Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự học, thực học, học tập suốt đời và việc vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay

Việc thường xuyên học tập để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với người cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự học, thực học, học tập suốt đời vẫn còn vẹn nguyên giá trị và là kim chỉ nam cho mỗi cá nhân, đơn vị thường xuyên thực hiện để không ngừng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.

Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự học, thực học, học tập suốt đời đối với người cán bộ cách mạng

Học tập là nhiệm vụ quan trọng của mỗi người cán bộ cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, muốn xây dựng được chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là, xã hội mới cần phải có những cán bộ với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và trực tiếp thực thi các khâu trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó có cả việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng những con người xã hội chủ nghĩa.

Vì thế, với người cán bộ cách mạng, yêu cầu trước hết là học để “làm người”, “làm việc” và sau đó mới để “làm cán bộ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra lời khuyên này cho mỗi cán bộ cách mạng vào tháng 9-1949, nhân dịp Người đến dự lễ khai giảng khóa đào tạo của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Đây chính là yêu cầu đối với người cán bộ cách mạng. Nó chỉ rõ sự khác biệt cơ bản về mục đích của việc học trong chế độ cũ và chế độ mới. Trong khi dưới chế độ cũ, đi học là đặc quyền của một số người và học là để “vinh thân, phì gia” - đem lại lợi ích cho bản thân và gia đình; thì dưới chế độ mới, đi học là quyền lợi của toàn dân; học là để phụng sự, để cống hiến cho Tổ quốc, cho dân tộc.

Người cán bộ cách mạng đi học để làm sao trở thành những “công bộc” của nhân dân mới đúng nghĩa “làm người”, có nghĩa là gột rửa hết được những tàn dư do xã hội cũ để lại. Điều này rất quan trọng, bởi nếu vẫn còn chịu tác động bởi lối suy nghĩ của xã hội cũ thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, nặng nề đến hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ xây dựng xã hội mới. Học để làm việc có nghĩa là học làm sao để có thể hoàn thành được mọi nhiệm vụ mà Đảng, cách mạng và nhân dân giao phó. Muốn làm cán bộ thì bắt buộc phải học tập, không chỉ học về kiến thức, mà quan trọng hơn cả là học về tư cách người cán bộ cách mạng, để làm sao “phụng sự Đoàn thể,/ phụng sự giai cấp và nhân dân,/ phụng sự Tổ quốc và nhân loại” một cách tốt nhất.

Việc “tự học” đối với người cán bộ

Một mặt, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đa dạng và ngày càng nặng nề của sự nghiệp cách mạng, mỗi người cán bộ phải hiểu rõ mình còn thiếu kiến thức gì trong khi thực hiện nhiệm vụ, để bổ sung kịp thời; mặt khác, vì đòi hỏi của thực tế công việc, nên không phải bất cứ lúc nào người cán bộ có nhu cầu học tập cũng có thể tham gia những lớp học bổ sung kiến thức do đoàn thể đứng ra tổ chức. Vì vậy, phải “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”. Ngoài cách truyền thống theo học trường lớp bài bản, chính quy, người cán bộ còn rất nhiều cách học vừa phù hợp với hoàn cảnh cá nhân và thực tiễn cách mạng phong phú, vừa đáp ứng đòi hỏi và nhu cầu chính đáng là thu nhận kiến thức cần thiết để thực hiện nhiệm vụ chính trị ngày càng tốt hơn. Đó chính là, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dânHọc ở sách vở là cách tự học phổ biến nhất, giải quyết được khó khăn về thời gian của người học, khi không có điều kiện đến trường lớp chính quy. Yêu cầu cao nhất của người tự học chính là cách thức học sao cho có hiệu quả thiết thực, cùng với sự đòi hỏi cao về nghị lực. Người cán bộ có thể giúp cho quá trình tự học của đồng nghiệp, người khác có kết quả, bằng cách “tùy theo hoàn cảnh mà bày vẽ cho họ về phương hướng công tác, cách thức công tác, để cho họ phát triển năng lực và sáng kiến của họ, đúng với đường lối của Đảng”. Đây chính là cách học từ công việc hằng ngày, học bằng cách tìm tòi kiến thức xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ thường xuyên.

Học lẫn nhau là sự học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau giữa các cá nhân có cùng chung mục đích học tập, có sự liên quan với nhau về kiến thức... Việc học hỏi lẫn nhau đòi hỏi cao về đức tính khiêm tốn, ham học hỏi của cá nhân người tự học. Phải có đức tính khiêm tốn thì mới thấy mình còn thiếu điều gì so với đồng nghiệp, để thực tâm mong học hỏi; đồng thời, cũng phải có sự ham học hỏi cao mới có thể giúp người học dẹp bỏ được tự ái cá nhân để thu nhận kiến thức từ đồng nghiệp. Vì thế, khi thành tâm học lẫn nhau, người cán bộ không những tu dưỡng, rèn luyện có hiệu quả đạo đức cách mạng là khiêm tốn, ham học hỏi, cầu thị trong công việc, hạn chế nguy cơ nảy sinh căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, mà còn thắt chặt tình đoàn kết trong tập thể - yếu tố quan trọng tạo thành sức mạnh để hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được giao.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh, với người tự học nói riêng, người cán bộ cách mạng nói chung không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn. Nói về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng vô sản, V.I. Lê-nin đã khẳng định, so với quảng đại quần chúng nhân dân, những người cộng sản chỉ là giọt nước trong đại dương mênh mông. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, nhân dân biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra. Theo Người, việc tự học của người cán bộ cách mạng muốn thu được kết quả tốt, không thể tách rời thực tiễn phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Chính trong phong trào đó, nhờ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, người cán bộ cách mạng mới học hỏi được những kiến thức mà chưa có bất cứ nhà trường nào truyền dạy; học hỏi nhân dân từ những vấn đề thực tế hằng ngày, từ đó đúc kết thành những tri thức lý luận để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Vì thế, muốn tự học có kết quả, người cán bộ phải gắn bó mật thiết với nhân dân, thực tâm không ngừng học hỏi nhân dân.

