Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2023

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG THỰC HIỆN NQ 29-NQ/TW VỀ ”TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045”

 


Nghị quyết số 29-NQ/TW về Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu lên những quan điểm chỉ đạo chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể, bảo đảm hài hoà giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hoá, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động.

Thứ ba, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng và địa phương; lợi thế của nền kinh tế đi sau và đang trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam, tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hoá các ngành công nghiệp. Coi phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt; chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.

Thứ tư, Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần có lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên nguồn lực, có các cơ chế, chính sách đột phá, phù hợp để phát triển các cực tăng trưởng, các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng; xác định nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp FDI có vai trò quan trọng, đột phá.

Thứ năm, Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị tinh hoa văn hoá dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam và truyền thống của giai cấp công nhân, vai trò xung kích, đi đầu của đội ngũ trí thức và doanh nhân Việt Nam.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển Kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu;…” để đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển Kinh tế tri thức. Đây là chủ trương đúng đắn, thể hiện sự nhất quán, tư duy mới và quyết tâm chính trị của Đảng về phát triển Kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.

Đại hội XIII của Đảng nêu quan điểm phát triển đối với nền kinh tế nước ta: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Đại hội XIII đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế”.

Như vậy, chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển Kinh tế tri thức không chỉ là sự tiếp nối đường lối chiến lược CNH, HĐH đã được đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), mà còn là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng từ Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI, Đại hội XII, Đại hội XIII. Đặc biệt, đường lối của Đảng về phát triển Kinh tế tri thức gắn liền với quá trình CNH, HĐH đất nước đã được cụ thể hóa và hoàn thiện hơn ở Đại hội XI. Điều đó không chỉ phản ánh tư duy tích cực đổi mới, ngày càng nắm bắt xu thế tất yếu của thời cuộc mà còn cho thấy sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta về phát triển Kinh tế tri thức nhằm đưa nước ta trở một nước công nghiệp hiện đại.

* Ý nghĩa

- Đây là bước cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng tong lộ trình thực hiện quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ mà Địa hội Đảng lần thứ XIII đã xác định.

- Nghị quyết tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh và điều kiện mới, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nói chung, trong đó có hội nhập kinh tế, quốc tế nói riêng.

- Là cơ sở để Quốc hội thể chế thành Hiến pháp, pháp luật và các cơ quan quản lý trong bộ máy quản lý Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực thi quyền lực của mình mình quá trình điều hành đất nước.

- Là cơ sở để cấp ủy các cấp xác định nội dung, phương thức, biện pháp để chỉ đạo, lãnh đạo cơ quan, đơn vị mình hoàn thành hiệu quả các nhiệm vụ được phân công./.

 

NHẬN DIỆN BẢN CHẤT CỦA “BẤT TUÂN DÂN SỰ”

TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

 

Rạng sáng 11/6/ 2023 Nhóm đối tượng dùng vũ khí tấn công trụ sở UBND xã Ea Tiêu, Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk đã gây ra tổn thất nghiêm trọng về người và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương...Đây là một hành động hết sức dã man cần được phân tích sâu rộng, chỉ rõ nguồn gốc, bản chất  của hành động mà ngay cả những kẻ trực tiếp hành động cũng phải được biết.

Có thể khẳng định đây là một trong những hành động “Bất tuân dân sự”. Vậy bản chất của “Bất tuân dân sự”tại Việt Nam hiện nay là gì? Bài viết sau đây làm rõ vấn đề cần đề cập ở trên.

“Bất tuân dân sự” là khái niệm quen thuộc được sử dụng trong đời sống chính trị các nước phươmg Tây. “Bất tuân dân sự” ra đời từ cách đây hơn 2000 năm, trải qua thời gian dài được nghiên cứu, bổ sung, áp dụng vào thực tiễn nên nội hàm của khái niệm này ngày càng được hoàn thiện. Trong những năm gần đây, “Bất tuân dân sự” đã hiện diện trên thực tế tại Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan và khách quan, “Bất tuân dân sự” đã trở thành một trào lưu nguy hiểm trong xã hội khi nó đã và đang kháng cự lại sự quản lý của chính quyền các câp. Đặc biệt nguy hiểm hơn, khi “Bất tuân dân sự” đã có dấu hiệu sự can dự, hướng lái của các thế lực thù địch, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Nhận diện bản chất của “Bất tuân dân sự” không chỉ giúp lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, các cơ quan chức năng, cán bộ, đảng viên, mọi quân nhân, công nhân viên chức, người lao động nhận diện, phân biệt rõ ràng về bản chất các hoạt động chống đối chính quyền của “Bất tuân dân sự”, mà còn giúp xây dựng các biện pháp phòng ngừa, đối phó hiệu quả, kịp thời là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Qua nghiên cứu các quan điểm, hoạt động và quá trình hình thành “Bất tuân dân sự”, có thể rút ra: “Bất tuân dân sự” tại Việt Nam là hành động phản kháng của người dân khi quyền và lợi ích bị xâm hại, bị các thế lực thù địch lợi dụng kích động tạo thành mâu thuẫn đối kháng giữa người dân với chính quỵền, từ đó hình thành các phong trào phản kháng Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN ở nước ta. “Bất tuân dân sự” tại Việt Nam hiện nay đã ở mức nguy hiểm, có xu hướng phát triển thành phong trào, trở thành nguy cơ tiềm ẩn đe dọa đến sự tồn vong của chế độ.

Về bản chất, “Bất tuân dân sự” tại Việt Nam là những hoạt động nhằm vô hiệu hóa một hoặc nhiều quyết sách của chính quyền bằng “sức mạnh hòa bình” của quần chúng; vô hiệu hoặc làm giảm khả năng sử dụng công cụ bạo lực của chính quyền; thường được bắt đầu một cách “tự phát”, “vô hại”, nhỏ lẻ, nhưng sau đó lây lan và được tổ chức khá chặt chẽ. “Bất tuân dân sự” tại Việt Nam là hệ quả của quá trình tác động, thẩm thấu, “chuyển hóa” lâu dài. Trong đó, các thế lực thù địch đã thẩm thấu các giá trị, tư tưởng trái ngược lại quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam khiến cho quần chúng nhân dân “nhờn luật”, hình thành tư tưởng “phản kháng ý thức hệ” khi bị kích động hoặc xung đột về lợi ích và sự nhũng nhiễu của một bộ phận tha hóa trong bộ máy công quyền…

 

