Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: “ĐẤT NƯỚC TA CHƯA BAO GIỜ CÓ ĐƯỢC CƠ ĐỒ, TIỀM LỰC, VỊ THẾ VÀ UY TÍN QUỐC TẾ NHƯ NGÀY NAY”!

     Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người đầu tiên nhận định, được Đại hội Đảng lần thứ XIII thông qua và đưa vào Nghị quyết Đại hội: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa có bài viết về: “ĐẤT NƯỚC TA CHƯA BAO GIỜ CÓ ĐƯỢC CƠ ĐỒ, TIỀM LỰC, VỊ THẾ VÀ UY TÍN QUỐC TẾ NHƯ NGÀY NAY”. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Thủ tướng Phạm Minh Chính!
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, một tấm gương sáng ngời về học tập, làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hiện thân đầy đủ phẩm chất, tài năng, bản lĩnh, trí tuệ của thế hệ lãnh đạo Việt Nam thời kỳ đổi mới, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, có uy tín, tầm ảnh hưởng lớn cả trong và ngoài nước, đóng góp, cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta cũng như hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Trong niềm tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta bồi hồi nhớ lại và càng trân trọng tấm gương đạo đức sáng ngời, người có nhân cách lớn với tư duy lý luận sắc sảo, để lại những di sản lớn và đóng góp, cống hiến vô cùng to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là người đầu tiên nhận định, được Đại hội Đảng lần thứ XIII thông qua và đưa vào Nghị quyết Đại hội: "Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều giai đoạn cách mạng, nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trên cơ sở không ngừng phát triển và hoàn thiện lý luận, tổ chức thực hiện về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Đó là kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và kế thừa tinh hoa trí tuệ của nhân loại; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, được thể hiện rõ qua các Nghị quyết của Đảng qua các kỳ Đại hội, các Nghị quyết của Trung ương và được khái quát, hệ thống hóa trong những tác phẩm, công trình lý luận lớn của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đặc biệt là bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" nhân dịp kỷ niệm 131 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong suốt thời gian qua, cùng với mục tiêu kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta tập trung xây dựng, củng cố ba yếu tố nền tảng là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; với quan điểm xuyên suốt lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là động lực và là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển, không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Qua thực tiễn gần 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhờ sự vào cuộc quyết liệt và sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân ta trong triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được khẳng định bằng những kết quả cụ thể trên các lĩnh vực và cũng chính là những minh chứng sống động, thuyết phục cho tổng kết, đánh giá khái quát của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; tập trung thực hiện ba đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; chú trọng giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Đây cũng là định hướng chỉ đạo quan trọng được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh khi tham dự các Hội nghị Chính phủ với các địa phương triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) hằng năm từ năm 2017 đến năm 2023 và được thể hiện rõ trong các Kết luận của Trung ương về kinh tế - xã hội hằng năm. Chúng ta về cơ bản đã đạt được mong muốn của Đồng chí về kết quả năm sau phải cao hơn năm trước trên tất cả các lĩnh vực; trong đó nền kinh tế đã có những chuyển biến rõ nét với những thành tựu rất đáng tự hào, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là trong những năm gần đây khi chúng ta đối diện với tình hình khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi.