Việc “thực học” đối với người cán bộ

Mục đích học tập của người cán bộ, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là để phụng sự Đoàn thể,/ phụng sự giai cấp và nhân dân,/ phụng sự Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý: “Chúng ta không biết, thì chúng ta phải học, chúng ta không có quyền giấu dốt. Chúng ta phải học cho kỳ được, vì... chúng ta phải thực hiện dân chủ mới để chuẩn bị đi đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Những công việc thiết thực đó, không phải chỉ chính trị suông mà làm được”. Vì thế, theo Người, mỗi đảng viên phải nắm vững, học thạo một nghề chuyên môn, thuộc mọi ngành, nghề trong xã hội, để có thể lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện công việc trên mọi lĩnh vực, theo sự phân công của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... học cốt để mà làm. Học mà không làm được, học mấy cũng vô ích. Vì vậy huấn luyện phải thiết thực, sao cho... về địa phương họ có thể thực hành ngay”. Muốn thực học có kết quả, Người yêu cầu người học “phải hiểu, phải nhớ, phải thực hành” những điều mình học. Người cũng phê bình cán bộ mắc “bệnh lý luận suông”, đó là những người thuộc nhiều sách vở, nói chuyện lúc nào cũng dẫn sách nọ, quyển kia, nhưng lại kém trong giải quyết công việc thực tế. Đòi hỏi của người cán bộ cách mạng là không chỉ biết nhiều kiến thức, mà còn phải biết “ra sức thực hành mới thành người biết lý luận”. Kết luận lại, Người yêu cầu cán bộ cách mạng “phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”.

“Học tập suốt đời” theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Học tập suốt đời theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là thể hiện thái độ trách nhiệm của tổ chức đảng, cấp ủy các cấp cũng như của mỗi đảng viên đối với việc học tập. Lúc này, học tập là nhiệm vụ của người cách mạng chứ không phải là quyền lợi và sở thích cá nhân nữa. Có nghĩa là, học để phục vụ sự nghiệp cách mạng nên trở thành nhiệm vụ; đồng thời, sự nghiệp đó là vô cùng lâu dài, gian khổ, nên học tập cũng là trách nhiệm phải thực hiện suốt cuộc đời của người cách mạng với thái độ nghiêm túc và ý thức tự giác cao.

Đối với một số hạn chế, yếu kém trong thực hiện trách nhiệm này, về phía tập thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thế mà cứ kêu là thiếu cán bộ. Vì sao? Vì việc huấn luyện còn hữu danh vô thực, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực chu đáo”. Qua đó, có thể thấy, Người nghiêm khắc phê bình việc học tập, huấn luyện không thiết thực. Điều này không chỉ gây ra sự lãng phí cho tập thể về thời gian, mà xa hơn còn gây ra hậu quả xấu cho phong trào cách mạng, do việc đào tạo không chất lượng, nên người cán bộ không được trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết, vì thế, khi thực hiện nhiệm vụ sẽ không đạt yêu cầu đề ra.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một biểu hiện không tốt trong đội ngũ cán bộ, đó là “bệnh khinh lý luận”. Biểu hiện của căn bệnh này chính là đề cao kinh nghiệm bản thân, không chịu học hỏi, mà quên rằng “kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi”; vì thế, Người chỉ rõ, họ “cần phải nghiên cứu thêm lý luận, mới thành người cán bộ hoàn toàn”. Người mắc phải “bệnh khinh lý luận” là những người ngại học hỏi, tìm tòi cái mới, bằng lòng với cái đang có, vì thế, không bao giờ thực hiện được yêu cầu phải học tập suốt đời mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra. Do đó, để thực hiện được yêu cầu học tập suốt đời, cần phải chống lại “bệnh khinh lý luận”. Điều này không có gì mâu thuẫn với việc tự học, thực học theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi khi tập thể yêu cầu, khi nhiệm vụ đòi hỏi, người cán bộ cần tham gia học tập nghiêm túc ở trường lớp để thu nhận kiến thức một cách hệ thống, bài bản. Ở đó, người cán bộ được trang bị kiến thức lý luận chuyên sâu, cũng là để khắc phục căn bệnh coi khinh lý luận; đồng thời, quá trình này là sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa việc tự học với việc học tập suốt đời thông qua hình thức đào tạo tập trung.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện ra “bệnh kém tổng kết” phong trào cách mạng, đó là có những nơi, có những phong trào đạt thành tích rất tốt, nhưng vì “chúng ta không biết nghiên cứu đến nơi đến chốn, vì sao mà có thành tích khá?... để mà học kinh nghiệm, để mà đặt ra khuôn phép cho công việc khác. Thành thử những cái tốt, cái hay đều không phát triển được... cán bộ không học được kinh nghiệm gì, mà cũng không tiến bộ được mấy”. Đối với những sai lầm, thất bại, cũng tồn tại tình trạng như vậy, vì thế, Người chỉ rõ: “Từ nay, công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ,... rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”. Thực hiện tốt những chỉ dẫn nói trên của Người chính là làm cho quá trình tự học tập suốt đời một cách thiết thực, có hiệu quả. Sự nghiệp cách mạng là quá trình lâu dài, luôn xuất hiện những đòi hỏi và yêu cầu mới, ngày càng cao hơn, khó khăn hơn, vì vậy, người cán bộ cách mạng phải không ngừng học hỏi, học tập suốt đời để nâng cao trình độ bản thân.

Cán bộ khuyến nông tỉnh Điện Biên hướng dẫn đồng bào canh tác lúa_Nguồn: nhandan.vn

Để việc tự học, thực học, học tập suốt đời hiệu quả theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới

Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ một số hạn chế cần nhanh chóng khắc phục để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Những hạn chế đó là: Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân... Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên ở một số nơi còn chưa thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ.... Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân, nhưng một nguyên nhân là do những hạn chế từ quá trình tự học, thực học và học tập suốt đời của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nguyên nhân khiến cho việc tự học, thực học và học tập suốt đời của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa đạt kết quả như mong muốn là do việc đào tạo, bồi dưỡng còn chạy theo số lượng mà chưa thực sự chú trọng tới chất lượng; còn tình trạng học theo phong trào, sính bằng cấp mà chưa thực sự căn cứ vào đòi hỏi thực tiễn; còn tồn tại tâm lý ngại khó, ngại khổ trong học tập, không chịu đào sâu suy nghĩ để vươn lên chinh phục những đỉnh cao trong khoa học...

Thực tiễn cách mạng đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta, đòi hỏi cần vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự học, thực học và học tập suốt đời để xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ.