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển đất nước. Sự đóng góp tích cực của thanh niên trong công cuộc này có vai trò quan trọng ngay từ mỗi địa phương, đơn vị.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng góp phần đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống chính trị và giữ vững sự kết nối giữa Đảng và nhân dân, từ đó giúp tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng và nâng cao uy tín của Đảng trong xã hội. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn giúp nâng cao "sức đề kháng" trong toàn dân để chống lại các hoạt động phá hoại, xâm phạm từ các thế lực thù địch, giúp Đảng lãnh đạo bảo đảm sự ổn định chính trị và an ninh, trật tự của đất nước.
Thanh niên đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Vai trò này bao gồm: Truyền bá và giải thích đúng, rõ nét những tư tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng đến các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối với thanh niên. Thanh niên cần phải hiểu rõ, học tập và tuyên truyền đúng tư tưởng của Đảng, từ đó đóng góp vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Là lực lượng đông đảo, đầy nhiệt huyết tham gia chủ động và tích cực vào các hoạt động phòng, chống các hoạt động phá hoại, xâm phạm tư tưởng của Đảng của các thế lực thù địch, đảm bảo an ninh, trật tự và ổn định chính trị của địa phương, đất nước.
Thanh niên là lực lượng xung kích xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chung của nhân dân. Đội ngũ thanh niên cũng thường xuyên tiếp cận với khoa học công nghệ, qua đó, theo dõi, phát hiện các luồng tư tưởng trái chiều, kịp thời đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, giúp giữ vững khối đại đoàn kết, đồng lòng của toàn dân tộc, đặc biệt trong giới trẻ.
Để phát huy vai trò của thanh niên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần nâng cao nhận thức, kiến thức, tư tưởng và đạo đức của thanh niên đối với nền tảng tư tưởng của Đảng, từ đó, giúp thanh niên phát huy vai trò của mình trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt, cần tập trung vào việc tuyên truyền, giảng dạy về lịch sử cách mạng, tư tưởng của Đảng, giúp thanh niên hiểu rõ hơn về vai trò và ý nghĩa của nền tảng tư tưởng của Đảng đối với bảo đảm sự phát triển hòa bình, ổn định bền vững của đất nước.
Cấp ủy, chính quyền, Đoàn thanh niên các cấp tổ chức các hoạt động thường xuyên để thanh niên có cơ hội tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, như: Mở các diễn đàn trao đổi, tập huấn, hội nghị, hội thảo chuyên đề, tham quan các địa chỉ đỏ, cuộc thi, văn nghệ, thể thao, tình nguyện..., giúp thanh niên hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đóng góp hiệu quả vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Để phát huy tối đa vai trò của thanh niên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần tạo ra một môi trường sống, học tập, làm việc lành mạnh, hạn chế tối đa tác động tiêu cực của các luồng thông tin xấu, độc, trò chơi online trên internet, mạng xã hội.
Bồi dưỡng thế hệ trẻ không chỉ đảm bảo sự phát triển về thể chất mà còn đảm bảo sự phát triển tư tưởng, văn hóa và đạo đức. Bên cạnh đó, cần tạo ra các cơ hội để thanh niên tham gia vào quá trình hoạch định và triển khai các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nhất là việc tạo ra các cơ hội việc làm, khởi nghiệp để thanh niên sớm khẳng định được vai trò, đóp góp vào sự phát triển của quê hương, đất nước, từ đó, sẽ giúp thanh niên có nhiều kinh nghiệm, tự tin thể hiện quan điểm, chính kiến của mình để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch./.
ST


NGẬM NGÙI CHO DÂN MÌNH

 Thời điểm này đang đúng mùa thu hoạch vải thiều. Các điểm bán trái cây, các chợ ở TP. Huế tràn ngập quả vải. Chúng ta hình dung, chỉ cần 10kg vải thiều mà nhiều chị bán trái cây dạo quẩy đi trong đôi gánh được bán hết ở Nhật đã thu về 4 triệu đồng. Là một cách liên tưởng vậy thôi chứ nếu các chị quẩy vải thiều đi bán như vậy mà thu được chừng đó số tiền thì giàu to. Giá vải thiều ở Huế chỉ bán được từ 30 - 35.000 đồng/kg thôi. Chừng ấy số vải thiều bay được qua Nhật giá đã tăng gấp 10 lần.

Với cái giá bán cao như vậy ở Nhật thì ai chẳng muốn, nhưng hoàn toàn không dễ. Năm 2022, tổng sản lượng vải thiều của Việt Nam ước tính 320.000 tấn. Riêng tỉnh Bắc Giang có sản lượng vải thiều ước tính 180.000 tấn, trong đó xuất khẩu khoảng 40%, chủ yếu là thị trường Trung Quốc.
Không biết thị trường Trung Quốc thì như thế nào chứ xuất được qua Nhật Bản thì chịu một sự giám sát khắt khe về chất lượng. Toàn vùng vải thiều của Bắc Giang rộng lớn là vậy nhưng chỉ có 37 mã vùng trồng được cấp đi Nhật với diện tích chưa tới 300ha, sản lượng chừng 2.500 tấn. Từ năm 2022, 100% lô hàng từ Việt Nam đều phải qua cơ quan chức năng của Nhật Bản kiểm nghiệm. Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tối đa cho phép chỉ là 0,01mg/kg. Với chỉ số này, có thể nói dư lượng là bằng không. Chỉ 2 năm dịch COVID-19 bên Nhật Bản ủy nhiệm cho Việt Nam giám sát nhưng ngay sau đó, khi hết dịch họ đã cử chuyên gia qua giám sát trực tiếp. Quả là họ lo cho sức khỏe cho dân họ ghê gớm.
Đúng là xuất khẩu cũng có ba bảy đường. Hèn gì người Nhật có tiếng là sống thọ.
Từ chuyện xuất khẩu vải thiều sang Nhật mà thấy những thiệt thòi của dân mình. Chứng chỉ VietGAP có lẽ tiêu chuẩn thấp hơn GlobalGAP. Nhưng cách thức giám sát tiêu chuẩn VietGAP của chúng ta như thế nào cũng chưa thể tin cậy. Vùng trồng rau ở Thừa Thiên Huế cũng nhiều GAP, nhưng tỉnh cũng phải vận động tránh “trồng rau hai luống” – luống sạch nhà dùng luống “bẩn” thì ra chợ. Thử hỏi, cơ quan chức năng về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm của tỉnh (mà không chỉ có tỉnh của chúng ta đâu) đã giám sát vấn đề này như thế nào? Nhà nông vẫn cứ trồng rau, nuôi con lợn, con gà… chỉ qua thương lái là ra chợ. Dường như chẳng thấy ai giám sát hàng tiêu thụ nội địa. Vùng trồng vải ở Bắc Giang chỉ có chừng 50% là chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, mà như trên đã nói, được chứng nhận rồi thì không biết có giám sát thường xuyên không, số còn lại 50% là sản xuất theo tiêu chuẩn gì? Có lẽ là “vô chuẩn”, nó tương đồng với 60% sản lượng tiêu thụ nội địa.
Hãy nghe một phụ trách tổ trồng vải xuất khẩu qua Nhật ở Bắc Giang mô tả về sử dụng các chế phẩm bảo vệ thực vật như sau: “Đối với trồng vải xuất khẩu Nhật Bản thì khó nhất là kỹ thuật khi không thể sử dụng tùy tiện thuốc bảo vệ thực vật (BVTV). Để phòng trừ sâu bệnh, nhiều năm nay, các nhà vườn chung nhau mua hàng tấn tỏi, ớt, sả về nghiền, ủ làm chế phẩm sinh học phun cho cây vải. Cách làm này giúp vải vượt qua nhiều đợt kiểm tra chất lượng, đảm bảo chất lượng xuất khẩu vào Nhật Bản”. Vì quyền lợi kinh tế của mình mà làm tốt chất lượng cho người dân Nhật Bản. Nghe ra mà ngậm ngùi cho dân mình “dễ tính”.
Muốn sướng, muốn văn minh… cũng phải đi kèm với điều kiện kinh tế. Các nước có thu nhập cao đều có chuẩn an toàn thực phẩm cao. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2022 vào khoảng 4,67 triệu 1 tháng, nghĩa là khoảng chừng 2.000 USD 1 năm. Vẫn biết người dân của chúng ta thu nhập thấp như vậy nên “đành” phải chấp nhận chuẩn thấp, mà có không chấp nhận thì cũng không có điều kiện để có chuẩn cao.
Nghĩ về sức khỏe, gánh nặng cho chi phí sức khỏe, áp lực không mấy tốt đẹp lên ngành y tế, chẳng những ở hiện tại mà trong tương lai, một tương lai có thể còn kéo dài đến hàng chục năm, thậm chí dài hơn… mà buồn.
Trong điều kiện kinh tế xã hội của chúng ta hiện tại, phải tìm một cách thức nào đó để kiểm soát tốt hơn về thực phẩm an toàn cho người dân. Cứ cấp trên có chỉ thị thì cấp dưới, cấp dưới nữa cũng có những văn bản tương ứng, còn cách thức kiểm soát như thế nào chưa được làm rõ, thì nhìn bó rau khó có thể mà biết được sạch hay bẩn./.
ST


