Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

“Việc to cũng như việc nhỏ. Đảng và Chính phủ ta đều lo phục vụ lợi ích của nhân dân”

 Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (1961-1965) nhằm không ngừng phát triển kinh tế-xã hội để trở thành hậu phương lớn chi viện cho chiến trường miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai ngụy quân, ngụy quyền giành thắng lợi, thống nhất đất nước.

Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, khai sinh ra Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc; Chính phủ là của dân, do dân và vì dân. Do vậy, Đảng và Chính phủ phải có tôn chỉ mục đích duy nhất là giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc, giải phóng nhân dân khỏi mọi áp bức, bóc lột, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, phục vụ nhân dân từ việc to cho đến việc nhỏ. Lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo năng lực lãnh đạo của Đảng, điều hành của Chính phủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ công khai mục đích hoạt động của Đảng ta, của Chính phủ ta trước quốc dân đồng bào và bạn bè quốc tế, thể hiện sâu sắc, đúng đắn tính giai cấp, tính tiền phong, trí tuệ, đạo đức và tính quần chúng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền từ Trung ương đến cơ sở. Đồng thời, đây còn là tư tưởng chỉ đạo để Đảng và Nhà nước ta luôn hành động đúng tôn chỉ, mục đích, gắn bó mật thiết với nhân dân, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.

Thấm nhuần lời Bác dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp, mọi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân, không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân; ra sức phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực tự cường, chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ... Cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn thấm nhuần và thực hiện đúng điều Bác Hồ kính yêu căn dặn: Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt; với bộ đội, cán bộ các cấp luôn thân thiết như người chị, công bình như người anh, hiểu biết như người bạn, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với bộ đội trên tình thương yêu đồng chí, lúc thường cũng như lúc ra trận, thực hiện toàn quân một ý chí.

“Chủ nghĩa xã hội là như mặt trời mới mọc”

 Lời khẳng định của Bác có ý nghĩa sâu sắc, góp phần quan trọng định hướng nhận thức, tư tưởng, xây dựng niềm tin cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.

Hiện nay, chủ nghĩa tư bản (CNTB) còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của CNTB. Do vậy, CNTB không phải là tương lai của xã hội loài người và theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.

Hơn 60 năm đã trôi qua, lời khẳng định của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, trong hoàn cảnh mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà nhân dân ta xây dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các đại hội của Đảng, là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Để góp phần xây dựng thành công CNXH ở nước ta, cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, nhận thức sâu sắc đối tác và đối tượng của cách mạng, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ SSCĐ, chất lượng huấn luyện, công tác, xây dựng nếp sống chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.


“Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”

 Thấm nhuần tư tưởng mác xít và trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân trong tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người cụ thể. Đó là người nông dân, công nhân, trí thức, các chiến sĩ, các cháu thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão, các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài… Bác cho rằng, tất cả đều là nhân dân và dưới bầu trời này, không gì quý bằng nhân dân; trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Lời khẳng định của Bác tuy ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc, mãi là ngọn đuốc soi đường cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ cách mạng.

Thực hiện lời dạy của Bác, hơn 60 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân nhằm phát huy vai trò và tập hợp rộng rãi lực lượng của quần chúng nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhờ phát huy vai trò của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, công cuộc đổi mới của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.

Trước yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và quân đội trong tình hình mới, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải luôn nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân, về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng, tiêu chí phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ; tăng cường mối quan hệ đoàn kết máu thịt quân dân, tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh; kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Khắc ghi lời Bác "Làm nghề gì cũng phải học"

 Việc chăm lo đào tạo, giáo dục và bồi dưỡng thanh niên, trong đó có lớp thanh niên trí thức-những sinh viên đang được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng, được Bác quan tâm đặc biệt. Theo Người, ở lứa tuổi thanh niên, sinh viên, việc giáo dục-đào tạo không phải là “cầm tay chỉ việc”, uốn nắn từng chút một, mà quan trọng là phải truyền được cho các em tinh thần tự học, tự khám phá, chủ động, sáng tạo, giúp các em định hướng được mục đích của việc tự học tập, tự xác định con đường phấn đấu cho tương lai. Chỉ như vậy, các em mới có thể kiên trì trên con đường học tập theo phương châm “Học, học nữa, học mãi”.

Tại Đại hội Sinh viên Việt Nam lần thứ hai, năm 1958, Bác nhấn mạnh: “Đối với thanh niên trí thức như các cháu ở đây thì cần đặt lại câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai?". Ngày 19-1-1959, tại Hội nghị cán bộ Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác chỉ rõ: "Nói chung thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa..." và học "để phục vụ nhân dân, xây dựng Tổ quốc”. Bác nhắc nhở HS, SV Việt Nam rằng: “Làm nghề gì cũng phải học” và mục đích của việc học là để “nâng cao năng lực làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống nhân dân càng no ấm, vui tươi”. Điều đó có nghĩa rằng, ngay cả đối với một bộ phận thanh niên không theo học đại học, cao đẳng, thì việc học cũng luôn là việc hết sức quan trọng. Học từ các lớp dạy nghề, học từ kinh nghiệm cuộc sống, từ người đi trước, tự học… để nâng cao lối sống tích cực, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp, ứng dụng được kiến thức vào lao động sản xuất và làm ăn kinh tế, làm giàu cho bản thân và xã hội. Bác cũng lưu ý HS, SV rằng, để việc học tập thành công và trở nên hữu ích thì học phải đi đôi với hành, lý thuyết phải đi cùng thực tiễn. Theo Người, “chỉ biết lý thuyết mà không biết thực hành thì cũng là trí thức có một nửa", "học lý luận cũng phải kết hợp với thực hành”...

Vâng lời Bác dạy, thế hệ HS, SV Việt Nam ngày nay nhận thức sâu sắc rằng, nhiệm vụ của thanh niên trí thức thời đại mới không chỉ là ra sức học tập để làm chủ tri thức, công nghệ mới, mà còn phải xác lập được cho mình lý tưởng đúng đắn. Những di huấn của Bác mãi là tình cảm, là tư tưởng, là định hướng và là kim chỉ nam cho các thế hệ sinh viên Việt Nam luôn cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

“Chúng ta thường than phiền không đủ thời giờ để làm việc và học tập. Đó là vì chưa biết quý trọng thời giờ...”