Thứ nhấtthực hiện nghiêm việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị. Thời gian qua, công tác này còn một số hạn chế, như Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” chỉ rõ: “Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực”. Vì vậy, cần khắc phục những hạn chế còn tồn tại để tuyển dụng được những nhân sự xứng đáng. Muốn vậy, cần tuyển chọn những nhân sự có chuyên ngành đào tạo phù hợp với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng qua thực tế công việc, để họ ngày càng trưởng thành. Kiên quyết đấu tranh, chống mọi biểu hiện tiêu cực trong công tác tuyển dụng, nhất là chỉ tuyển chọn người thân, người quen, “nhóm lợi ích” vào cơ quan, đơn vị dù không đáp ứng được yêu cầu công việc. Thực hiện tuyển dụng công khai, minh bạch; làm tốt việc xây dựng hệ thống vị trí việc làm trong cơ quan, đơn vị; xây dựng những tiêu chí cần thiết, phù hợp cho mỗi vị trí việc làm và thực hiện nghiêm túc những quy định có liên quan.

Thứ haiđổi mới công tác đánh giá chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Đánh giá cán bộ qua chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị một cách nghiêm túc, khách quan; qua đó, thúc đẩy cán bộ luôn phải liên tục tìm tòi những cách thức, biện pháp hữu hiệu thường xuyên, để nâng cao chất lượng công việc, hoàn thành nhiệm vụ được giao; phải liên tục học hỏi, tích lũy kiến thức, kỹ năng không ngừng qua thực tế công tác và thực hiện nhiệm vụ ở cơ quan, đơn vị. Đây chính là cơ sở để người cán bộ thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời. Thời gian qua, công tác này còn có một số hạn chế, đã được Nghị quyết số 26-NQ/TW, chỉ rõ: “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến”.

Đại hội XIII của Đảng nêu định hướng chỉ đạo với công tác đánh giá cán bộ: “Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế lựa chọn, đánh giá, sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”. Cần thực hiện tốt việc tổ chức công việc trong cơ quan, đơn vị theo vị trí việc làm để có căn cứ đánh giá chính xác chất lượng công việc; cụ thể hóa nguyên tắc một việc do một người chịu trách nhiệm chính, đồng thời một việc có thể giao cho nhiều người thực hiện. Điều này giúp nâng cao khả năng làm việc nhóm, thúc đẩy các thành viên trong tập thể giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ chung; đồng thời, việc đánh giá chất lượng hoàn thành công việc của từng cá nhân cũng sát hợp và đúng hơn. Cần thực hiện nghiêm nội dung mà Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã chỉ rõ: “... tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo giải quyết các vấn đề nhân dân phản ánh, khiếu kiện, nhất là những vấn đề liên quan đến đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, phát hiện, biểu dương, khen thưởng, nhân rộng những điển hình nêu gương sáng, có sức lan toả lớn trong Đảng và xã hội”.

Thứ bathắt chặt hơn mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân, với cơ sở. Đây là một phương sách hữu hiệu để thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bởi lẽ, những ý kiến xuất phát từ nhu cầu và nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của quần chúng nhân dân chính là những gợi ý tốt cho việc đề ra những giải pháp trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi người cán bộ, đảng viên, mà không sách vở, giáo trình nào có thể đề cập hết được. Kinh nghiệm phong phú của quần chúng nhân dân chính là kho tàng tri thức vô tận và vô giá, cung cấp cho đội ngũ cán bộ những cơ sở để có thể đề ra được những quyết sách đúng đắn trong công việc. Điều đó góp phần khắc phục một trong những hạn chế trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là do: “... thiếu cơ chế phù hợp để cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân; chưa phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo chí”.

Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân””. Đây cũng chính là cơ sở để đội ngũ cán bộ, đảng viên dựa vào nhân dân để thực hiện có hiệu quả việc tự học, thực học và học tập suốt đời theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, cần “đề cao trách nhiệm tự học, tự nghiên cứu của cá nhân; xây dựng chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị định kỳ, thường xuyên đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là cấp uỷ, thường vụ cấp uỷ, đề cao và thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý””. Đội ngũ cán bộ, đảng viên “quan tâm chăm lo đời sống của nhân dân. Thực hiện nghiêm... công tác tiếp dân, đối thoại với nhân dân, giải quyết những kiến nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân và xử lý kịp thời, dứt điểm các vấn đề bức xúc liên quan đến đời sống nhân dân”.

Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự học, thực học, học tập suốt đời còn vẹn nguyên giá trị thời sự, luôn là kim chỉ nam để mỗi người cán bộ, đảng viên không ngừng tự học, tự rèn nhằm nâng cao đạo đức cách mạng, năng lực, trình độ chuyên môn, xây dựng đội ngũ vững mạnh./.

ST.

Tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời là nhiệm vụ quan trọng của cán bộ, đảng viên

Hiện nay, bên cạnh những cán bộ, đảng viên mẫn cán, một lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, thì vẫn còn tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Do đó, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức, đặc biệt là tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời là nhiệm vụ quan trọng của cán bộ, đảng viên.

Yêu cầu cấp thiết của việc tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời

Đảng Cộng sản Việt Nam trải qua chặng đường hơn 94 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng ta không ngừng đưa ra những chủ trương, đường lối phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước phát triển; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế, tạo nền tảng và cơ sở vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Có được những thành tựu đó là do từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xem đây là nhiệm vụ then chốt, quyết định đến sức mạnh, uy tín của Đảng. Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, giúp cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền trong các thời kỳ cách mạng. 

Tuy nhiên, trong thực tế công tác xây dựng Đảng về đạo đức vẫn còn có những hạn chế, bất cập. Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 1-1994) và các kỳ Đại hội Đảng cùng nhiều Hội nghị Trung ương tiếp theo đã chỉ ra những biểu hiện này của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, xác định đó là một trong bốn nguy cơ liên quan đến sinh mệnh và sự tồn vong của Đảng.

Trước thực trạng đó, công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được xem là khâu then chốt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. Trên cơ sở kế thừa, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đại hội XII của Đảng đã xác định xây dựng đạo đức trong Đảng ngang tầm với những nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức, đó là: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Tập trung thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức” (2). Kế thừa tinh thần đó, Đại hội XIII của Đảng ta tiếp tục bổ sung, hoàn thiện với nhiều nội dung, giải pháp đồng bộ trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức: “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức”, nhằm “làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội” (3). Đây vừa là định hướng cho hoạt động thực tiễn, vừa là chỉ báo trong công tác đánh giá kết quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Thực hiện tốt nội dung xây dựng Đảng về đạo đức sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Theo đó, cán bộ, đảng viên cần phải tự giác học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, đề cao trách nhiệm công vụ, phấn đấu trở thành những cán bộ, đảng viên có cả tài và đức, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.