Lễ khánh thành tượng đài Bác Hồ tại Salt- Peter sburg đã thành công tốt đẹp

Hôm nay, ngày 30/6/2023, tại Salt-Petersburg của Liên bang Nga Khánh thành tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 100 năm Người tới thành phố này tiếp thu tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười để giải phóng Việt Nam khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh: Nguyễn Văn Nên cùng Đoàn đại biểu sang tham dự rất trang trọng ..nước bạn có Thống đốc Saint Petersburg Alexander Beglov và Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Liên bang (Thượng viện Nga) Andrey Yatskin đến dự./.
ST


5 ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHẨM CHẤT "BỘ ĐỘI CỤ HỒ" VÀ 10 BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

 Ngày 28/12/2021, Quân ủy Trung ương ban hành Nghị quyết số 847-NQ/QUTW về phát huy phẩm chất " Bộ đội Cụ Hồ" , kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, Nghị quyết đã chỉ ra 5 đặc trưng cơ bản của phẩm chất " Bộ đội Cụ Hồ" và 10 biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Đây là nội dung hết sức quan trọng, có ý nghĩa thiết thực với cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân; mỗi người phải có trách nhiệm học tập, quán triệt, vận dụng hiệu quả.

5 ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHẨM CHẤT "BỘ ĐỘI CỤ HỒ"
Một là, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Kiên định lập trường Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, có đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, chân thành, lạc quan; nói đi đôi với làm, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân; không thỏa mãn với thành tích, không chùn bước trước khó khăn, hiểm nguy.
Ba là, tích cực huấn luyện, học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi mặt và kiến thức chuyên môn; có phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao; gương mẫu trong công tác, sinh hoạt; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Bốn là, có tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; giữ vững nguyên tắc, phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến góp ý với tinh thần cầu thị. Kỷ luật tự giác, nghiêm minh; gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội.
Năm là, chăm lo xây dựng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt; lắng nghe, tôn trọng, học hỏi, giúp đỡ, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Có tinh thần đoàn kết quốc tế, mở rộng và tăng cường đối ngoại quốc phòng góp phần tích cực bảo vệ môi trường hòa bình khu vực và thế giới.
10 BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN
1. Không quan tâm đến lợi ích chung, làm việc gì cũng chỉ mưu cầu cho lợi ích cá nhân; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; ganh ghét, đố kị, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
2. Háo danh, tự cao, tự đại, thích được ca ngợi, sùng bái bản thân, tham vọng quyền lực, địa vị; chạy chức, chạy quyền, chạy thành tích, chạy tội, mua và sử dụng bằng cấp giả, giấy tờ giả; tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho mình.
3. Thiếu ý thức và trách nhiệm với tập thể, không chấp hành sự phân công, điều động của tổ chức, kén chọn chức danh, vị trí công tác; đùn đẩy trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, không tận tâm, tận lực với công việc, không sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.
4. Thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; sợ trách nhiệm, tranh công, đổ lỗi; giấu giếm, bao che và không trung thực về những khuyết điểm, sai phạm.
5. Ngại va chạm, dĩ hòa vi quý, “thấy đúng không bảo vệ”, “thấy sai không đấu tranh”; tinh thần tự phê bình và phê bình thấp, lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ và mục đích không trong sáng; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức.
6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác để tham ô, nhận hối lộ hoặc để người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác của mình trục lợi; cố ý làm trái các quy chế, quy định, dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
7. Cục bộ, bè phái, lợi ích nhóm để chiếm đoạt tài sản của tập thể; tham gia, xúi giục, cưỡng ép, mua chuộc người khác làm những việc trái chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và đơn vị.
8. Độc đoán, gia trưởng, quân phiệt, coi thường tập thể; buông lỏng lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, quan liêu, thiếu sâu sát; xử lý các sai phạm của cấp dưới không cương quyết, thiếu khách quan; thờ ơ, vô cảm, bàng quan trước những khó khăn, nguyện vọng chính đáng của đồng chí, đồng đội và nhân dân.
9. Coi thường lý luận, xa rời thực tiễn, lười học tập, rèn luyện, thích tự do, vô kỷ luật; hoang mang, dao động, hoài nghi về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
10. Phai nhạt, phản bội mục tiêu, lý tưởng cách mạng; nói, viết và làm không đúng nghị quyết, chỉ thị, quy định, nguyên tắc của Đảng, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách./.
ST


 NHÓM ĐỐI TƯỢNG DÙNG VŨ KHÍ TẤN CÔNG TRỤ SỞ UBND XÃ EA TIÊU, EA KTUR, HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK – MỘT BIỂU HIỆN CỦA “BẤT TUÂN DÂN SỰ”

Kỳ III: Các giai đoạn cơ bản của “Bất tuân dân sự” áp dụng để lật đổ chế độ

Rạng sáng 11/6/ 2023 Nhóm đối tượng dùng vũ khí tấn công trụ sở UBND xã Ea Tiêu, Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk đã gây ra tổn thất nghiêm trọng về người và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương...Đây là một hành động hết sức dã man cần được phân tích sâu rộng, chỉ rõ nguồn gốc của hành động mà ngay cả những kẻ trực tiếp hành động cũng phải được biết.

Có thể khẳng định đây là một trong những hành động “Bất tuân dân sự”. Vậy Bất tuân dân sự là gì? Nguồn gốc của “Bất tuân dân sự”từ đâu? các giai đoạn của nó được diến ra như thế nào? Bài viết ngắn sau đây sẽ lần lượt làm rõ những vấn đề cần đề cập ở trên thể hiện qua các kỳ như sau:

Trước hết cần hiểu rõ các giai đoạn cơ bản của “Bất tuân dân sự” áp dụng để lật đổ chế độ không chỉ giúp lãnh đạo, quản lý các cấp trong bộ máy quản lý Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện có hiệu quả vai trò của mình; chỉ huy đơn vị, các cơ quan chức năng, cán bộ, đảng viên, mọi quân nhân, công nhân viên chức, người lao động nhận diện, phân biệt rõ ràng về bản chất các hoạt động chống đối chính quyền của “Bất tuân dân sự”, mà còn nâng cao hiệu quả trong quá trình xây dựng các biện pháp phòng ngừa, đối phó hiệu quả, kịp thời là vấn đề cấp thiết hiện nay.

“Bất tuân dân sự” dẫn đến thay đổi chính quyền có quá trình dài, ngắn khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, dựa trên thực tiễn đã xảy ra nhiều nước trên thế giới, có thể đúc kết "bất tuân dân sự" thường trải qua 2 giai đoạn và một điểm chuyển tiếp như sau:

Giai đoạn 1, gọi là “Đối kháng chọn lọc". Giai đoạn này tập trung vào việc dùng các thủ đoạn “mềm dẻo” để kích động gây ra sự phản kháng của người dân trên từng phần, từng khía cạnh đối lập với chế độ chính trị, như: Xóa bỏ nền tảng tư tưởng, phá vỡ niềm tin của nhân dân vào chính quyền, thay thế bằng hệ tư tưởng khác; làm mất sức mạnh của công cụ bạo lực và xây dựng các tổ chức “độc lập”, đối họng với chính quyền để tập họp lực lượng.

Giai đoạn 2, gọi là “Đối kháng tràn ngập”. Giai đoạn này xảy ra khi đa số người dân bức xúc, không còn niềm tin vào chính quyền, quan điểm chính trị đã bị thay đổi, sẵn sàng vùng lên chống chính quyền; công cụ bạo lực bị vô hiệu; xây dựng được các tổ chức “độc lập” đủ mạnh sẽ thừa cơ kích động người dân đồng loạt đứng lên lật đổ chế độ.