 Chủ tịch Hồ Chí Minh-một tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời, luôn tiên phong, mẫu mực, giản dị và tiết kiệm. Bác thường căn dặn mọi người phải thực hành tiết kiệm; tiết kiệm sức lao động, tiền bạc, đặc biệt là tiết kiệm thời gian. Với Bác, đức tính tiết kiệm thời gian là rất quý báu. Người luôn quý trọng, sử dụng hiệu quả thời gian bằng cách chủ động bố trí, sắp xếp kế hoạch cụ thể, chi tiết và tác phong hiện đại, để không bị lãng phí thời gian một cách vô ích. Tiết kiệm thời gian của Bác không chỉ là tiết kiệm cho mình, mà còn không để lãng phí thời gian đối với mọi người, không để người khác phải chờ đợi, phục vụ.

Lời dạy của Bác là sự nhắc nhở sâu sắc, giúp cho mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị và mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân biết quý trọng thời gian của mình, qua đó nâng cao ý thức tiết kiệm thời gian, sử dụng thời giờ hợp lý bảo đảm công việc trôi chảy, nhanh chóng và góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Hiện nay, trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phấn đấu đưa nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại, lời dạy của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, là bài học quý giá cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong học tập, công tác và lao động sản xuất. Thực hiện tốt lời dạy của Bác đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân cần đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương của Bác về tiết kiệm và sử dụng hiệu quả thời gian, sắp xếp thời gian khoa học, hợp lý; tích cực thi đua lao động sản xuất, học tập, công tác, tranh thủ tận dụng triệt để thời gian, thời cơ thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, như Bác hằng mong muốn.

"Tinh thần trách nhiệm"

 Đó là lời của Bác Hồ trong bài viết "Tinh thần trách nhiệm", đăng trên Báo Nhân Dân số ra ngày 13-12-1951. Đây là năm đầu thực hiện đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ và nhất định thắng lợi" do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đề ra; trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có một số biểu hiện tư tưởng thiếu cố gắng, làm chưa hết chức trách, nhiệm vụ; nói nhiều, làm ít; làm chưa đến nơi đến chốn…. Để kịp thời đấu tranh, khắc phục và làm cơ sở cho các tổ chức học tập, chỉnh đốn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài viết về tinh thần trách nhiệm.

Thực hiện lời chỉnh huấn của Bác, trong thời điểm ấy, các tổ chức đảng đã tập trung tuyên truyền, giáo dục nâng cao tinh thần cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; nắm chắc tình hình, nhiệm vụ, chủ động khắc phục khó khăn, đoàn kết gắn bó với nhân dân, thi đua phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ giao phó, tạo tiền đề huy động sức mạnh của toàn dân tộc tích cực tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi.

Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu ngày càng cao; đại đa số cán bộ, đảng viên và quần chúng đều nêu cao vai trò trách nhiệm, thực hiện nghiêm quy định, quy chế làm việc của tổ chức, cơ quan, đơn vị; luôn thể hiện rõ tinh thần chủ động, dám nghĩ, dám làm, tâm huyết, tận tụy với công việc. Cán bộ, chiến sĩ tích cực, tự giác trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, rèn luyện, chấp hành nghiêm kỷ luật, pháp luật; chủ động, sáng tạo, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Tuy nhiên, cũng còn một số cán bộ, đảng viên, quần chúng có biểu hiện trốn tránh trách nhiệm, bớt xén giờ giấc, làm không đúng quyền hạn, chức trách, nói nhiều, làm ít; làm qua loa chiếu lệ… Do vậy, việc học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy về "Tinh thần trách nhiệm" không chỉ là yêu cầu, trách nhiệm chính trị đối với mọi cán bộ, đảng viên, mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với mọi tổ chức và công dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"

 Đây là thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tập trung xây dựng miền Bắc tiến lên CNXH và đẩy mạnh công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì có một số cán bộ, đảng viên của Đảng phai nhạt đạo đức cách mạng, biểu hiện kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại; lòng tham ham muốn danh lợi, địa vị cho riêng mình, không đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, không làm đúng với chính sách và nghị quyết của Đảng, lời nói không đi đôi với việc làm; xa rời quần chúng, không được quần chúng tin theo… đã gây trở ngại lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quan trọng của phẩm chất đạo đức đối với người làm cách mạng, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên được giáo dục nâng cao tinh thần trách nhiệm, ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, để trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tuyệt đối trung thành với Đảng, quyết tâm suốt đời phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng; vì cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, nêu cao tinh thần cách mạng; gương mẫu trong lối sống, sinh hoạt, lời nói đi đôi với việc làm, gặp việc khó không nản chí, đầu tàu làm trước để quần chúng noi theo, làm theo. 

Hiện nay, trước yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, sự tác động từ mặt trái cơ chế thị trường, những tiêu cực trong đời sống xã hội, đặc biệt là tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm... trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, qua đó càng làm cho Đảng nhận rõ hơn giá trị tư tưởng về lời của Bác Hồ và vai trò, tầm quan trọng của đạo đức cách mạng đối với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lời Bác Hồ dạy, cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Đảng bộ Quân đội phải nhận thức sâu vai trò, tầm quan trọng về phẩm chất đạo đức cách mạng; thường xuyên tích cực học tập nâng cao năng lực, trình độ toàn diện; tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lòng trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; quan tâm, gắn bó, kính trọng, giúp đỡ nhân dân; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; dù trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cũng tỏa sáng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, xứng đáng là mẫu hình tiêu biểu con người mới Việt Nam XHCN.


"Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống”

 


Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, bằng sự cố gắng học tập, rèn luyện nghiêm túc, kiên trì, đạo đức cách mạng đã giúp cán bộ, đảng viên của Đảng luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, vững vàng trong mọi thử thách, khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại vẫn không lùi bước; khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần khiêm tốn, không tự đắc, tự mãn, không kiêu ngạo, không kèn cựa thiệt hơn; một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã và đang xuất hiện tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống… đang đặt ra yêu cầu cao đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, người quân nhân cách mạng phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc, mọi nơi, gắn với thực tiễn huấn luyện, SSCĐ, học tập và công tác hằng ngày. Quân nhân có chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu học tập, rèn luyện để trau dồi đạo đức cách mạng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Trước sự xuyên tạc, kích động, chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, những tiêu cực xã hội, sự cám dỗ vật chất trong đời sống xã hội hiện nay, càng đòi hỏi quân nhân phải nghiêm túc, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời; dù đang công tác trong quân đội hay xuất ngũ hoặc chuyển lĩnh vực công tác khác cũng phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, không ngừng phấn đấu giữ vững và phát huy hơn nữa phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ.

"Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”

 


Đây là quan điểm thể hiện tính nghiêm túc tự phê bình và phê bình trước những sai lầm, khuyết điểm. Người chỉ rõ hậu quả của việc yếu kém trong thực hành tự phê bình và phê bình sẽ làm giảm sút lòng tin của nhân dân, làm rạn nứt khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, tình trạng phê bình một số cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc mà có biểu hiện kiêu ngạo, tự cao tự đại, nói không đi đôi với làm; không muốn người khác phê bình mình; không tự phê bình mình hoặc tự phê bình không trung thực… làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ cách mạng. Trên cơ sở đó, Người chỉ ra yêu cầu phải chỉnh huấn, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng nghiêm túc phê bình và nghe quần chúng phê bình để kiên quyết khắc phục khuyết điểm, sai lầm.

Thực hiện lời Bác Hồ dạy, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và toàn dân; kết hợp chặt chẽ việc nâng cao nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ với kiện toàn tổ chức, mở rộng dân chủ, động viên mọi người, mọi tầng lớp xã hội, nhận rõ đúng sai, tự giác phê bình, nghiêm túc sửa chữa khuyết điểm, xây dựng tinh thần đoàn kết toàn dân, chung sức chung lòng làm theo Đảng, theo Bác, thực hiện nhiệm vụ xây dựng miền Bắc XHCN, hậu phương vững chắc cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Gần 60 năm qua, lời Bác dạy không những còn nguyên giá trị lịch sử mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đi đôi với đổi mới về chính trị, tăng cường xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; thực hiện đồng bộ các giải pháp, tập trung thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

Cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Đảng bộ Quân đội thấm nhuần lời Bác Hồ dạy, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đi đầu trong đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ra sức học tập, rèn luyện, phấn đấu xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.

"Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân...”

 Đó là lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam nhân kỷ niệm lần thứ 20 Ngày thành lập (22-12-1944 / 22-12-1964) và đó cũng chính là truyền thống vẻ vang của Quân đội ta, là chuẩn mực của Bộ đội Cụ Hồ.

QĐND Việt Nam được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, luôn vững vàng trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, hy sinh phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xứng đáng với vai trò là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân trở thành phẩm chất hàng đầu của người cách mạng và mỗi quân nhân trong QĐND Việt Nam. Phẩm chất đó là cơ sở vững chắc của sức mạnh đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động; là động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn nêu cao ý chí quyết tâm, huy động mọi sức lực và trí tuệ, phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Trung với Đảng, trung với nước của Quân đội ta trước hết thể hiện ở sự tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, là trung thành với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước. Hiếu với dân là phải gắn bó với nhân dân, gần gũi nhân dân, dựa vào dân, nắm vững dân tình, dân tâm, dân trí, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, để dân tin, dân yêu, dân giúp đỡ, bao bọc chở che.

Trong suốt hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, cùng với toàn dân tộc kinh qua các cuộc trường chinh kháng chiến, QĐND Việt Nam luôn kiên cường, bất khuất dù phải đối mặt với đế quốc, thực dân hung bạo, với niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, với tinh thần tự tôn dân tộc. Tinh thần bất khuất, kiên trung, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân đã được lớp lớp cán bộ, chiến sĩ kế thừa, phát huy, làm cho bản chất và truyền thống cách mạng của Quân đội ta càng thêm sâu sắc, phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ ngày càng tỏa sáng. Đó là cội nguồn tạo nên sức mạnh thần kỳ, giúp Quân đội ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước tiến lên chính quy, hiện đại, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

“Dân ta phải giữ nước ta. Dân là con nước, nước là mẹ chung”

 Với quyết tâm: “... Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, bởi Tổ quốc là Tổ quốc chung, Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do; nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ. Mỗi người đều phải có bổn phận với đất nước, khi Tổ quốc lâm nguy thì mọi tầng lớp người Việt Nam đều có chung một kẻ thù, một nhiệm vụ là đứng lên chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện lời kêu gọi của Người, toàn quân, toàn dân đã đồng lòng, quyết tâm đứng lên với tinh thần: “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp, cứu nước” đã chiến đấu, chiến thắng cuộc chiến tranh dài ngày nhất của thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi đó được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi.

Trọng dân, gần dân, thân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì nhân dân quên mình, chăm lo đến lợi ích của dân, dân chủ với dân, thật sự tôn vinh nhân dân làm chủ xã hội là một tư tưởng lớn, mang tính văn hóa, nhân văn, nhân đạo cao cả và tính cách mạng, tính nhân dân sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng, Nhà nước quán triệt, thực hiện trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Với chủ trương xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện nhất quán phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã trực tiếp tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững độc lập, toàn vẹn lãnh thổ; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, làm nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù hung bạo. Cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn giữ vững và phát huy tốt mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, thực hiện “quân với dân một ý chí” đã trở thành mối quan hệ mẫu mực “cá-nước”, được nhân dân tin tưởng, yêu mến và tặng danh hiệu cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.

“…Giáo cũng như lương, đoàn kết kháng chiến để Tổ quốc được độc lập, tôn giáo được tự do”

 Đây là thời điểm diễn ra Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông năm 1947, thực dân Pháp tiến hành kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, mở cuộc hành quân Xanh-tuya càn quét vùng tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Phủ Lạng Thương - Việt Trì, nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh, để hoàn tất việc tái chiếm Đông Dương. Nhưng chúng đã bị các lực lượng của ta, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh bại, buộc Pháp phải rơi vào bẫy “đánh lâu, thắng lâu”, kéo căng lực lượng do Việt Minh đã giăng sẵn và cuối cùng là thất bại hoàn toàn vào ngày 7-5-1954 tại Điện Biên Phủ.

Dù ở nơi chiến khu rừng núi xa xôi, đường sá cách trở, dù phải đối mặt với bao hiểm nguy của cuộc càn quét, tấn công tổng lực của thực dân Pháp, dù bận trăm công nghìn việc của Chính phủ lâm thời... nhưng trước sự kiện trong đại của đồng bào công giáo, Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian để viết thư chúc mừng và động viên. Trong thư, Bác Hồ đã nhắn nhủ đồng bào ta, dù giáo cũng như lương phải đoàn kết để kháng chiến chống lại thực dân xâm lược, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và tự do cho các tôn giáo.

Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng, nhất quán trong các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta; là truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc ta. Đã là người Việt Nam, dù theo tôn giáo, tín ngưỡng hay không theo tôn giáo, tín ngưỡng nào cũng có chung một dân tộc, đều là con cháu của dòng dõi Lạc Hồng.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, các đơn vị quân đội luôn quán triệt sâu sắc và tích cực vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; sống tốt đời, đẹp đạo, đồng hành cùng dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương, giáo và truyền bá các tà đạo trái phép; giữ vững và tăng cường mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt quân-dân.