Cán bộ Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh giúp đồng bào ở xã Húc Động, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh_Nguồn: baovephapluat.vn

Kế thừa, phát huy những thành tựu đạt được

Thời gian qua, vấn đề tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời trong xây dựng Đảng về đạo đức đã đạt được nhiều thành tựu. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng, sự quản lý, điều hành của các cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị..., đa số cán bộ, đảng viên đều có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Việc rèn luyện, giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, quần chúng gắn chặt với xây dựng và thực hành đạo đức trong Đảng, nhất là phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã triển khai sâu rộng, hiệu quả Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức cao đẹp, lối sống nghĩa tình, tuân thủ pháp luật cho thanh niên, cán bộ, đảng viên trẻ luôn được Đảng ta quan tâm, thông qua việc thực hiện nhiều phong trào, hoạt động ý nghĩa như: “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”, “Nghĩa tình biên giới hải đảo”, “Hành trình tuổi trẻ vì biển đảo quê hương”,…

Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng thường xuyên được triển khai thực hiện, đã đạt được những kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào việc ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; bước đầu xây dựng được cơ chế kiểm soát quyền lực trong thực thi nhiệm vụ, công vụ, quyền hạn được giao, nhất là kiểm soát việc lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực để trục lợi của cán bộ, đảng viên.

Những hạn chế, yếu kém

Thứ nhất, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức, nội dung và phương pháp giáo dục chậm đổi mới. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi còn mang tính hình thức.

Thứ hai, công tác đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch đôi khi còn lơ là, mất cảnh giác, không ít cấp ủy, tổ chức đảng chưa chú trọng phòng ngừa, phát hiện sớm.

Thứ ba, một số cấp ủy, tổ chức đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự quan tâm đến công tác dân vận, đời sống của nhân dân. Nhiều kiến nghị chính đáng của nhân dân chưa được cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền quan tâm giải quyết kịp thời. Phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của một số cán bộ, đảng viên thiếu dân chủ, quan liêu, xa dân.

Thứ tư, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái. Có nơi lựa chọn đối tượng kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm lại né tránh không kiểm tra cấp ủy viên cùng cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp, chủ yếu lựa chọn cán bộ, đảng viên không có chức vụ để kiểm tra hoặc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên cách nhiều cấp để dễ kiểm tra và dễ xử lý khi có vi phạm...

Thực hiện tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời trong xây dựng Đảng về đạo đức

Nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong toàn Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên” (4), góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. Theo đó, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm:

Một là, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời cho từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu các tổ chức cơ sở đảng. Các cấp ủy đảng cần đưa nội dung tu dưỡng đạo đức cách mạng trong xây dựng Đảng về đạo đức vào sinh hoạt chi bộ định kỳ hằng tháng. Trong sinh hoạt chi bộ, ngoài đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, nên lựa chọn những vấn đề trọng tâm về công tác xây dựng Đảng, nhất là những hạn chế, khuyết điểm để tự phê bình và phê bình gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Hai là, thực hiện nghiêm nguyên tắc nói đi đôi với làm, nêu gương tốt, làm việc tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” (5) và “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” (6). Vì vậy, lời nói của cán bộ, đảng viên phải đi đôi với việc làm, phải làm gương mọi mặt cho quần chúng nhân dân noi theo.

Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết theo quy định của Trung ương về giáo dục đạo đức, lối sống thật sự có hiệu quả để nêu cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp, của cán bộ, đảng viên. Không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của các hình thức tuyên truyền qua tài liệu, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chú trọng việc tuyên truyền những tấm gương sáng trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Bốn là, các cấp ủy, chi bộ cần chủ động theo dõi, nắm bắt tư tưởng, dự báo tình hình, lãnh đạo, chỉ đạo và phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên để kịp thời phát hiện, đấu tranh làm thất bại hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Chủ động đấu tranh vạch trần bản chất phản động, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; lên án nhận thức, hành vi sai trái, tiêu cực, lạc hậu, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng và đấu tranh phòng, chống, tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết sàng lọc, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; cần thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; kịp thời khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích tốt trong công tác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng./.

ST.

Phòng, chống chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tiêu cực hiện nay, cần nghiên cứu, vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng, chống chủ nghĩa cá nhân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

1- Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa cá nhân không có nhiều điều kiện để phát triển. Khi đã giành được chính quyền, do cán bộ, đảng viên nắm giữ các chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, các lĩnh vực gắn liền với nhiều quyền lợi và lợi ích, nên chủ nghĩa cá nhân vị kỷ có môi trường phát triển. Cùng với đó, “sinh trưởng trong một xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen… Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân”. Hơn nữa, “Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”; “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”. Từ thực tế đó, đồng thời dự báo chiều hướng phát triển của tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian, tâm sức để giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng, chống chủ nghĩa cá nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng các cơ quan từ Chính phủ cho đến các làng, phải là công bộc của dân, Chính phủ phục vụ nhân dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh. Người nhấn mạnh, nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Nhưng để xây dựng được chính phủ phục vụ nhân dân, thực sự là công bộc của dân, thì việc phòng, chống chủ nghĩa cá nhân có ý nghĩa quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan từ Chính phủ cho đến các làng phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết, trước hết, phải chú ý giải quyết hết các vấn đề liên quan tới đời sống của dân, phải có tinh thần chí công vô tư; đồng thời, nghiêm khắc phê phán, lên án những căn bệnh, như cậy thế, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, óc bè phái đang ngự trị trong đầu óc của không ít cán bộ, đảng viên.

Trong công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước, nhất là khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ có cơ hội phát triển. Số đông cán bộ ta vẫn giữ được truyền thống cách mạng, hết sức trung thành, tận tụy với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, nhưng cũng có cán bộ, đảng viên ỷ thế cậy quyền, ngông nghênh, lấy của công dùng vào việc tư; tư túng, kéo bè kéo cánh, kiêu ngạo, coi khinh dân, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng”. Những thói hư, tật xấu đó là do cán bộ, đảng viên không chịu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, gian giảo, xảo quyệt. Đây là một kẻ địch bên trong mỗi con người. Đối với đế quốc bên ngoài, ta có thể dùng súng, dùng đạn để bắn. Với kẻ địch trong người thì không thể dùng lựu đạn mà ném vào được. Nó vô hình, không dàn ra thành trận, luôn luôn lẩn lút trong ta. Nó khó thấy, khó biết, nên khó tránh. Người sa vào chủ nghĩa cá nhân chỉ nghĩ đến lợi ích của mình, của gia đình mình, mà không nghĩ đến lợi ích chung của tập thể, của Đảng và nhân dân. Nếu có nghĩ đến, thì bao giờ cũng đặt lợi ích của mình và gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung. Đây là một bệnh chính, sinh ra nhiều chứng bệnh khác. Do vậy, phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình mình”. “Lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể”. Người nhấn mạnh, đây là nguyên tắc tối cao của Đảng, là tính Đảng. Mỗi đảng viên phải khắc ghi điều đó.