Sự chuyển biến từ giai đoạn “Đối kháng chọn lọc” sang “Đối kháng tràn ngập” gọi là “Điểm nút”. Điều này được đánh dấu khi xuất hiện các sự kiện, vụ việc có tính chất liên kết tất cả các lực lượng hoặc có tính lan tỏa, đánh động tinh thần phản kháng của người dân dẫn đến bùng phát các cuộc biểu tình, bạo loạn lật đổ chính quyền. Tại Tuy-ni-di là sự kiện người bán hàng rong Mô-ha-mét Bua-di-di (Mohamed Bouazizi), 26 tuổi, tự thiêu để phản đối việc bị tịch thu chiếc xe chở rau quả, phương tiện kiếm sống cho cả gia đình nghèo khó (tháng 12/2010); sự kiện này được lan truyền nhanh chóng qua mạng xã hội Facebook, gây nên sự căm phẫn dẫn tới biểu tình, bạo loạn khắp đất nước, buộc Tổng thống nước này cùng gia đình phải di cư ra nước ngoài. Hay sự kiện thanh niên Kha-lét-sai (Khaled Said) ở Ai Cập, bị cảnh sảt bắt quả tang trong khi đang đưa lên mạng xã hội đoạn băng quay video tố cáo tham, nhũng trong ngành cảnh sát và bị đánh đập đến chết; sự kiện này cũng lập tức được lan truyền trên mạng xã hội Facebook, làm bùng lên làn sóng biểu tình, bạo loạn của hàng trăm nghìn thanh niên, sinh viên, trí thức, sau đó đã khiến Tổng thống Ai Cập Mubarak phải từ chức sau hơn 30 năm cầm quyền. Thông thường, sau khi “Điểm nút” xảy ra, các chế độ hầu như không thể duy trì được quyền lực, ít nhất cũng phải chia sẻ với phe đối lập và phần nhiều là sụp đổ./.

Xây dựng đảng và nhà nước trong sạch gắn với đấu tranh chống tiêu cực - những chỉ dẫn của V. I. Lê-nin và giá trị thực tiễn hiện nay

 TCCSĐT - Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong điều kiện lịch sử mới, V. I. Lê-nin đã có những đóng góp to lớn khi biến lý luận Chủ nghĩa Mác trở thành hiện thực sinh động bằng việc tổ chức xây dựng Đảng Bôn-sê-vich Nga và Nhà nước Xô-viết công - nông. Đó cũng là quá trình V. I. Lê-nin có những chỉ dẫn đặc biệt quan trọng đối với nhiệm vụ xây dựng đảng và nhà nước trong sạch gắn với đấu tranh chống tiêu cực.

Đây là điểm đặc sắc trong tư tưởng V. I. Lê-nin về xây dựng đảng và nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản - tư tưởng có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta hiện nay.

Nhìn lại lịch sử có thể thấy, xây dựng đảng và nhà nước trong sạch gắn với đấu tranh chống tiêu cực là “sợi chỉ đỏ xuyên suốt”, là tư tưởng nhất quán của V. I. Lê-nin trong thực tiễn chỉ đạo, tổ chức xây dựng Đảng, Nhà nước Xô-viết ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Thực tế thì các hiện tượng tiêu cực luôn là một “nguy cơ tiềm ẩn”, một “ẩn họa” thường xuyên đe dọa các nhà nước cầm quyền, các chính đảng lãnh đạo, là yếu tố nội tại bên trong trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Với vai trò “tổng công trình sư” của Nhà nước Xô-viết, hơn ai hết V. I. Lê-nin nhận rõ điều đó. Vì vậy, Người luôn cảnh báo và thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực để làm trong sạch nội bộ Đảng và bộ máy chính quyền. Điều này thể hiện khá rõ thông qua những bài nói, bài viết của V. I. Lê-nin. Trước hết, V. I. Lê-nin nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc đấu tranh chống tiêu cực, đó là cơ sở quan trọng đầu tiên để Đảng và Nhà nước giữ vững được vai trò lãnh đạo, tổ chức, quản lý xã hội trong điều kiện bước đầu xây dựng Nhà nước Xô-viết non trẻ.

Để đấu tranh chống tiêu cực có hiệu quả, việc đầu tiên đặt ra với mọi người đó là phải nhận biết được các hiện tượng tiêu cực. Bằng thực tiễn trải nghiệm qua phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, cùng với nhãn quan chính trị thiên tài của mình, V. I. Lê-nin đã chỉ dẫn những cơ sở để giúp chúng ta phân định chính xác giữa khuyết điểm với tiêu cực.

Theo V. I. Lê-nin, trong quá trình hoạt động thực tiễn, đặc biệt là trong xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước Xô-viết - nhà nước cách mạng kiểu mới chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, mọi người đều có thể có khuyết điểm, hạn chế bởi đó là một quá trình khó khăn, phức tạp, vừa tiến hành xây dựng vừa rút kinh nghiệm từng bước. Song về bản chất, đó là những khuyết điểm, hạn chế có nguyên nhân từ nhận thức. Chỉ có những người thoái hóa, biến chất, những cá nhân suy thoái về phẩm chất đạo đức mới gây nên những tệ nạn tiêu cực trong Đảng và Nhà nước. Những khuyết điểm do nhận thức có thể khắc phục, sửa chữa dần dần cùng với công tác giáo dục, còn những hiện tượng tiêu cực thì cần phải đấu tranh lên án, phê phán và loại bỏ với thái độ kiên quyết, quyết liệt bởi chính những tệ nạn tiêu cực đó sẽ như một thứ “vi rút” nguy hiểm, sẽ nhanh chóng lây lan từ một người sang nhiều người, từ một cơ quan, tổ chức sang nhiều cơ quan, tổ chức,... Hệ quả tất yếu là làm suy thoái đội ngũ cán bộ, đảng viên, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân; làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước.

Ngay từ năm 1918, V. I. Lê-nin đã chỉ rõ hàng loạt những hiện tượng tiêu cực đe dọa sự trong sạch của Đảng và Nhà nước Xô-viết. Đó là tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí (lãng phí thời gian, lãng phí tiền của), hối lộ, đút lót,... gắn với “những kẻ bất tài hoặc vô lương tâm trong số các thủ trưởng, chúng không phải không mong muốn trở thành những "ngôi sao" trong nghề ăn cắp của công” (1), trong đó nguy hiểm nhất là tình trạng quan liêu, cửa quyền cùng những biểu hiện phức tạp của nó,... Bên cạnh những biện pháp tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa tiêu cực thì cũng cần kiên quyết đấu tranh loại bỏ những hiện tượng tiêu cực bằng chính tinh thần tiền phong của người đảng viên và trách nhiệm của người cán bộ.

Đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng, V. I. Lê-nin yêu cầu thường xuyên nêu cao trách nhiệm của mọi đảng viên, kiên quyết đấu tranh chống lại và khắc phục những hiện tượng tiêu cực; kiên quyết đuổi ra khỏi Đảng không chỉ những kẻ gian sảo, thoái hóa biến chất mà cả những kẻ thiếu năng lực không làm được việc. Phải thực hiện triệt để điều này mới có thể nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Trong xây dựng Nhà nước, Người cũng nhấn mạnh, kiên quyết đấu tranh chống mọi hiện tượng tiêu cực trong bộ máy chính quyền là tiền đề để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, luôn luôn được quần chúng nhân dân tín nhiệm, ủng hộ.