“Tư tưởng thông suốt thì mọi việc làm đều tốt"

 Tại đây, Người giao cán bộ, công nhân nhà máy phải phấn đấu xây dựng nhà máy trở thành nhà máy kiểu mẫu, hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 1959, chuẩn bị cho kế hoạch dài hạn sau này. Muốn vậy, Người căn dặn phải đẩy mạnh đấu tranh tư tưởng hơn nữa; bởi tư tưởng thông suốt thì mọi việc làm đều tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc và lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng. Muốn làm tốt công tác tư tưởng, để cho đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương đến được với mọi người, động viên, khích lệ mọi người hăng hái, thi đua lao động, sản xuất, chiến đấu... thì phải làm tốt công tác tuyên truyền để cho tư tưởng được thông suốt; qua đó, để dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm; làm tốt công tác tuyên truyền sẽ không còn hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Dưới sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị nói chung, công tác giáo dục chính trị tư tưởng nói riêng được cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp trong quân đội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt hiệu quả cao, đã động viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... Càng trong khó khăn, gian khổ thì bản lĩnh chính trị, niềm tin và ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân của cán bộ, chiến sĩ quân đội càng được khẳng định, phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng tỏa sáng.


“Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”

 Ngày 24-12-1945, Việt Minh, Việt Nam Cách mạng đồng minh và Việt Nam Quốc dân Đảng đã ký kết văn bản thỏa thuận hợp tác nhằm tăng cường sự đoàn kết, củng cố mặt trận liên hợp quốc dân để tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo thỏa thuận chung, văn bản này không công bố, nhưng Báo Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc dân Đảng, đã công bố. Trước sự việc trên, phóng viên các báo đã phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nội dung có câu hỏi: "Cụ cho biết về vấn đề ngoại giao?". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”, thể hiện quan điểm của Người về mối tương quan chặt chẽ giữa hiệu quả của công tác ngoại giao với thế và lực của đất nước.

Quan điểm về công tác đối ngoại của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta tiếp tục vận dụng, cụ thể hóa và phát triển qua các kỳ đại hội. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của hoạt động đối ngoại là “đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Công tác đối ngoại của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật; đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng bao vây, cấm vận; trở thành thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế; có quan hệ ngoại giao với 185 nước trong tổng số 193 quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc, hơn 500 tổ chức phi chính phủ, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 đối tác, đối tác toàn diện với 10 đối tác trên thế giới, uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng được củng cố và không ngừng nâng cao trên trường quốc tế...

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mang tính đột phá, góp phần củng cố tình đoàn kết, hữu nghị, tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy nhiều lĩnh vực hợp tác, ngăn ngừa xung đột, giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, hội nhập quốc tế..., góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHÔNG PHẢI LÀ CON ĐƯỜNG BẤT ĐỊNH!

     Từ khi mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Đông Âu, Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa tư bản (CNTB) và thế lực thù địch tăng cường xuyên tạc, cố tình gieo rắc vào nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân lao động rằng: Con đường đi lên CNXH là bất định, không có thật!

Tuy nhiên, từ lý luận cho đến thực tiễn, thành tựu của đất nước ta trong suốt những năm qua cho thấy, việc đi lên CNXH là tất yếu của loài người và là con đường hoàn toàn đúng đắn của đất nước ta, dân tộc ta, là tương lai rộng mở.

Vì sao chủ nghĩa tư bản cố sức phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội?
Sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Đông Âu và Liên Xô khiến cách mạng thế giới lâm vào thoái trào, các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thừa cơ xuyên tạc, chống phá, phủ nhận CNXH. Ngay trong chính những người cộng sản cũng có không ít người hoài nghi, bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn khoa học và khả năng hiện thực của CNXH. Thậm chí nhiều người còn phụ họa theo các luận điệu thù địch, ra sức công kích, bài bác CNXH, ca ngợi CNTB, cổ xúy cho CNTB, lấy ví dụ từ các nước TBCN giàu có để quy kết cho những giá trị cuối cùng mà nhân loại phải hướng tới.

Một trong những luận điệu hết sức thâm độc, nguy hiểm tác động mạnh mẽ vào nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân chính là luận điệu cho rằng: Con đường đi lên CNXH là bất định, không có thật. Nhiều người nhìn vào điều kiện vật chất, trình độ phát triển của nước tư bản phát triển để nhầm tưởng rằng: CNTB là chế độ xã hội ưu việt, là mục tiêu vươn tới của nhân loại. Đồng thời ra sức chê bai, phủ nhận CNXH, từ đó cho rằng con đường đi lên CNXH ở Việt Nam chỉ là bánh vẽ viển vông, thiếu thực tế.

Vì sao CNTB, các lực lượng thù địch lại quyết liệt chống phá CNXH, quả quyết khẳng định con đường đi lên CNXH là bất định? Đó là vì con đường đi lên CNXH và những mục tiêu cách mạng XHCN đang đe dọa sự tồn vong của CNTB. Là vì con đường đi lên CNXH ngày càng sáng rõ, ngày càng khẳng định giá trị hiện thực.

Thực tế, nhiều nước tư bản đã phát triển ở trình độ cao và đang tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, đó chỉ là cái nhìn phiến diện một chiều về kết quả của CNTB ở thời điểm hiện tại. Hãy quay lại lịch sử ra đời của CNTB, ngay trong bước đi đầu tiên ở giai đoạn tích lũy nguyên thủy tư bản, giai cấp tư sản đã in hằn vào lịch sử nhân loại những dòng đầy máu và nước mắt. Giai cấp tư sản ở các nước tư bản phương Tây đã ra sức tước đoạt của cải, bóc lột sức người, vơ vét tài nguyên của các nước thuộc địa và người lao động ở chính quốc để phục vụ mục đích làm giàu vô hạn độ. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội tư bản ngày càng mở rộng, lớn lên và không bao giờ có thể khỏa lấp. V.I.Lênin khẳng định bản chất về chính trị của CNTB là thối nát và phản động; chủ nghĩa đế quốc là bạn đường của chiến tranh; còn chủ nghĩa đế quốc là còn nguy cơ chiến tranh. Rõ ràng đến nay, luận điểm đó không những còn nguyên giá trị mà còn khắc sâu hơn bản chất của CNTB đương đại.