Bác Hồ bên các cháu thiếu nhi_Ảnh: Tư liệu

2- Thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung cũng như từng mặt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói riêng; tiến hành nhiều cuộc vận động, chỉnh đốn, làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị; ban hành các chỉ thị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,… Đặc biệt, các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII và XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đã được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt, thường xuyên, liên tục; được triển khai thực hiện nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, đã thực sự đi vào cuộc sống, có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ, đảng viên các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, trong đó có nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, “lợi ích nhóm”, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Sự suy thoái trên, suy cho cùng là do mắc phải chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, thể hiện trong quan hệ giữa đảng viên với nhau, giữa đảng viên và nhân dân, nhiều người chỉ nghĩ đến lợi ích của cá nhân mình; đặt lợi ích của mình lên trên, lên trước lợi ích của Đảng, Nhà nước, của tập thể, cơ quan, đơn vị. Trong công việc, không ít đảng viên lợi dụng chức vụ, quyền hạn, núp bóng việc chung để mưu cầu lợi ích cá nhân, đánh bóng tên tuổi. Ở đây là cả lợi ích vật chất và tinh thần. Những người này bề ngoài lấy danh nghĩa là tập thể, việc chung của cơ quan, đơn vị, nhưng thực chất thì chỉ nghĩ làm sao có lợi nhất cho bản thân mình.

Trong quan hệ với nhau, chủ nghĩa cá nhân làm cho ít có sự quan tâm, sẻ chia, giúp đỡ, thiếu tình đồng chí yêu thương lẫn nhau, mà thay vào đó là sự thờ ơ, vô cảm, đố kỵ, ganh tị, kèn cựa địa vị. Không ít người quan tâm đến nhau một cách giả tạo, không xuất phát từ tình yêu thương con người.

Vì cá nhân chủ nghĩa, tham danh lợi, tiền tài, một số cán bộ, đảng viên sẵn sàng sử dụng mọi âm mưu, thủ đoạn để tranh quyền, đoạt lợi nhằm đạt được mục đích của mình. Họ nói xấu, hãm hại người tốt, người giỏi, đứng về phe này chống phe kia, hình thành “nhóm lợi ích” cục bộ, bè phái, ê kíp để loại bỏ đối thủ của mình. Không ít cán bộ, đảng viên đã lồng ghép, đan xen lợi ích, phe nhóm mình trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách, khiến nhiều chủ trương, chính sách tốt đẹp bị méo mó, người dân không được thụ hưởng đầy đủ các lợi ích mà chính sách mang lại. Cũng vì lợi ích cá nhân, trong thực thi công vụ, không ít cán bộ, đảng viên đã gây khó dễ, tìm cách “vòi vĩnh” người dân và doanh nghiệp để trục lợi, nhất là trong những ngành, lĩnh vực nhạy cảm, nhiều lợi ích, dễ phát sinh tham nhũng, như quản lý đất đai, bất động sản, tài chính - ngân hàng, đầu tư công,…; thậm chí, có sự móc ngoặc giữa cán bộ, đảng viên trong cơ quan và giữa các đơn vị, cơ quan khác nhau nhằm bòn rút tiền của, tài sản của nhân dân. Những vụ án, vụ việc trong thời gian gần đây, ví như vụ Việt Á, vụ án ở Công ty cổ phần Tiến bộ quốc tế (AIC)… đã minh chứng cho điều này, làm suy giảm vai trò, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; suy giảm niềm tin của nhân dân, đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Các đại biểu tham quan Triển lãm "Khát vọng cống hiến - Lẽ sống thanh niên" trong khuôn khổ Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2022 - 2027_Ảnh: TTXVN

3- Để phòng, chống chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình cho cán bộ, đảng viên.

Để chống chủ nghĩa cá nhân, cần tăng cường, đổi mới hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng theo hướng gắn với việc thực hành chức trách, nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân, phải khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: cán bộ là công bộc của dân.

Cán bộ, đảng viên cần xây dựng tác phong liêm chính, chí công vô tư, tính tổ chức, ý thức kỷ luật, đi sâu, đi sát, gần gũi với nhân dân, tôn trọng, lắng nghe nhân dân. Từ lời ăn tiếng nói đến mỗi cử chỉ, hành động phải chuẩn mực, đúng đắn. Trong giải quyết công việc, phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước. Nếu lợi ích chung của Đảng, của nhân dân mâu thuẫn với lợi ích của cá nhân thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng, của nhân dân. Chỉ khi làm được điều đó, uy tín, vị thế, niềm tin của nhân dân với Đảng cầm quyền mới được củng cố và tăng cường.

Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, xem đây là vũ khí sắc bén để giáo dục cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thông qua đó, mỗi cán bộ, đảng viên sửa chữa được khuyết điểm, phát huy ưu điểm, ngày càng tiến bộ. Cần thực hiện tự phê bình và phê bình với một thái độ thành khẩn, tinh thần xây dựng, đoàn kết, thân ái, vì sự tiến bộ của tổ chức, đoàn thể, của đồng chí và của chính bản thân mỗi người.

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiểm soát quyền lực.

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy định của Đảng, cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng và tiêu cực, khắc phục những hạn chế, bất cập trong quản lý kinh tế - xã hội, nhất là trong những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực. Chú trọng hoàn thiện các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là của những người ở những vị trí và lĩnh vực công tác có nguy cơ tham nhũng cao; cũng như cơ chế bảo vệ và khen thưởng người tố cáo tham nhũng; kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng, các chế tài trừng trị, răn đe để không dám tham nhũng và cơ chế bảo đảm để không cần tham nhũng.

Rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền càng cao trách nhiệm càng lớn, không để bất kỳ quyền lực nào, dù lớn đến đâu, đứng ngoài sự kiểm tra, giám sát; phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm tập thể và cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm.