Không dừng lại ở những bài nói, bài viết, V. I. Lê-nin còn thường xuyên có những chỉ dẫn kiên quyết đối với cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đảng và nhà nước. Tháng 5-1918, trước việc tòa án nhân dân Mát-xcơ-va xử nhẹ một vụ án đút lót, hối lộ, V. I. Lê-nin đã chỉ đạo xử lý kiên quyết, dứt điểm theo tinh thần “đúng người, đúng tội”. V. I. Lê-nin không nhất trí với cách xử lý mà Người gọi là “pha trò, mềm mỏng” của cơ quan này. Người khẳng định: “Không xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng nhẹ nhàng như vậy - đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng” (2). Tiếp đó, trong khi rút kinh nghiệm vụ án, V. I. Lê-nin đã trực tiếp yêu cầu các cán bộ tư pháp “Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ (ăn hối lộ, tặng hối lộ và những cách hối lộ khác), ít nhất cũng phải phạt 10 năm giam cầm và 10 năm khổ sai” (3).

Nghiên cứu những chỉ dẫn của V. I. Lê-nin, để chống lại và khắc phục các tệ nạn tiêu cực trong đảng và nhà nước, vấn đề quan trọng là cần tìm hiểu, phân tích, xác định đúng nguyên nhân của những tệ nạn tiêu cực đó. Thực tế cho thấy, những hiện tượng tiêu cực có thể là hệ quả của rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể do nguyên nhân khách quan hoặc nguyên nhân chủ quan, có thể do nguyên nhân tư tưởng ý thức, do nguyên nhân tổ chức hoặc do những tác động của các yếu tố kinh tế, vật chất,... Vì vậy, muốn giải quyết dứt điểm tệ nạn tiêu cực, đòi hỏi chúng ta phải chủ động thực hiện đồng thời, tổng hợp nhiều biện pháp đồng bộ với tinh thần đấu tranh kiên quyết. V. I. Lê-nin yêu cầu, “tính toán tiền nong cho cẩn thận và thành thực, hãy chi tiêu tiết kiệm, đừng lười biếng, đừng tham ô, hãy triệt để tuân theo kỷ luật lao động” (4); đảng viên, công chức không được lười biếng, không ăn cắp của chung làm của riêng... Đó là “khẩu hiệu chủ yếu trước mắt” của mọi cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ, để đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đảng và nhà nước “chỉ có cách là tổ chức nhau lại, tăng cường kỷ luật trong bản thân chúng ta, quét sạch ra khỏi hàng ngũ chúng ta tất cả những kẻ lười biếng, ăn bám, ăn cắp của công” (5).

Trong đấu tranh chống hiện tượng tiêu cực, theo chỉ dẫn của V. I. Lê-nin, cần nhấn mạnh và đề cao yếu tố nêu gương: Cấp trên làm gương cho cấp dưới, cơ quan trung ương làm gương cho cơ quan địa phương,... Từ đó, tạo sức mạnh thống nhất, đồng thuận để có thể đấu tranh có hiệu quả, loại bỏ những hiện tượng tiêu cực trong nội bộ đảng và nhà nước.

Xây dựng đảng và nhà nước trong sạch gắn với đấu tranh chống tiêu cực là nội dung quan trọng trong kho tàng tư tưởng lý luận vô giá mà V. I. Lê-nin đã để lại cho phong trào vô sản quốc tế. Đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể, đây là “hạt nhân cốt lõi” góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp giúp Nhà nước Xô-viết non trẻ đập tan âm mưu phản loạn của các thế lực cơ hội, phản động bên trong, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của 14 nước đế quốc Âu - Mỹ, bảo vệ những thành quả của Cách mạng Tháng Mười lịch sử.

Những nội dung chỉ dẫn của V. I. Lê-nin về xây dựng đảng và nhà nước trong sạch gắn với đấu tranh chống tiêu cực vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa thời sự đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta hiện nay. Nhìn lại quá trình đổi mới gần 30 năm qua, những thành tựu to lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đạt được đã tạo cho đất nước thế và lực mới, kinh tế - xã hội đất nước có những thay đổi đáng kể, đời sống của nhân dân đã được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ, vận hội mới thì nước ta vẫn đang đối diện với không ít nguy cơ, thách thức lớn đan xen nhau.

Như Đại hội XI của Đảng đã khẳng định, “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng” (5). Hội nghị Trung ương 4 khóa XI cũng nhấn mạnh “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng” (6). Những hiện tượng tiêu cực trên đã và đang ảnh hưởng trực tiếp tới lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, là những mầm mống đe dọa sự đồng thuận xã hội, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước.

Quán triệt và vận dụng những chỉ dẫn của V. I. Lê-nin về xây dựng đảng và nhà nước trong sạch gắn với đấu tranh chống tiêu cực ở nước ta hiện nay là một trong những đòi hỏi mang tính cấp bách để củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từng cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đấu tranh kiên quyết và có hiệu quả với các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và Nhà nước. Phải xác định đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và Nhà nước là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trách nhiệm của các ngành, các tổ chức chính trị xã hội. Muốn thực hiện có chất lượng và hiệu quả cần tập trung triển khai một cách nghiêm túc từ Trung ương đến cơ sở. Những chỉ dẫn của V. I. Lê-nin, nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch gắn với đấu tranh chống tiêu cực là nhân tố quan trọng để chúng ta củng cố lòng tin của nhân dân, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tình hình mới./.
--------------------------------------------

Từ “Sửa đổi lối làm việc” đến “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”

 TCCS - Những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dự liệu, tâm huyết, kiên quyết chỉ ra và nhấn mạnh phải “sửa đổi” trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự. Đặc biệt, những vấn đề lớn của công tác xây dựng Đảng mà Người nêu ra trong tác phẩm đã được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng kế thừa, bổ sung và phát triển phù hợp với điều kiện thực tế, đồng thời được cụ thể hóa trong 4 nhóm giải pháp nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

“Sửa đổi lối làm việc” để xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ kháng chiến

Tháng 10-1947, giữa những ngày Việt Bắc đang cùng đồng bào và chiến sĩ cả nước tập trung đánh bại cuộc hành quân chiến lược của thực dân Pháp hòng tiêu diệt “cơ quan đầu não” của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; khi vận mệnh dân tộc ở vào thời khắc cam go nhất, đòi hỏi phải có sự đoàn kết, thống nhất của một đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, với một đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu về đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thì những trăn trở, những cảnh báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tổ chức, lề lối làm việc và những khuyết điểm, sai lầm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tổ chức bộ máy của Đảng và Chính phủ từng được chỉ rõ trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (tháng 10-1945), Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ (tháng 3-1947), Thư gửi các đồng chí Trung Bộ (năm 1947),...  vẫn chưa được thực hiện triệt để. Dù bộn bề công việc, song trong tư tưởng của Người, xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn, quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Khi ấy, Người đang ở làng Vang, xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

“Sửa đổi lối làm việc” là một tác phẩm quan trọng, ra đời trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thể hiện tư tưởng và lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đảng cầm quyền trong điều kiện vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Theo đó, phải sửa đổi để đổi mới trong tư tưởng, trong tổ chức bộ máy và trong cách làm việc của Đảng, của cán bộ, đảng viên trước tình hình mới. Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tìm ra nguyên nhân, biện pháp và cách thức tiến hành để cán bộ, đảng viên có tư tưởng, đạo đức và cách làm việc đúng hơn, khéo hơn, hiệu quả hơn; và nội dung cần phải sửa đổi là toàn bộ hoạt động của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên từ nhận thức, tư tưởng đến chỉ đạo tổ chức thực hiện.

Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đề cập đến 6 vấn đề lớn, vừa có tính lý luận, vừa có tính chỉ đạo thực tiễn sâu sắc về công tác xây dựng Đảng: 1- Phê bình và sửa chữa; 2- Mấy điều kinh nghiệm; 3- Tư cách và đạo đức cách mạng; 4- Vấn đề cán bộ; 5- Cách lãnh đạo; 6- Chống thói ba hoa. Đưa ra 6 vấn đề lớn về công tác xây dựng Đảng, trong điều kiện toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang tập trung tất cả nguồn sức mạnh vật chất và nội lực tinh thần để đánh bại cuộc tấn công của thực dân Pháp lên Việt Bắc; trong điều kiện Đảng phải khắc phục những nhược điểm, những chứng bệnh mới xuất hiện mà trước đó chưa xuất hiện hoặc chưa có điều kiện bộc lộ rõ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã, một mặt, khẳng định những nguy cơ thoái hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tác hại của nó đối với đảng cầm quyền; mặt khác, chỉ rõ nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính thường xuyên, lâu dài là phải sửa đổi lối làm việc để chỉnh đốn lại Đảng, làm cho Đảng “mạnh khỏe, chắc chắn”, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng với vai trò tiền phong và gắn bó mật thiết với nhân dân.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ vạch ra những sai lầm, khuyết điểm, lệch lạc trong nhận thức, tư tưởng, trong phẩm chất đạo đức, lối sống và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, mà còn tập trung nêu rõ những biện pháp cần thiết để chữa trị những căn bệnh “nan y” này. Do đó, xuyên suốt và cốt lõi trong tác phẩm này đều là những vấn đề xoay quanh việc phải giáo dục, rèn luyện và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực làm việc và tư cách đạo đức, thực sự là “công bộc” của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đảng cũng là một thực thể xã hội, cán bộ, đảng viên của Đảng có nhiều ưu điểm và đạt nhiều thành tích, nhưng cũng có những khuyết điểm là: không giữ vững được tính cách mạng trong mỗi công việc của Đảng; thiếu chí công vô tư; không giữ được kỷ luật nghiêm từ cấp trên xuống cấp dưới; không gần dân, lắng nghe và gắn bó mật thiết với nhân dân, và nhất là không làm việc đến nơi đến chốn. Nguyên nhân của những khuyết điểm đó là do nhận thức, tư tưởng chưa đúng, mắc bệnh chủ quan, hẹp hòi, ưa dùng cánh hẩu, kéo bè kéo cánh, phá vỡ khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữa Đảng và nhân dân; ưa ba hoa, nói dông dài, cẩu thả,...

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, những khuyết điểm đó sẽ được khắc phục bằng “phê bình và sửa chữa”. Nhưng vì “phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”(1), cho nên khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải theo nguyên tắc “phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”, để người bị phê bình “vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét”(2). Nhấn mạnh tầm quan trọng và tính tất yếu của việc phải luôn tự phê bình và phê bình, coi đó là một nội dung quan trọng của quy luật phát triển Đảng, Người viết: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó... rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(3). Và chính Người là một mẫu mực của tinh thần tự phê bình và phê bình trong mọi thời điểm cách mạng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sửa đổi lối làm việc sẽ giúp giải quyết những tồn tại trong lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn của một đảng cầm quyền, được chỉ rõ trong “Mấy điều kinh nghiệm”, “Vấn đề cán bộ”, “Cách lãnh đạo” và “Chống thói ba hoa”, để đội ngũ cán bộ, đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, đạt hiệu quả hơn. Muốn vậy, cán bộ, đảng viên khi tự phê bình và phê bình phải “biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo”; khi chỉ đạo thực tiễn, một mặt, “phải biết khéo lợi dụng kinh nghiệm”; mặt khác, “phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát”; khi làm công tác cán bộ, không chỉ coi “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, mà còn phải biết “khéo dùng cán bộ”, “đối với cán bộ khéo”, để trong mọi hoàn cảnh, biết “lãnh đạo khéo, tài nhỏ hóa ra tài to”, các công việc sẽ thuận lợi và có kết quả tốt. Không chỉ nhạy bén trước tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn trăn trở với cách làm việc xa dân, coi thường dân chúng, quen “trông từ trên xuống”, không bao giờ chịu “thấy từ dưới lên” của một bộ phận cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Cách làm việc đó rất nguy hại và ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, vì thế,  Người yêu cầu: “Những người mắc bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, không làm được việc, phải thải đi”(4) và những người cậy mình là “công thần cách mạng”, “hạng người nói suông” thì mời “các ông đó xuống công tác hạ tầng, khép họ vào kỷ luật...”(5).

Cách đây 65 năm, những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Sửa đổi lối làm việc” có ý nghĩa quan trọng, rất đúng và rất trúng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Thực hiện nghiêm túc 6 vấn đề lớn đã nêu trong tác phẩm và quán triệt nguyên tắc “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”(6) sẽ góp phần tăng cường bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên; củng cố được lực lượng, siết chặt được khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, để Đảng hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc và
nhân dân.

“Sửa đổi lối làm việc” để thực hiện Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”

Không chỉ được thực hiện nghiêm túc, kịp thời trong toàn Đảng vào thời điểm đó, cùng với thời gian, “Sửa đổi lối làm việc” đã tiếp tục được thực hiện, để xây dựng Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, thông qua Chuyên mục “Sửa đổi lối làm việc” trên Báo Sự Thật. Tuy nhiên, cùng với thời gian cũng như những thay đổi của tình hình thực tiễn, những biểu hiện thoái hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên dường như không giảm, trái lại, ngày càng gia tăng và trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ.

Để đáp ứng kịp thời và phù hợp với tâm nguyện của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; tiếp tục thực hiện những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc tất yếu phải sửa đổi lối làm việc để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Đảng ta đã thông qua Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật về nguy cơ, thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên, Nghị quyết số 12-NQ/TW nêu rõ: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc,...

Đội ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.

Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm...”(7).

Từ thực tế, có thể khẳng định, nếu không có những giải pháp thích hợp để nghiêm túc thực hiện, nhằm tạo sự chuyển biến thật sự; nếu tình trạng đó cứ kéo dài, trở thành căn bệnh “trầm kha” thì lòng tin của nhân dân đối với Đảng sẽ không còn và khi đó, nguồn sức mạnh nội lực của Đảng cũng vì thế mà giảm sút. Vì vậy, để “lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách”(8) mà Nghị quyết số 12-NQ/TW đã đề ra, làm cho Đảng mạnh, vững, trong sạch, xứng đáng với vai trò tiền phong như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong muốn, căn dặn, thì tất yếu phải sửa đổi lối làm việc.

Có thể nói, không chỉ đưa ra Nghị quyết số 12-NQ/TW đúng và trúng, kịp thời và hoàn chỉnh, việc Đảng tổ chức một hội nghị toàn quốc nhằm quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết đó cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ Trung ương đến địa phương còn là một sửa đổi có tính đột phá. Nghị quyết đã nhận được sự đồng thuận, sự ủng hộ của toàn Đảng, toàn dân. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết, nhất là triển khai thực hiện các nhóm giải pháp của Nghị quyết, được quán triệt sâu rộng, cẩn trọng, nghiêm túc, có trọng điểm từ Trung ương đến chi bộ, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các cấp ủy cơ sở và đến từng cán bộ, đảng viên. Qua đó, nhất định sẽ góp phần tạo được sự chuyển biến sâu sắc từ nhận thức đến hành động trong toàn Đảng và xã hội. Đặc biệt, những giải pháp nêu trong Nghị quyết đều sát với những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Sửa đổi lối làm việc”, đó là:

Thứ nhất, một trong những việc cần phải làm ngay - nhóm giải pháp đầu tiên, là tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên, điều đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói cách đây 65 năm, đến nay vẫn mang tính thời sự, bởi vì, muốn “Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”, thì tất yếu “mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Đồng thời, việc tiến hành tự phê bình và phê bình phải được thực hiện nghiêm túc, triệt để, theo đó, “Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương tập trung kiểm điểm, đánh giá làm rõ tại sao những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra nhiều năm nhưng chậm được khắc phục,... Hai là, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương tiến hành kiểm điểm, đánh giá liên hệ bản thân về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao liên quan đến một số vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết này, đề ra biện pháp khắc phục. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối sống.
Ba là, các đồng chí ủy viên ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung ương Đảng, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế. Trong quá trình kiểm điểm cần liên hệ, gắn với xem xét việc thực hiện các quy chế, quy định; việc giải quyết những vấn đề về tổ chức, cán bộ; về giải quyết những vấn đề bức xúc của ngành, cơ quan hoặc địa phương”(9).