Chính học giả người Anh là Terry Eagleton, trong tác phẩm “Tại sao Mác đúng” đã phải cay đắng thừa nhận: “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”.

Ngày nay, các nước tư bản vẫn tiếp tục gây chiến tranh, xung đột, áp đặt cường quyền, áp đặt giá trị dân chủ tư bản cho cả thế giới, để gieo rắc nỗi đau, sự bất bình đẳng, áp bức bóc lột với giai cấp vô sản, nhân dân lao động, với các quốc gia khác và coi đó là giá trị đương nhiên.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội có đích đến hiện thực
Hoàn toàn có cơ sở khoa học để khẳng định chắc chắn rằng: Con đường đi lên CNXH trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng không hề viển vông, bất định như CNTB và các thế lực thù địch xuyên tạc. Ngược lại, nó được minh chứng thuyết phục, sinh động cả về lý luận và thực tiễn.

Trước hết, CNXH là sự vận động tất yếu của lịch sử. Bằng hai phát kiến vĩ đại là học thuyết giá trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã luận giải thuyết phục sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Dựa trên các quy luật vận động nội tại của xã hội, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất và quy luật mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, C.Mác đã đi đến khẳng định: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.

Ở đây C.Mác và Ph.Ănghen đã phát triển CNXH từ không tưởng thành khoa học khi luận chứng nó từ quy luật vận động của lịch sử như sự vận động tất yếu của các quy luật kinh tế, quy luật xã hội đã hình thành ngay trong lòng CNTB. Như vậy, biện chứng khách quan của lịch sử chính là sự vận động phát triển không ngừng của các hình thái kinh tế-xã hội. Theo đó, hình thái kinh tế-xã hội XHCN tất yếu sẽ thay thế hình thái kinh tế-xã hội TBCN. Con đường đi lên của nhân loại không gì khác là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn thấp là CNXH. Đó là tất yếu của lịch sử chứ không phải là ảo vọng hay sự tự biện của những người cộng sản.

Thứ hai, mục tiêu của CNXH là không xa vời mà rất cụ thể. Đó là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ sự phân chia giai cấp, xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do, hạnh phúc. Ở CNXH có sự khác biệt rất căn bản so với tất cả phương thức sản xuất trước đó chính là nằm ở mục tiêu hay con đường đi tới. Trong xã hội trước đây chỉ là sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác thông qua một cuộc cách mạng xã hội. Tuy nhiên, đó chỉ là thay thế giai cấp thống trị này bằng giai cấp thống trị khác, quần chúng cần lao vẫn là giai cấp bị trị, vẫn chịu sự bóc lột bằng cách này hoặc cách khác. CNXH là một xã hội được xây dựng nhằm hướng tới mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người.

V.I.Lênin đã chỉ ra xu thế tất yếu của thời đại là quá độ đi lên CNXH trên toàn thế giới với mục tiêu rất cụ thể là xây dựng thành công CNXH. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau thì lựa chọn con đường, cách thức, biện pháp khác nhau. Mỗi quốc gia phải dựa vào đặc điểm tình hình cụ thể của mình để định hình con đường đi lên CNXH phù hợp. Tùy theo tư duy, nhận thức, cách thức tổ chức thực hiện ở từng Đảng Cộng sản, từng quốc gia khác nhau sẽ có độ dài-ngắn trên con đường đi đến đích.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “CNXH là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. 

Thứ ba, CNXH là chế độ xã hội đã được hiện thực hóa trên thực tế, khác biệt về chất so với các chế độ xã hội trước đó.

Từ học thuyết của Chủ nghĩa Mác về CNXH khoa học, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã biến CNXH trở thành hiện thực với đầy đủ hình hài của một xã hội tương lai: Giải phóng giai cấp vô sản thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản; giải phóng giai cấp nông dân khỏi gông cùm của địa chủ phong kiến... Những thành tựu trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam, ở Trung Quốc cho thấy con đường đi lên CNXH hoàn toàn là hiện thực, hướng tới xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn xã hội cũ, chứ không phải là điều không tưởng.

Thứ tư, CNXH đang được xây dựng toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Việt Nam. Đây là minh chứng sinh động, cụ thể về một mô hình CNXH được xác định qua 8 đặc trưng cơ bản về mục tiêu; về trình độ lực lượng sản xuất; quan hệ sản xuất; nền văn hóa; về con người, về nhà nước pháp quyền XHCN... 8 đặc trưng này là sự khái quát hóa mô hình của CNXH, nó không chỉ dừng lại trong chiến lược, trong nghị quyết mà được hiện thực hóa trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Biểu hiện rất cụ thể của dân chủ XHCN là “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đó là minh chứng rõ ràng, thuyết phục về sự hiện thực hóa nội hàm của con đường đi lên CNXH. Bởi xét cho cùng, giá trị của cách mạng XHCN đều kết tinh ở chỗ người dân làm chủ cái gì, thụ hưởng được cái gì. Và cũng chính điều này khẳng định sự khác biệt về bản chất của chế độ XHCN so với chế độ TBCN.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Xã hội chúng ta đang xây dựng là một xã hội mà ở đó mọi sự phát triển thực sự là vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà chà đạp lên phẩm giá con người; đó cũng là một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới những giá trị tiến bộ, nhân văn chứ không vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và phe nhóm. Đảng và Nhà nước ta, toàn dân ta nỗ lực xây dựng một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có.

Rõ ràng những giá trị tốt đẹp chúng ta đang xây dựng không hề xa vời, viển vông mà ngược lại đó là những giá trị đích thực của CNXH, chúng ta hoàn toàn có thể xác lập, xây dựng và hiện thực hóa. Điều đó cũng khẳng định rằng con đường đi lên CNXH không phải là bất định như nhiều kẻ xấu rêu rao mà là con đường hiện thực, có đích đến cụ thể mà chúng ta có quyền lựa chọn, có quyền nỗ lực, kiên định, kiên trì thực hiện và có quyền tin tưởng rằng CNXH sẽ được xây dựng thành công trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, CNXH không phải là cái gì đó sẵn có, nó phải được định hình về mục tiêu, cách thức xây dựng, nó phải do chính bàn tay, khối óc và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của những người cộng sản, những người lao động để đấu tranh, xác lập, sáng tạo nên./.

Theo QĐND.
Yêu nước ST.