Siết chặt kỷ luật, kỷ cương; rà soát, sửa đổi, hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường quản lý, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ; khắc phục những bất hợp lý trong công tác cán bộ. Đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm phải xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời, công khai, bảo đảm tính thượng tôn của pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Ba là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, của nhân dân và báo chí.

Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhất là nhân dân có vai trò rất lớn trong việc giám sát, phản biện xã hội, đấu tranh chống các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực.  Thiết lập và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên ngoài nhà nước thông qua vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và hoạt động của báo chí, truyền thông. Cần phát huy được tối đa sự tham gia của đông đảo nhân dân, “phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng” (7). Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền để nhân dân tích cực, chủ động tham gia chống tham nhũng, tiêu cực. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không muốn liêm cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM” (8).

Để phát huy tốt hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và của báo chí, các cấp ủy, chính quyền cần nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện nghiêm quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những phản ánh về các biểu hiện suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, “lợi ích nhóm” trong cán bộ, đảng viên; xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí…

Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội với các cơ quan báo chí, giữa các cơ quan báo chí với nhau trong việc thông tin, tuyên truyền về công tác phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan báo chí, Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan kiểm tra, thanh tra, các bộ, ngành liên quan… để giải quyết, xử lý những vụ việc do báo chí phát hiện.

Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền.

Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tấm gương của người đứng đầu có tác động rất lớn đến suy nghĩ, tư tưởng, hành động của mỗi cán bộ, đảng viên.

Trong thời gian qua, nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” diễn ra gây bức xúc trong xã hội, để lại hậu quả nghiêm trọng đều liên quan đến vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Khi người đứng đầu sa vào chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh của cơ quan, đơn vị, bản thân người lãnh đạo, tác động tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm, làm mất niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng. Ngược lại, nếu người đứng đầu có đạo đức, nhân cách, năng lực chuyên môn, có tác phong liêm chính, hết lòng vì sự phát triển của cơ quan, đơn vị sẽ được mọi người kính trọng, có tác dụng dẫn dắt tư tưởng và hành động đối với cán bộ, đảng viên, góp phần vào sự thành công của mọi chủ trương, đường lối cũng như củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Bên cạnh việc phát huy vai trò nêu gương, tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu, cần xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, xử lý nghiêm người đứng đầu trong việc để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” tại tổ chức, cơ quan, đơn vị mình trực tiếp quản lý.  Thực tế cho thấy, “nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, xảy ra khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.

Để xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, cần đổi mới phương thức tuyển chọn, đánh giá bổ nhiệm cán bộ, đổi mới việc bầu cử trong Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ./.

ST.

 VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một hệ thống những luận điểm về mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Quan điểm đó vẫn còn nguyên giá trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay; đòi hỏi phải tiếp tục vận dụng sáng tạo, góp phần thiết thực vào công cuộc phát triển đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong bối cảnh mới.


Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức


Trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh luôn là yêu cầu, nhiệm vụ trung tâm, then chốt trong xây dựng Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Điều đó xuất phát từ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ ràng, đầy đủ về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức; thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước; bởi lẽ, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Người dạy, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1) và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(2). Người cũng chỉ rõ vị trí, vai trò của cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền nhà nước các cấp: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”(3). Bất cứ đường lối, chính sách gì, nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là “có lãi”; ngược lại, không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là “lỗ vốn”.


Đội ngũ cán bộ, công chức là những mắt khâu trung gian, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành”(4).


Để làm công việc được Chính phủ, đoàn thể giao phó đạt chất lượng, hiệu quả cao, Người yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải có đủ “đức”, đủ “tài”. “Đức” và “tài” là những phẩm chất không thể thiếu ở mỗi người cán bộ, công chức. Ở đây, “đức” là những phẩm chất đạo đức cách mạng cần phải có ở người cán bộ cách mạng; “tài” là toàn bộ những năng lực, phẩm chất thuộc về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ công tác của mỗi cán bộ, công chức.


Về đức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, công chức phải hội đủ năm đức tính tốt: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Mỗi cán bộ, công chức phải thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong quan niệm của  Chủ tịch Hồ Chí Minh là mối quan hệ “với tự mình”. Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương.


Về tài, tài của người cán bộ, công chức thể hiện ở năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, đặc biệt là năng lực nắm bắt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, công chức phải có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính; có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quan điểm nhất quán của Người là chú trọng chất trí tuệ và tính chuyên môn trong tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước thông qua chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.


Giữa đức và tài có mối quan hệ mật thiết với nhau, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp, đi đôi với nhau, không thể có mặt này, thiếu mặt kia; có đức mà không có tài thì chỉ là người vô dụng; còn có tài mà không có đức thì làm việc gì cũng khó. Người so sánh: “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”(11).


Phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, công chức không phải là những thứ tự dưng có, mà chỉ có thể là kết quả của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và quá trình tự thân mỗi cán bộ, công chức không ngừng khổ công, nỗ lực học tập, rèn luyện mới có được. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(12). Điều đó cho thấy Người rất coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - thuật ngữ Người thường dùng là “huấn luyện cán bộ”.


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn có cán bộ tốt thì Đảng phải làm thật tốt công tác huấn luyện cán bộ, phải coi huấn luyện cán bộ là công việc gốc, hết sức quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Người chỉ rõ, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(13); bởi vậy, “Các cơ quan cần phải rất chú ý đến việc huấn luyện cán bộ”(14). Người cho rằng, huấn luyện cán bộ phải toàn diện, đồng thời phải chuyên sâu và có phương pháp khoa học. Cán bộ có cán bộ đảng, cán bộ nhà nước, cán bộ đoàn thể, cán bộ ở Trung ương, cán bộ ở địa phương và cơ sở... Huấn luyện cán bộ cũng phải có nội dung, kế hoạch phù hợp với từng loại cán bộ trong những lĩnh vực cụ thể. Huấn luyện cán bộ phải được Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp xác định là công việc thường xuyên, công phu, lâu dài, phải kiên trì và bền bỉ thì mới có kết quả tốt; bởi vì: “Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt... cần phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được”(15).


Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thường được cấu thành từ các yếu tố cụ thể, gồm mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải biết “Huấn luyện ai?... Ai huấn luyện?... Huấn luyện gì?... Huấn luyện thế nào?”(16). Mỗi thành tố nêu trên đều được Người đề cập một cách cụ thể trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.