Thứ hai, quán triệt lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là gốc của mọi công việc” và “không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt. Nhưng cần phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được. Trái lại, trong lúc tranh đấu, rất dễ mất một người cán bộ”, việc đưa ra và thực hiện nghiêm nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng và nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách chính là nhằm “biết rõ ràng cán bộ, mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng mực”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Trên tinh thần đó, cần kiên quyết khắc phục tình trạng chạy chức, chạy quyền trong công tác tổ chức, cán bộ; không để các “nhóm lợi ích” chi phối công tác đề bạt, sử dụng cán bộ; chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng người có năng lực, có đạo đức cách mạng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đưa vào giữ các trọng trách ở các cơ quan trung ương, các tập đoàn kinh tế nhà nước; thực hiện dân chủ hơn nữa trong việc bầu cử các cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở. Cần quy định rõ hơn việc bầu cử các chức danh chủ chốt, kể cả cấp trung ương, trong đó quy định có số dư; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để việc theo dõi, phát hiện, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ được chặt chẽ; tiến hành việc xử lý kỷ luật những cán bộ thoái hóa, biến chất một cách nghiêm minh. Đối với cán bộ cấp cao do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, càng phải được giúp đỡ, rèn luyện, đồng thời phải xử lý kỷ luật nghiêm minh, thích đáng nếu có sai phạm để nêu gương cho cấp dưới.

Thứ ba, tuân thủ lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc thực hiện nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, trong đó có vấn đề đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; “đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm điểm, đánh giá và biện pháp giải quyết vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng của các cấp”; “đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đưa vào nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp trung ương”; và “chấn chỉnh hoạt động thông tin, tuyên truyền; quản lý có hiệu quả hoạt động báo chí theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước. Chú trọng làm tốt hơn việc nêu gương những người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu cực; đồng thời phê phán, đấu tranh với những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, vô trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối sống...”, như Nghị quyết đã nêu, sẽ có tác dụng giáo dục cho cán bộ, đảng viên và toàn thể xã hội nhận thức đúng về cơ sở lý luận và nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo sự thống nhất về hành động cách mạng trong Đảng và toàn xã hội. Công việc quan trọng này phải được xem là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên để cán bộ, đảng viên luôn giữ được vai trò tiền phong, gương mẫu của mình.

Theo dòng thời gian, những yêu cầu phải sửa đổi trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên từ những năm vừa kháng chiến, vừa kiến quốc vẫn rất cần được tiếp tục thực hiện trong tương lai. Đó là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên, góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng; mẫu mực về phẩm chất đạo đức và lối sống; luôn đoàn kết, thống nhất và gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu và kính trọng. Điều đó càng cho thấy, giữa khó khăn và ác liệt của cuộc kháng chiến, những trăn trở và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở ATK Thái Nguyên về xây dựng đảng cầm quyền có ý nghĩa lớn lao biết nhường nào./.

---------------------------------------------

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng góp phần phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đạt hiệu quả.

 TCCS - Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” một lần nữa nhận định: “các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng”. Do đó, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chính là góp phần phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đạt hiệu quả.

Sau 26 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cả về lý luận và thực tiễn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên.

Những thành tựu này có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên và càng khẳng định đường lối đúng đắn và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để bảo đảm là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới thì việc phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta và chế độ ta. 

Bản chất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thuộc về chính trị nội bộ, bao gồm lịch sử chính trị và chính trị hiện thời.

Trong công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là một bộ phận quan trọng, một nội dung của phương thức lãnh đạo, góp phần giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng của Đảng… Đảng ta đã khẳng định: “Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng” và chỉ rõ công tác kiểm tra, giám sát có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra, giám sát và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã xác định: “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát” là một trong 8 nhóm giải pháp để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Trong quá trình phát triển, do tác động của bối cảnh bên ngoài, hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản trên thế giới tạm thời thoái trào; tình hình quốc tế còn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường, sự tác động mạnh mẽ của mặt trái của cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”, cùng với một số cán bộ, đảng viên do bất đồng ý kiến với tổ chức đảng và Nhà nước, do ảnh hưởng của những quan điểm, khuynh hướng sai lệch của nước ngoài đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hoặc bị các phần tử xấu mua chuộc, lôi kéo dẫn đến xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có hành động chống lại Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 

Những dấu hiệu vi phạm của cán bộ, đảng viên, nếu không được ngăn ngừa, kết luận chính xác và xử lý công minh, kịp thời thì tất yếu sẽ dẫn đến suy thoái về chính trị từ trong nội bộ, tạo môi trường cho sự chống phá từ bên ngoài của các thế lực thù địch. 

Mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập và bối cảnh quốc tế đã tác động mạnh vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho một bộ phận tiếp tục “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, biến chất về chính trị, thoái hóa về đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, coi thường pháp luật của Nhà nước, bất chấp kỷ luật và các nguyên tắc của Đảng; hiện tượng tranh giành địa vị, quyền lợi, gây mất đoàn kết nội bộ của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa được ngăn chặn mà còn có chiều hướng gia tăng. Sự thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không chỉ diễn ra ở một số cán bộ, đảng viên có nhận thức hạn chế, mà còn ở cả một số cán bộ, đảng viên có nhận thức, trình độ kiến thức, năng lực cao, thậm chí cả một số cán bộ đã từng “vào sinh ra tử”, đã từng có đóng góp lớn và nêu gương sáng trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhưng đến nay vẫn bị gục ngã trước sự cám dỗ của vật chất, danh vọng, cá biệt còn từ bỏ lý tưởng của Đảng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng...

Mặt khác, sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và một số đảng cộng sản ở các nước Đông Âu vào những thập niên cuối của thế kỷ XX đã cho chúng ta bài học, nếu để “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xảy ra ở đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, nhất là một số cán bộ chiến lược cấp cao thì nguy cơ mất Đảng và thay đổi chế độ là tất yếu. Vì vậy, việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nói chung và kiểm tra, giám sát việc “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là rất cần thiết và quan trọng.

Để công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng góp phần quan trọng vào phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngày càng hiệu quả hơn, cần tập trung vào một số vấn đề sau: 

Một là, công tác kiểm tra, giám sát chủ động và thực sự phải góp phần quan trọng ngăn ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Phải nhận diện cho được một bộ phận đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức và những phần tử cơ hội, nhất là những kẻ cơ hội chính trị nằm ngay trong nội bộ Đảng, nhưng lại tinh vi tìm mọi cách giấu mình để chờ cơ hội thực hiện mưu đồ đen tối. Chúng ta phải khắc phục cho được tình trạng buông lỏng nguyên tắc tổ chức của Đảng, tự phê bình và phê bình kém, tính chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên sa sút. Hiện nay, sự suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống và quan liêu, tham nhũng ngày càng tinh vi, trầm trọng và mang tính phổ biến. Từ lĩnh vực kinh tế, tham nhũng đã lan sang cả các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, hoạt động từ thiện,... đặc biệt nghiêm trọng là nó đã tràn cả vào các cơ quan bảo vệ pháp luật và an ninh, như kiểm sát, tòa án, công an, quân đội - các cơ quan nòng cốt chống tham nhũng, bảo vệ Đảng và Nhà nước. Các phần tử tham nhũng chẳng những làm tổn hại lớn đến tài sản của tập thể và của Nhà nước, mà nguy hại hơn là làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, vào bản chất tốt đẹp của chế độ ta. 