Canh trời giữa Tây Nguyên đại ngàn

 Chúng tôi đến Tây Nguyên vào trung tuần tháng 6, khi thời tiết đã bước vào mùa mưa. Trời đang trong veo, nắng đẹp bất chợt mây vần vũ kéo đến, sấm chớp đùng đùng rồi mưa như trút nước. Tuy nhiên, thời tiết không ảnh hưởng nhiều đến việc thực hiện nhiệm vụ trực phiên ban của cán bộ, chiến sĩ đơn vị. Trên điểm cao nhất của Trạm, cánh sóng ra đa vẫn quay đều để tìm kiếm, sục sạo mục tiêu. Trong ca bin đài ra đa, đài trưởng và các trắc thủ không rời mắt khỏi màn hình hiển thị để quan sát phát hiện mục tiêu. Tại Sở chỉ huy, các thành phần tập trung cao độ, sẵn sàng tiếp nhận thông tin, thông báo, báo động. Còn trên đài quan sát, các chiến sĩ đang sục sạo để phát hiện các phương tiện bay lạ, mục tiêu bay thấp thông báo về sở chỉ huy…

Trao đổi với chúng tôi, Thiếu tá Phan Văn Hoài - Trạm trưởng Trạm Ra đa 12 cho biết, là một trong những trạm tiền tiêu của Trung đoàn, không phận đơn vị quản lý rộng, mật độ bay ngày càng nhiều, có cả đường bay trong nước, quá cảnh, quốc tế và gần đây việc sử dụng phương tiện bay không người lái nhiều, rất khó kiểm soát. Bên cạnh đó, cường độ canh trực ở đây khá cao, từ 3 đến 4 phiên/ngày, chưa kể những dịp trực tăng cường trong dịp lễ, Tết, bảo vệ chuyên cơ và sự kiện quan trọng của đất nước. Vì vậy, nếu không chặt chẽ, cụ thể trong thực hiện nhiệm vụ trực ban chiến đấu sẽ rất dễ bị sót, lọt mục tiêu, không xử lý tình huống kịp thời. 

Được biết, trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chỉ huy đơn vị luôn căn cứ tình hình cụ thể, phân công lịch trực phù hợp để bảo đảm vừa huấn luyện vừa sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ); kết hợp chặt chẽ với xây dựng chính quy, quản lý rèn luyện kỷ luật, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, bảo đảm đời sống vật chất tinh thần cho bộ đội. Để nâng cao trình độ kíp chiến đấu, ngay từ đầu năm Trạm đã có Nghị quyết, kế hoạch chặt chẽ, cụ thể, xác định trọng tâm và những khâu yếu, mặt yếu để tập trung huấn luyện, bồi dưỡng. Hàng tháng, tuần đều có lịch, tiến trình biểu huấn luyện đến từng bộ phận. Để làm chủ trên các loại ra đa với tính năng kỹ chiến thuật, cách sử dụng khác nhau, đơn vị chú trọng huấn luyện cho các thành phần, từ lý thuyết đến thực hành, đơn giản đến phức tạp, cơ bản đến nâng cao; tổ chức huấn luyện tập trung vào ban ngày; huấn luyện nâng cao trình độ cá nhân vào ban đêm. Bên cạnh đó, tổ chức luyện tập đội ngũ chiến thuật, thực hành cơ động trong điều kiện ban đêm, thời tiết phức tạp. Chú trọng bồi dưỡng cho các lực lượng canh trực SSCĐ, tham gia hội thao, hội thi như: Đài trưởng, trắc thủ ra đa, kíp sở chỉ huy, tổ chế áp UAV, phương pháp phối hợp với các lực lượng trong khu vực về thông báo, báo động. 

Đặc biệt, Trạm đã chủ động đào tạo chuyên môn cho từng cá nhân: giỏi chuyên môn của mình và có thể thực hiện nhiệm vụ ở các vị trí khác. Trung úy Vũ Kim Hiển - Đài trưởng Đài Ra đa 36D6 chia sẻ: “Kíp chiến đấu của Trạm có thể sử dụng thành thạo được 3 loại ra đa khác nhau. Chẳng hạn như trắc thủ thì có thể đảm đương được các vị trí trên các đài ra đa được biên chế; lái xe có thể kiêm điện công, trinh sát quang học; còn các đài trưởng thì nắm và sử dụng thành thạo các loại khí tài được trang bị ngoài ra còn sẵn sàng đảm nhiệm chỉ huy các lực lượng làm nhiệm vụ khác...”. Còn Hạ sĩ Đào Tâm Đức - Trắc thủ ra đa Đài 36D6 cho biết: “Chúng tôi luôn cố gắng học tập, tranh thủ thời gian nắm chắc kỹ chiến thuật của từng loại ra đa. Bên cạnh đó rèn luyện thể lực để thực hiện tốt các nội dung đội ngũ chiến thuật thu hồi, triển khai khí tài trong mọi điều kiện”.

Thiếu tá Phan Văn Hoài cho biết thêm, những năm qua, Trạm Ra đa 12 luôn duy trì tốt nền nếp trực ban chiến đấu từ sở chỉ huy đến các đài ra đa, vọng quan sát mắt, đảm bảo tốt thông tin liên lạc, quản lý chặt chẽ vùng trời được giao, không để xảy ra sai, sót, lọt chậm, hoang báo mục tiêu. Trạm luôn có 1 kíp chiến đấu giỏi, 1 kíp khá, đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Năm 2023, Trạm đạt tiêu chuẩn “Đơn vị huấn luyện giỏi” và được tặng danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”. 

Chia tay cán bộ, chiến sĩ Trạm Ra đa 12 khi mưa vẫn trắng xóa trên cao nguyên bao la, cánh sóng ra đa vẫn quay đều kịp thời phát hiện, quản lý những mục tiêu trên không. Mặc dù khó khăn chi phối, nhưng những người lính canh trời vẫn lặng lẽ với các phiên ban, bảo vệ vững chắc vùng trời được giao.


ĐẤU TRANH ĐẨY LÙI THÁI ĐỘ BÀNG QUANG, DAO ĐỘNG VỀ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA!

     Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”!
Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, một bộ phận cán bộ, đảng viên tỏ ra thờ ơ, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị cần đấu tranh phê phán, loại bỏ.

Tư tưởng tiến bộ, nhân văn nhưng vẫn bị thờ ơ, nghi hoặc
Tư tưởng XHCN là một hệ thống những quan niệm phản ánh nhu cầu, ước mơ, nguyện vọng của các giai cấp lao động về một xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều bình đẳng và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; là những thành tựu của con người đạt được trong quá trình đấu tranh giải phóng giai cấp; là chế độ xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều được tự do, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn con đường XHCN và xây dựng đất nước theo định hướng XHCN để “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.