Về mục đích của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, quan trọng nhất là phải xác định động cơ đào tạo, bồi dưỡng đúng đắn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức phải nhận thức rõ rằng, đào tạo, bồi dưỡng không phải để chạy theo bằng cấp, mà mục đích cao cả của việc học là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(17). Bên cạnh đó, “Học để sửa chữa tư tưởng... Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng... Học để tin tưởng... Học để hành”(18). Trong thư gửi giáo sư và sinh viên Trường Dự bị Đại học ở Thanh Hóa, Người nhắc nhở: “… giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”(19). Chỉ khi nào cán bộ, công chức xác định được động cơ, mục đích đúng đắn thì việc học tập mới đạt tới yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng.


Về chủ thể của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng - những người trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của thầy, cô giáo, các chuyên gia tham gia công tác giáo dục, huấn luyện cán bộ. Vai trò của người thầy được Bác Hồ nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Bây giờ đang xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để dần dần đến chủ nghĩa xã hội. Kháng chiến thì cần nhiều cán bộ quân sự. Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hoá”(20). Bác cũng rất coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác huấn luyện cán bộ; đồng thời, chú trọng phát huy vai trò của các cán bộ lãnh đạo trong tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ. Người chỉ rõ: “Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó. Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dạy”(21). Vì vậy, người làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ “phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”(22) và phải thường xuyên trau dồi kiến thức, “phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình”(23).


Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ phải cụ thể, thiết thực, phải hàm chứa cả rèn đức, luyện tài, phải chú trọng trang bị cả kiến thức văn hóa, lý luận và thực tiễn. Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân; do đó, họ cần phải được giáo dục, trang bị tri thức văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Người lưu ý rằng, cán bộ, công chức phải có tinh thần ham hiểu biết các tri thức khoa học một cách toàn diện: “Các cháu phải cố gắng học tập kỹ thuật, văn hoá, chính trị... Nếu không học tập văn hóa, không có trình độ văn hóa thì không học tập được kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước nhà; nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi”(24).


Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đường lối, quan điểm của Đảng để hiểu rõ nhiệm vụ cách mạng; đồng thời, xây dựng cho bản thân mình phương pháp nhận thức đúng đắn trước những diễn biến phức tạp của cuộc sống, để từ đó vững tin vào lý tưởng cách mạng. Mặt khác, cần phải học tập khoa học - kỹ thuật, bởi chúng ta đang sống trong một thời đại khoa học và công nghệ, loài người đang vận dụng những thành tựu kỳ diệu của khoa học - kỹ thuật để đẩy mạnh sản xuất và cải tạo nhanh chóng bộ mặt của thế giới.


Về phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã tổ chức và trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng nhiều thế hệ cán bộ cho đất nước nên nắm vững và vận dụng thuần thục các quy luật tư duy và phương pháp giảng dạy trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ. Người đã đề ra hệ thống các nguyên lý, phương châm, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Chẳng hạn, “Huấn luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng”(25). Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn học tập với rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, tác phong, phương pháp công tác; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải thực chất, chú trọng chất lượng: “Cốt thiết thực chu đáo hơn tham nhiều”(26). Trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải chú trọng thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành: “Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế”(27); khi truyền đạt lý luận, kinh nghiệm công tác phải gắn với liên hệ tình hình cụ thể để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. “Huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu”(28); đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải phù hợp với yêu cầu quy hoạch, sử dụng cán bộ...


Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao phương pháp tự học. Để làm giàu vốn tri thức, hiểu biết của mình, cán bộ, công chức cần có tinh thần tìm tòi, sáng tạo trong học tập, trong cuộc sống, nghĩa là cán bộ, công chức phải chú trọng việc tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; “phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng với lý thuyết không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn. Phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải, điều hòa”(29). Đặc biệt, Người nhấn mạnh việc tự giác học tập; tuy nhiên, Người cũng yêu cầu “không nên học gạo, không nên học vẹt” mà “học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học và hành phải kết hợp với nhau”(30). Người giảng giải: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”(31).


Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải thường xuyên không ngừng học tập, nâng cao trình độ, phải coi việc học tập là công việc suốt đời. Người chỉ rõ: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”(32). Vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, công chức cần phải xác định: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(33).


Khi người cán bộ, công chức đã có cả phẩm chất và năng lực, có đức và có tài để gánh vác trọng trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục yêu cầu đội ngũ này phải thực hành phương pháp làm việc khoa học, tác phong chuyên nghiệp, hiện đại, sâu sát dân, gần dân, học hỏi dân để hoàn thiện mình. Theo Người, muốn học thành công phải có kế hoạch cụ thể, khoa học, phải tự nguyện, tự giác, tích cực, chủ động và kiên trì bền bỉ, quyết tâm thực hiện kế hoạch đến cùng; phải triệt để tận dụng mọi điều kiện, phương tiện, hình thức để học. Học đến đâu phải ra sức luyện tập thực hành đến đó, học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Học mà không đi đôi với hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy. Trong thực hiện nhiệm vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện, các xã. Cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ. Để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát, rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ nông dân và học hỏi dân”(34).


Có thể khẳng định rằng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ đã hàm chứa khá đầy đủ các nguyên lý, nguyên tắc, các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục theo lý luận giáo dục học hiện đại. Điều đó cho thấy quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có giá trị lý luận sâu sắc và giá trị thực tiễn to lớn, có thể vận dụng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng ở nước ta hiện nay.


Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay


Trong giai đoạn hiện nay, “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(35) được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lực lượng chủ công thực thi nhiệm vụ nêu trên chỉ có thể là đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.


Cán bộ hành chính gồm những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở các tỉnh thành trực thuộc Trung ương, ở huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, như chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng ủy; người đứng đầu trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, như chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc, bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ, chủ tịch hội nông dân và chủ tịch hội cựu chiến binh.


Công chức hành chính gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, như cán sự, chuyên viên làm việc trong các sở thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các phòng thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện; những người được tuyển dụng, được giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, gồm có các chức danh: Chỉ huy trưởng quân sự, văn phòng - thống kê, địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán, tư pháp - hộ tịch, văn hóa - xã hội.


Yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng hiện nay là phải: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(36). Một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả để hiện thực hóa yêu cầu nói trên là phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.


Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là hoạt động có định hướng, có tổ chức, thông qua các phương pháp và bằng các hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; qua đó, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.