Lịch sử chính trị (kể cả cha, mẹ đẻ, người trực tiếp nuôi dưỡng, vợ, chồng, con) là vấn đề rất quan trọng, nhưng có thể thẩm tra, xác minh được qua các chứng cứ thu thập, tài liệu lưu trữ; việc ra nước ngoài, quan hệ với tổ chức, cá nhân người nước ngoài, có thể xác minh và nếu vi phạm thì xử lý theo các quy định của Đảng, Nhà nước; còn vấn đề chính trị hiện thời ngày càng nảy sinh rất phức tạp, cần phải quan tâm giải quyết.

Nạn tham nhũng luôn gắn liền với tệ quan liêu. Một số cán bộ, đảng viên xa nhân dân, ngại tiếp xúc với nhân dân, không muốn đối thoại với nhân dân là một trong những nguyên nhân của tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp đang diễn ra khá phổ biến. Có nơi, cán bộ, đảng viên, quần chúng góp ý, phê bình cho cán bộ, đảng viên làm sai thì bị trù dập. Từ suy thoái về đạo đức, lối sống sẽ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, tạo điều kiện cho bọn cơ hội chính trị và các thế lực thù địch chia rẽ nội bộ Đảng và thực hiện “diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chống phá cách mạng nước ta. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng phải góp phần phát hiện, ngăn chặn và đẩy lùi thực trạng này.

Hai là, công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần tích cực vào việc giữ gìn sự đoàn kết trong nội bộ Đảng. Hiện nay, ở một số nơi vẫn còn tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Tư tưởng nể nang, hữu khuynh, né tránh “dĩ hoà, vi quý”, cục bộ, địa phương, dòng họ, tranh giành địa vị quyền lực, bè phái đang diễn ra ở không ít tổ chức đảng, trong đấu tranh xây dựng nội bộ; tệ “ô dù” bao che nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân, phe nhóm của mình, loại bỏ người không cùng ê-kíp “hay chống đối”, dẫn đến phát ngôn sai đường lối, chính sách của Đảng, tán thành đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lưu giữ và phát tán tài liệu có nội dung xấu; cung cấp và làm lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, thậm chí viết, trả lời phỏng vấn xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước và các cán bộ trung kiên của Đảng.

Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp sẽ chủ động nắm bắt tình hình, thông tin và diễn biến, từ đó có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý, đồng thời, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ. 

Ba là, trong điều kiện hiện nay, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải giữ vai trò ngăn chặn quyết định, không để những đối tượng sau chui vào Đảng và vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đó là: Những người cơ hội về chính trị; những người tha hóa đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng và những người bất tài, không có năng lực, trí tuệ. Thực tiễn cho thấy, những đối tượng cơ hội chính trị và không có chính kiến “gió chiều nào che chiều ấy” rất khó phát hiện để xử lý. Những đối tượng này rất nguy hiểm, vừa phá hoại Đảng từ bên trong, vừa là môi trường cho các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện “diễn biến hòa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra phải chủ động phát hiện dấu hiệu vi phạm, trong đó có dấu hiệu vi phạm về chính trị hiện thời để có biện pháp ngăn chặn và đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng viên cộng sản. Có nhiều phương pháp để phát hiện dấu hiệu vi phạm về chính trị hiện thời của cán bộ, đảng viên, như dựa vào tổ chức đảng, vào quần chúng nhân dân, nghiên cứu hồ sơ và các nguồn thông tin khác,...

Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Trước mắt, tập trung kiểm tra, giám sát việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình của mọi đảng viên, tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ theo tinh thần của Nghị quyết, Chỉ thị, Kế hoạch của Bộ Chính trị và Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương; những nơi làm chưa đạt phải kiên quyết yêu cầu làm lại; những nơi có vấn đề phải giải trình, thẩm tra, xác minh làm rõ, nếu có vi phạm phải xử lý nghiêm minh. 

Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới vừa qua, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận, đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân xuống cấp, suy thoái. Chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng phát triển, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra khá phổ biến ở các ngành, các cấp; trong khi thi hành công vụ thì cán bộ thường vòi vĩnh “ra điều kiện”; hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, “học giả bằng thật” khá phổ biến; “trên bảo dưới không nghe”, “phép vua thua lệ làng”...; đặc biệt là tình trạng “dưới dối trên, trên không sát dưới” làm cho tình hình càng phức tạp thêm; các tệ nạn xã hội, như mại dâm, ma túy, ăn chơi sa đọa, cơ hội, thực dụng có chiều hướng gia tăng; không ít người thiếu lương tâm, vô cảm; tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp sa sút nghiêm trọng, đố kỵ, ích kỷ, bon chen, nịnh trên, chèn dưới diễn ra ở nhiều cơ quan, đơn vị;... Tình trạng xuống cấp về đạo đức chưa được ngăn chặn và thậm chí còn có chiều hướng gia tăng, đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách thật sự nghiêm túc về vấn đề đạo đức. 

Trước tình trạng trên, Đảng ta đã chủ động, tích cực tìm các giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng. Ngày 07-11-2006, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và ngày 14-5-2011, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chỉ thị đã khẳng định đây là một chủ trương lớn, vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau hơn 6 năm thực hiện, ý thức và hành vi đạo đức của cán bộ, đảng viên đã được nâng lên rõ rệt, nhưng sự chuyển biến còn chậm, nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa được giải quyết dứt điểm. Do vậy, cần tăng cường kiểm tra, giám sát về đạo đức để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, tập trung kiểm tra, giám sát việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong đó, cần chú trọng phối hợp với các tổ chức để xây dựng các chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những chuẩn mực đó bao hàm cả chuẩn mực đạo đức chung của xã hội và các thang giá trị, chuẩn mực đạo đức của từng giai tầng trong xã hội để mọi người ở vị trí của mình tu dưỡng, rèn luyện nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa thực trạng đạo đức với hiệu quả của giáo dục đạo đức, giữa thang giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống với thang giá trị, chuẩn mực đạo đức được hình thành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đồng thời, cần kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ quá trình giao lưu văn hóa, ngăn chặn có hiệu quả sự xâm nhập của văn hóa phẩm lai căng, đồi trụy, độc hại; xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để thực sự vừa là nền tảng tinh thần, vừa là động lực của sự phát triển,...

Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thi hành kỷ luật trong Đảng. Việc xử lý kỷ luật đảng phải đúng phương châm, nguyên tắc, thủ tục, khắc phục tình trạng xử lý kỷ luật nhẹ trên, nặng dưới, thiếu kịp thời và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thi hành kỷ luật trong Đảng...

Sáu là, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm tra có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, công tâm, khách quan, có quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể... Bởi vì, yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả các cuộc kiểm tra, giám sát phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ kiểm tra. 

Xây dựng Đảng trong sạch về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương pháp lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức gánh vác, lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng là đòi hỏi khách quan, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và đội ngũ những người làm công tác kiểm tra, giám sát. Do đó, đội ngũ cán bộ kiểm tra phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng với truyền thống “Tuyệt đối trung thành, đoàn kết, trung thực, liêm khiết, kỷ cương và tận tụy”./.