Tuy nhiên, sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, không ít người, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên tỏ ra hoài nghi về sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Đảng ta; thậm chí còn xuất hiện những tư tưởng cơ hội đòi xét lại Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận sự lựa chọn con đường cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Có thể khẳng định rằng, thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là “căn bệnh” rất nguy hại, biểu hiện đa dạng như: Dửng dưng, làm ngơ, không quan tâm đến những sự kiện, sự việc diễn ra của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị cũng như trước khó khăn của đất nước, trong khi đó lại có những lời lẽ chê bai, phê phán sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và chính quyền các cấp.

Biểu hiện rõ nhất của việc thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN là những phát ngôn mơ hồ về CNXH. Giọng điệu của họ là ngợi ca chủ nghĩa tư bản như hình mẫu của sự phát triển hiện đại và xem cuộc khủng hoảng của CNXH thời gian qua là "bằng chứng khách quan" của một thử nghiệm thất bại. Một số thái độ dao động đáng lên án hơn là lên tiếng phê phán Đảng, Bác Hồ đã không lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa để Việt Nam sớm “hóa rồng”, “hóa hổ” như một số nước Đông Bắc Á. Họ cố tình lãng quên rằng, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các chí sĩ yêu nước Việt Nam đã từng thử nghiệm những con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước khác nhau, trong đó có con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng tất cả đều không thành công. Trước tình hình đó, đất nước và nhân dân đòi hỏi một con đường khác, con đường dẫn nhân dân Việt Nam đến độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khai mở từ mùa xuân năm 1930.

Một biểu hiện khác của thái độ thờ ơ, dao động đối với tư tưởng XHCN là phủ nhận giá trị bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới. Có người lập luận rằng, học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sáng lập là kết quả của việc tổng kết lịch sử châu Âu thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nên không còn sức sống trong thời đại mới. Học thuyết đó chỉ là sản phẩm của thời đại công nghiệp, không còn phù hợp trong thời đại toàn cầu hóa, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo... Thực chất đây là sự phủ nhận toàn bộ giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-một biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra.

“Quy luật tiến hóa của lịch sử” đang hiện diện sinh động ở Việt Nam
Điều kiện bảo đảm cách mạng thành công, xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta là trước hết phải có Đảng. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng và xây dựng CNXH ở nước ta; Đảng phải lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do đó, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng CNXH vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam.

Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đến nay, đã có nhiều hội thảo bàn luận khá sôi nổi về khả năng và triển vọng của CNXH; trong đó, đáng tiếc là có một số ý kiến của cán bộ, đảng viên có biểu hiện hoài nghi về tương lai của chế độ XHCN. Vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, trước sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, với bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.

Về sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, Văn kiện Đại hội VII của Đảng (năm 1991) chỉ rõ: Đây là “sự lựa chọn của chính lịch sử”; gắn liền với tư duy sáng tạo, hợp logic và nhất quán của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Đến Đại hội XI của Đảng, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Việc xác định những đặc trưng cơ bản trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” đã phản ánh tổng quát, toàn diện quan niệm về CNXH của Đảng ta, là sự kiên định, hiện thực hóa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH trong điều kiện mới của đất nước.

Phê phán, đẩy lùi thái độ thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN
Nhìn từ góc độ bản chất, niềm tin CNXH chính là niềm tin khoa học, phát triển trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, gắn bó chặt chẽ với hoạt động của những người cộng sản. Trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, những người cộng sản luôn phấn đấu vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại, nhân dân lao động, vì lợi ích của giai cấp và dân tộc. Do đó, xét đến cùng, niềm tin CNXH mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc, là sự thống nhất và biện chứng của tri thức-niềm tin-tình cảm-ý chí-hành động. Đặc trưng cơ bản nhất của niềm tin CNXH là sự nhận thức đúng đắn các quy luật phổ biến và quy luật đặc thù trong sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Có niềm tin về CNXH, cán bộ, đảng viên luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Hiện nay, vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động với nhiều vấn đề của xã hội, trong đó có thờ ơ, dao động với tư tưởng CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây chính là kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Bởi các thế lực thù địch luôn ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá những nước CNXH, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu sự nghiệp xây dựng CNXH của Việt Nam. Tính chất thâm độc của các thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong những năm gần đây là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng-sai lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nếu cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động sẽ dễ sa vào những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch.

Trước tình hình trên, việc làm rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là cơ sở phản bác thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng CNXH nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Hiện nay, đa số cán bộ, đảng viên là những người có tri thức, được học tập, công tác, lao động trong điều kiện thuận lợi, do đó, cần hết sức tỉnh táo trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc về CNXH và con đường đi lên CNXH dưới những hình thức khác nhau, trên những diễn đàn khác nhau, nhất là internet và mạng xã hội. Khi thấy những thông tin trên mạng xã hội, cần tỉnh táo nhận diện nguồn tin, tránh bình luận, chia sẻ tùy tiện. Điều này vô tình tuyên truyền cho các luận điệu sai trái, thù địch. Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên cũng cần biết lợi dụng thế mạnh của internet, mạng xã hội để tuyên truyền, lan tỏa những thông tin tốt về tính ưu việt của CNXH, sự đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Đối với cán bộ, đảng viên có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cao, cần nêu cao tinh thần đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, thù địch thông qua việc viết bài trên các sách, báo, tạp chí hay tham gia những diễn đàn báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng xã hội... Những sản phẩm đấu tranh trực diện đó thường có tính lan tỏa mạnh mẽ đối với cán bộ, đảng viên, tác động trực tiếp đến tâm lý, tư tưởng và định hướng dư luận trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Thái độ thờ ơ, dao động của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là đáng phê phán và cần có những biện pháp để chấn chỉnh kịp thời, nếu không xử lý dứt điểm dễ dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc loại bỏ thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng CNXH là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN trong tình hình hiện nay./.
Yêu nước ST.

LẠM QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN CŨNG LÀ MỘT BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ!

     Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng-văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội!

Hệ quả “vạ miệng” vì lạm quyền tự do ngôn luận
Những năm gần đây, một bộ phận người dân, trong đó có một số công chức, viên chức, nhà văn, nhà báo, luật sư... đã lạm dụng quyền tự do ngôn luận để phát ngôn vô lối trên mạng xã hội, kể cả phát ngôn gây thù ghét, thông tin sai sự thật, đưa ra ý kiến tùy tiện với dụng ý xấu, kể cả chống phá Đảng, Nhà nước.