Sự vận dụng giá trị quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay thể hiện trên những điểm cơ bản sau:


Thứ nhất, phải xác định cụ thể, rõ ràng mục đích đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.


Mục đích là cái mà cả quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới và là kết quả cuối cùng mà công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải đạt được. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 1-9-2017, của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức quy định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.


Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những phẩm chất đạo đức cách mạng, tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Nếu như trên bình diện chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”; thì cụ thể hóa lời dạy của Người vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay, mục đích đó chính là: Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.


Thứ hai, phải nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng của các chủ thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.


Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, trước hết, phụ thuộc vào năng lực đào tạo, bồi dưỡng, nhận thức về chức năng, nhiệm vụ và ý thức trách nhiệm của các chủ thể tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, cụ thể là các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính. Các cơ sở giáo dục cần xúc tiến mạnh mẽ sự chuẩn bị về cơ sở vật chất (giảng đường, thư viện, phòng đọc, trang thiết bị công nghệ thông tin, kết nối mạng internet...), các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuẩn, thiết thực, phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; xây dựng được đội ngũ giảng viên, chuyên gia có chất lượng chuyên môn cao, có kỹ năng sư phạm và tâm huyết; sẵn sàng để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, chuyên gia có uy tín, chất lượng, trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm giỏi, có đạo đức nghề nghiệp, tâm huyết với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, có tầm chiến lược của các cơ sở giáo dục; với tinh thần “không cốt nhiều, chỉ cốt tinh”, để thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”.


Thứ ba, đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, cần chuẩn bị năng lực nhận thức, các điều kiện vật chất, tinh thần khác để sẵn sàng lĩnh hội kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tri thức pháp luật cần thiết cho hoạt động chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công vụ.


Chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính không chỉ phụ thuộc vào chủ thể, mà còn phụ thuộc phần lớn vào chính đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Các nhà giáo, chuyên gia dù có giỏi đến mấy, đáp ứng được mọi yêu cầu, nhưng nếu không nhận được sự hợp tác chủ động, tích cực từ phía đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, thì không thể có được chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng như mong muốn. Mỗi cán bộ, công chức hành chính cần phải chủ động, tự giác, tích cực tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, xuất phát từ nhu cầu lĩnh hội nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật.


Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, công chức hành chính cần thường xuyên cập nhật thông tin về lĩnh vực chuyên môn của bản thân, chủ động tìm hiểu các chính sách, văn bản pháp luật mới, nhất là những văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đang đảm trách; nghĩa là phải phát huy tinh thần tự học như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Việc học phải lấy tự học làm cốt. Một mặt, nếu một cán bộ, công chức hành chính, dù đã tốt nghiệp kỹ sư, cử nhân, mà dừng lại, tự hài lòng, thỏa mãn với tấm bằng đại học của mình thì sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu trước những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn đời sống. Mặt khác, mỗi cán bộ, công chức hành chính cũng cần thường xuyên rèn luyện các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật vào quá trình thực thi công vụ, giải quyết nhiệm vụ được giao.


Thư tư, tiếp tục đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.


Ngoài những nội dung có tính chất chuyên biệt, chuyên sâu về lĩnh vực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính, còn cần phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị; bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng nội dung quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính thuộc các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, nhu cầu và công tác quy hoạch cán bộ của Đảng, Nhà nước, các cơ quan hữu quan.


Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần tập trung xây dựng các bộ giáo trình, tài liệu tham khảo riêng cho từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bảo đảm độ sâu cần thiết về kiến thức chuyên môn, chuyên ngành, các kỹ năng nghiệp vụ, những kiến thức pháp luật phù hợp cho từng nhóm đối tượng. Khi thiết kế nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần căn cứ vào nhu cầu thông tin, kiến thức của từng đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bổ sung, cập nhật kịp thời những vấn đề mới về chuyên môn, nghiệp vụ, các văn bản, chính sách, pháp luật mới vào nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Quá trình triển khai nội dung các môn học, học phần phải gắn lý luận với thực tiễn hành chính công vụ sinh động, tránh lý luận suông, khô khan, giáo điều, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Nội dung bồi dưỡng cũng cấn chú trọng trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính các kiến thức về phương pháp, kỹ năng thực hành công vụ, về áp dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn công vụ.


Thứ năm, đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính.


Đây là vấn đề cần được các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, các nhà giáo, chuyên gia đặc biệt quan tâm. Mặc dù trong những năm qua, các chủ thể đào tạo, bồi dưỡng ở nước ta đã áp dụng nhiều giải pháp nhằm đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; song, kết quả vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của Nhà nước và xã hội. Để tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, các cơ sở giáo dục cần tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm hướng trọng tâm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng vào đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, tạo động lực cho họ đầu tư nhiều thời gian cho việc tự học. Muốn vậy, trước hết, cần kết hợp hài hòa giữa phương pháp thuyết trình truyền thống với phương pháp giảng dạy tích cực, như: nêu vấn đề, kết hợp giảng lý thuyết với việc nêu ra các tình huống và bài tập trắc nghiệm... Đội ngũ thầy, cô giáo hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một chiều; tăng cường các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ đề chuyên môn, phương pháp nêu tình huống, sự kiện thực tế để lôi cuốn cán bộ, công chức hành chính tích cực tranh luận, thảo luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất... Chủ động chuyển mạnh từ “lấy người dạy làm trung tâm” sang phương pháp “lấy người học làm trung tâm”. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, mỗi giảng viên, chuyên gia cần ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy; mỗi cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần xây dựng hệ thống thư viện điện tử, tạo cho cán bộ, công chức hành chính khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại phục vụ hiệu quả cho việc học tập.


Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần triển khai tổng kết, đánh giá ưu điểm, nhược điểm của các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; từ đó, tìm ra các phương pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng. Cần có sự phân loại nội dung đào tạo, bồi dưỡng gắn với đặc thù của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính để sử dụng phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; tránh sự lãng phí, tốn kém không cần thiết về thời gian, công sức, tiền của.


Tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng rất cụ thể, thiết thực và vẫn còn nguyên giá trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay. Vận dụng giá trị quan điểm của Người về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải chú trọng thực hiện kỹ lưỡng từng mắt khâu, yếu tố của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, từ việc xác định mục đích, chủ thể, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng cho tới xây dựng nội dung, lựa chọn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung... như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.


Tạp chí Cộng sản