em nam là rất thấp”. Mặt khác, trong triển khai công tác đối ngoại của Việt Nam thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ luôn là một trong những ưu tiên. Việt Nam cũng đã cử các nữ sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Liên quan đến vấn đề này, Đại sứ vương quốc Anh, Gareth Ward trong năm đầu tiên làm đại sứ Anh tại Việt Nam (năm 2019) chia sẻ: “Tôi đã được gặp nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt trong nhiều lĩnh vực khác nhau… Tôi cũng đã gặp một nhóm nữ chiến sĩ thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, những người sẽ đại diện cho Việt Nam tham gia một trong những phái bộ gìn giữ hòa bình nguy hiểm nhất của Liên hợp quốc tại Nam Sudan, góp phần vào hòa bình, ổn định và an ninh toàn cầu”. Những kết quả này là minh chứng rõ nét cho thành tựu nổi bật của việc bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây cũng là cơ sở đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch xung quanh vấn đề này.