Tháng 8-2022, Sở Thông tin và Truyền thông TP Đà Nẵng đã xử phạt vi phạm hành chính với mức 7,5 triệu đồng đối với một nhà báo đăng tải bài viết về việc Đà Nẵng đề xuất mở "phố đèn đỏ" trên mạng xã hội. Theo cơ quan chức năng, bài viết của nhà báo này có những nội dung sai sự thật, hình ảnh đăng tải nhạy cảm, không kiểm chứng làm người đọc hiểu sai vấn đề, gây ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành của TP Đà Nẵng đối với sự phát triển du lịch.

Lạm quyền tự do ngôn luận cũng là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị
Mới đây, một luật sư nguyên là Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội bị khởi tố, bắt giam trong vụ án “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố. Theo Bộ Công an, bị can này đã có hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các quyền tự do dân chủ, đăng tải những bài viết trên Facebook xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Không riêng ở Việt Nam, sự phát ngôn tùy tiện, thông tin sai sự thật cũng xảy ra ở nhiều quốc gia khác và các trường hợp này cơ bản đã bị xử lý nghiêm khắc.

Tháng 7-2023, Hamdan Al Rind-một người có ảnh hưởng trên mạng, chủ kênh chia sẻ video nổi tiếng “Chuyên gia ô tô” trên mạng xã hội TikTok với hơn 2,5 triệu người theo dõi-đã bị bắt ở Dubai vì một video hài. Trong clip này, anh ta ném những chồng hóa đơn cho những nhân viên đang ngơ ngác và đề nghị mua chiếc xe đắt nhất-một chiếc Ferrari SF90 trị giá 600.000USD. Clip được cho là sản xuất nhằm chế giễu lối sống xa hoa tại thành phố nổi tiếng với những tòa nhà chọc trời và những điểm du lịch hàng đầu thế giới này.

Nhà chức trách sau đó buộc tội Hamdan Al Rind đã “lạm dụng internet” bằng cách đăng thông tin “khuấy động dư luận và gây tổn hại đến lợi ích công cộng”. Hãng thông tấn nhà nước WAM đưa tin, clip này “quảng bá một hình ảnh tinh thần sai trái và xúc phạm về công dân Các tiểu vương quốc Arab thống nhất và chế giễu họ”. Vụ bắt giữ Hamdan Al Rind dựa trên những quy định tại một đạo luật về tội phạm mạng được Các tiểu vương quốc Arab thống nhất thông qua vào năm 2021.

Nhận thức đúng về quyền tự do ngôn luận để không phát ngôn tùy tiện
Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong nhiều văn bản luật quốc tế. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc nêu rõ: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến”.

Tương đồng với quy định quốc tế, tại Việt Nam, các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận không phải là “quyền bất khả xâm phạm” mà phải tuân thủ trong khuôn khổ pháp luật. Quyền tự do ngôn luận, quyền cơ bản của con người đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng - văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

Tự do ngôn luận không chỉ đơn thuần là việc phát biểu ý kiến mà còn là việc truyền đạt thông tin, kiến thức và quan điểm một cách khách quan, công tâm, trung thực. Tính trung thực và đạo đức trong sử dụng tự do ngôn luận là điều không thể phủ nhận, cần được đặt lên hàng đầu, đặc biệt là đối với trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, luật sư và những người có ảnh hưởng nhất định với cộng đồng, xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn có một số cá nhân, nhất là một số người nắm “quyền lực thông tin, quyền lực của con chữ” đã sử dụng tự do ngôn luận một cách tùy tiện, thậm chí lợi dụng để phá hoại an ninh tư tưởng và văn hóa. Thời gian qua, một số trí thức, nhà văn, luật sư... đã lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn, viết bài với nhiều kỹ năng cài cắm thông tin mập mờ, trộn lẫn đúng-sai nhằm mục đích xấu, thậm chí chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các hành động này không chỉ vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Nhà nước, danh dự của cá nhân lãnh đạo mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thông tin và sự ổn định, phát triển của xã hội.

Không phạm vào “lằn ranh đỏ” giữa tự do ngôn luận và kỷ luật phát ngôn
Có thể thấy, việc hạn chế phát ngôn bừa bãi, thông tin tùy tiện trên mạng xã hội là nhằm bảo vệ cộng đồng chứ không chỉ là việc xử lý, trừng phạt những cá nhân có phát ngôn sai trái, xuyên tạc. Những thông tin sai sự thật có thể dẫn đến hành vi lệch chuẩn trong đời sống xã hội. Phát ngôn gây thù ghét, phát ngôn kích động có thể dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật, hành vi bạo lực nhắm vào những nhóm đối tượng cụ thể, hành vi kỳ thị dân tộc, giới tính, xuất thân...

Để hiểu đúng và thực hiện tự do ngôn luận theo hiến pháp, pháp luật, trước hết cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong việc sử dụng quyền tự do ngôn luận. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ về an toàn an ninh trên môi trường số, trong đó nhấn mạnh đến giới hạn cần thiết của quyền tự do ngôn luận. Đồng thời cần có sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên mạng xã hội để thông tin sai sự thật, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa, chống phá Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc giám sát, phản biện những ý kiến, thông tin được truyền đạt trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Việc này không chỉ giúp làm rõ sự thật mà còn tạo ra một môi trường thông tin lành mạnh và đa chiều, đồng thời giúp ngăn chặn việc lợi dụng tự do ngôn luận để gây rối, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa.

Quan tâm xây dựng mạng lưới những người có ảnh hưởng trên mạng xã hội (KOLs) tham gia phòng, chống thông tin sai trái, phát ngôn gây thù ghét, những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận để bôi nhọ chế độ, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc... Những KOLs sẽ chủ động phát hiện, chủ động đấu tranh với thông tin sai trái, xấu độc; đồng thời lan tỏa những thông tin đúng đắn, tích cực đến cộng đồng.

Hiểu đúng tự do ngôn luận và phòng ngừa tự do phát ngôn tùy tiện gây tác hại đến an ninh tư tưởng-văn hóa là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Qua việc tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức công dân trong sử dụng tự do ngôn luận, cũng như áp dụng các biện pháp quản lý và giám sát hợp lý, chúng ta có thể tạo ra một môi trường truyền thông lành mạnh, an toàn, đồng thời bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ gìn chuẩn mực đạo đức xã hội.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, việc hiểu đúng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức, cũng như tuân thủ nghiêm túc kỷ luật phát ngôn ở mọi lúc, mọi nơi là việc làm thiết thực góp phần giữ vững môi trường thông tin xã hội lành mạnh; đồng thời cũng là một cách góp phần phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị./.
Môi trường ST.