Sau gần 40 năm Đổi mới, từ một nước bị tàn phá sau nhiều cuộc chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, bị bao vây, cấm vận suốt 30 năm; Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD năm 2023, tăng gần 60 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô nền kinh tế đạt khoảng 430 tỷ USD năm 2023, đứng thứ 35 thế giới, tăng hơn 95 lần so với năm 1986. Nền tảng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Lạm phát được kiểm soát chỉ còn khoảng 4%/năm từ mức "phi mã" 3 con số của giai đoạn đầu Đổi mới. Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 đạt 681 tỷ USD; xuất siêu 8 năm liên tiếp; thuộc nhóm 20 nước có quy mô thương mại hàng đầu thế giới[1]. Từ nước thiếu hụt lương thực trầm trọng, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới; năm 2023 xuất khẩu trên 8,1 triệu tấn gạo, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu; nông sản Việt Nam đã có mặt tại hơn 160 quốc gia[2]. An ninh năng lượng, việc làm, cân đối cung cầu lao động được bảo đảm. Bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia được kiểm soát tốt; nợ công năm 2023 ở mức khoảng 37% GDP, thấp hơn nhiều giới hạn quy định.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; năm 2023, tỷ trọng khu vực nông nghiệp chỉ còn khoảng 12%. Chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế và đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức. Môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện; Việt Nam tiếp tục là điểm sáng trong thu hút đầu tư nước ngoài; năm 2023 thu hút được trên 39,4 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 23,2 tỷ USD, lọt vào nhóm 20 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI; lũy kế đến nay có 40,8 nghìn dự án đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký khoảng 487 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành một trung tâm sản xuất, nằm trong chuỗi cung ứng khu vực, toàn cầu của nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Samsung, LG, Intel, Apple, GE, Foxconn… Khu vực tư nhân được khuyến khích phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế với khoảng 900 nghìn doanh nghiệp hoạt động.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được ưu tiên nguồn lực và tập trung đầu tư, tạo đột phá cho phát triển, nhất là hạ tầng giao thông chiến lược, hạ tầng đô thị, hạ tầng năng lượng, hạ tầng viễn thông, hạ tầng giáo dục, y tế, ứng phó với biến đổi khí hậu; đến nay đã hoàn thành và đưa vào sử dụng trên 2.000 km đường cao tốc, phấn đấu đến năm 2025 đạt trên 3.000 km; đang triển khai mở rộng các sân bay Tân Sơn Nhất, Nội Bài, xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành với tổng công suất khi hoàn thành toàn bộ lên đến 100 triệu hành khách/năm, tổng vốn đầu tư hàng trăm nghìn tỷ đồng và xây dựng các cảng biển mang tầm khu vực, quốc tế cùng với hệ thống giao thông thuỷ nội địa; đồng thời đang tích cực chuẩn bị xây dựng, phê duyệt chủ trương phát triển hệ thống đường sắt tốc độ cao cho giai đoạn 2025 - 2030.
2. Đặc biệt quan tâm và luôn sâu sát chỉ đạo công tác đối ngoại, ngoại giao, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32 ngày 19/12/2023, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Đối ngoại và ngoại giao đã phát huy thế mới và lực mới, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, củng cố vững chắc hơn cục diện đối ngoại rộng mở, thuận lợi cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới". Trong suốt những năm qua, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, chúng ta đã luôn kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; là bạn tốt, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới; tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả và đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng; uy tín, vị thế của đất nước trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao.

Từ một nước bị bao vây, cấm vận kéo dài trong 30 năm, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 quốc gia, đặc biệt là quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 05 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và nhiều nước G20. Đảng ta đã có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng Cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính. Trong những năm gần đây, hầu hết nguyên thủ, lãnh đạo các nước lớn và các tổ chức quốc tế quan trọng, trong đó có Liên Hợp Quốc, đều đến thăm, làm việc và có ấn tượng tốt về đất nước, con người Việt Nam; đồng thời lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chuyến thăm thành công đến các nước, đối tác trên khắp các châu lục. Trong thời gian gần đây, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Tổng thống của 3 cường quốc lớn là Trung Quốc, Mỹ và Nga. Những nỗ lực này đã thúc đẩy mạnh mẽ đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, góp phần tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác chặt chẽ, hiệu quả trên các lĩnh vực, nhất là về giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, lao động, văn hóa, giao lưu nhân dân, giao lưu địa phương… Việt Nam được thế giới biết đến như là một đối tác tin cậy, điểm đến an toàn đối với đầu tư, du lịch quốc tế và là một thành viên có trách nhiệm trong việc góp phần giải quyết những vấn đề lớn của khu vực và thế giới.

Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia và đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách quốc tế; có nhiều đề xuất, sáng kiến được ghi nhận tại các cơ chế, khuôn khổ, diễn đàn đa phương, nhất là Liên Hợp Quốc, ASEAN và các đối tác; đóng góp tích cực vào xử lý các vấn đề mang tính khu vực và toàn cầu. Chuyển mạnh từ "tham gia tích cực" đến "đóng góp xây dựng, định hình luật chơi", Việt Nam đã từng bước nâng tầm tham gia thúc đẩy các tiến trình, các thể chế đa phương dựa trên mục tiêu chung là hòa bình, ổn định, an ninh và hợp tác phát triển, trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi giữa các bên liên quan. Ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; đã ký kết 16 hiệp định thương mại tự do với hơn 60 quốc gia, trong đó có nhiều nền kinh tế lớn. Công tác bảo hộ công dân, người Việt Nam ở nước ngoài[3], thông tin đối ngoại được triển khai bài bản, kịp thời, hiệu quả, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Những thành tựu nêu trên đã cho thấy vai trò tiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín quốc gia. Những thành tựu đó đã khẳng định tính đúng đắn của trường phái đối ngoại, ngoại giao "Cây tre Việt Nam: Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam" do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng, tập trung chỉ đạo và dày công vun đắp.
3. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá và lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình; thực hiện "chính sách quốc phòng bốn không" [4]; chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc; ưu tiên nguồn lực để củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và thế trận lòng dân vững chắc; tập trung xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo nội dung, tư duy mới, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân; tổ chức theo hướng tinh, gọn, mạnh. Chất lượng công tác phân tích, đánh giá, dự báo, tham mưu chiến lược ngày càng được nâng cao; đường lối, chiến lược về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong tình hình mới. Chủ động, sẵn sàng phương án, giải pháp ứng phó với diễn biến tình hình, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: "Trong mọi tình huống đều bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và Chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc".

Trong thời gian qua, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh được chú trọng và ngày càng phát triển theo hướng hiện đại, lưỡng dụng, làm chủ công nghệ chế tạo và sản xuất được nhiều loại vũ khí, trang bị, góp phần tích cực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hợp tác quân sự, quốc phòng, an ninh được đẩy mạnh, ngày càng thực chất, hiệu quả. Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, cứu hộ, cứu nạn ở nhiều quốc gia, khu vực, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Chính sách đối ngoại quốc phòng theo tư tưởng ngoại giao "Cây tre Việt Nam" là kế sách quan trọng, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy. Chúng ta cũng đã tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận về "đối tác", "đối tượng", góp phần xử lý hài hoà, phù hợp các vấn đề quốc tế liên quan.

Đồng thời, chúng ta đặc biệt chú trọng xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh. Đây là nhiệm vụ quan trọng được cả hệ thống chính trị và toàn dân đặc biệt quan tâm, đạt nhiều kết quả tích cực; trong đó, đã triển khai nhiều kế hoạch, giải pháp kiềm chế sự gia tăng và tấn công, trấn áp quyết liệt các loại tội phạm, nhất là tội phạm công nghệ cao, tội phạm mạng, tội phạm ma túy trên các tuyến, địa bàn trọng điểm. Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng triển khai các thành tựu tiên tiến của khoa học công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi trạng thái các mặt công tác phòng, chống tội phạm. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân tham gia công tác bảo vệ an ninh trật tự. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội là một trong những điểm sáng và là thế mạnh của Việt Nam trong một thế giới đầy biến động hiện nay. Việt Nam được xếp hạng tăng 4 bậc, lên vị trí 41/163 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng Chỉ số Hòa bình Toàn cầu năm 2023 về đánh giá mức độ yên bình quốc gia do Viện Kinh tế và Hòa bình (IEP, Australia) công bố.
4. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường được chú trọng, bảo đảm hài hoà với phát triển kinh tế và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Vai trò của văn hoá là nền tảng tinh thần, là nguồn lực nội sinh, là động lực đột phá cho phát triển đất nước được phát huy mạnh mẽ, nhất là sau Hội nghị văn hoá toàn quốc năm 2021 với Bài phát biểu quan trọng mang tầm định hướng chiến lược sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong đó Đồng chí đã nhấn mạnh lời dạy của Bác Hồ kính yêu "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi", đồng thời chỉ rõ "Văn hóa còn thì dân tộc còn", "Văn hóa là hồn cốt của dân tộc". Thực hiện quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhiều giá trị văn hoá truyền thống, di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn, tôn tạo, phát triển và được quốc tế công nhận, đánh giá cao; đến nay, Việt Nam có 68 di sản, danh hiệu được UNESCO ghi danh. Các thiết chế văn hóa không ngừng được đổi mới về nội dung, nâng cao về chất lượng, hiệu quả hoạt động. Xây dựng xã hội nhân văn, phát triển con người Việt Nam toàn diện, có nhân cách tốt, lối sống đẹp hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ được sự hưởng ứng tích cực của toàn xã hội; tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết, trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo đức xã hội ngày càng được phát huy và lan tỏa tích cực.

Chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng lên; mạng lưới cơ sở y tế phát triển rộng khắp; chủ động ứng phó thành công với nhiều dịch bệnh nguy hiểm. Đặc biệt, trong phòng, chống đại dịch COVID-19, Việt Nam đã "đi sau về trước" [5] với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, toàn thể Nhân dân và sự hỗ trợ, giúp đỡ hiệu quả của bạn bè quốc tế thông qua "Chiến lược ngoại giao vắc-xin". Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao; giáo dục, đào tạo tiếp tục được đổi mới toàn diện; hệ thống giáo dục quốc dân ngày càng hoàn thiện, tiệm cận với chuẩn mực quốc tế; chỉ số chất lượng đào tạo nghề thuộc nhóm nước dẫn đầu khu vực ASEAN; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 49,14% năm 2014 lên 68% năm 2023. Nhiều thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi; hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo được thúc đẩy và phát triển; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam xếp hạng 46/132 năm 2023, tăng 13 bậc so với năm 2016. Thực hiện nhất quán chủ trương không hi sinh tiến bộ, công bằng xã hội, môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần, Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050 tại COP26 và sớm tham gia Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng lên với tinh thần "không để ai bị bỏ lại phía sau". Các chính sách với người có công với cách mạng, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững được đặc biệt quan tâm; tỷ lệ hộ nghèo năm 2023 giảm còn 2,93% so với hơn 58% năm 1993. Việt Nam được thế giới ghi nhận, đánh giá cao và coi là hình mẫu thành công về xoá đói, giảm nghèo của các nước đang phát triển trong suốt 30 năm qua. Xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nâng cao chất lượng đời sống người dân ở nông thôn; đến cuối năm 2023 có hơn 78% số xã và 270 huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 93%, tiệm cận tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Việt Nam đã hoàn thành trước hạn nhiều chỉ tiêu trong Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và được Liên Hợp Quốc công nhận là một trong những nước đi đầu trong nỗ lực thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG). Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, phát huy vai trò người cao tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ... có những bước phát triển quan trọng; tuổi thọ trung bình của Việt Nam trong 30 năm qua tăng 9 tuổi, từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023; chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam được cải thiện rõ rệt, cao hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập; Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, từ vị trí 65 lên vị trí 54/143 quốc gia và vùng lãnh thổ.

5. Quán triệt quan điểm xây dựng Đảng là "then chốt", trong đó công tác cán bộ là "then chốt của then chốt", công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thời gian qua có nhiều chuyển biến rõ nét, hiệu quả dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí đã khẳng định "Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta". Tập trung xây dựng Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ với tinh thần "Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất", để Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh". Chúng ta đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đảng viên; xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, nhất là cán bộ cấp chiến lược. Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân được củng cố, tăng cường; niềm tin của Nhân dân với Đảng ngày càng được nâng lên trên cơ sở thực hiện đồng bộ, hiệu quả cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở tiếp tục được củng cố, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động; không ngừng phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên; qua đó góp phần củng cố, tăng cường sự ổn định chính trị - xã hội, tạo thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững.
Dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành mạnh mẽ, kiên quyết, kiên trì, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, liêm chính, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Đã đưa ra xét xử nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ. Đồng thời, tiếp tục tập trung xây dựng, hoàn thiện chủ trương, đường lối và thể chế, chính sách về phòng, chống tham nhũng gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các cơ quan hành chính nhà nước và toàn xã hội được đẩy mạnh. Tăng cường thông tin về cơ chế, chính sách, hoạt động quản lý, điều hành trên cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức nắm bắt và giám sát. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, công cuộc phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh góp phần khẳng định vai trò, củng cố uy tín của Đảng, Nhà nước và giữ vững niềm tin trong Nhân dân, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng của Việt Nam tăng 40 bậc, từ xếp thứ 123 vào năm 2012 lên thứ 83/180 quốc gia, vùng lãnh thổ vào năm 2023.

6. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: "Trong bất luận hoàn cảnh nào, phải kiên định lập trường tư tưởng, luôn giữ vững mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng ta trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống luật pháp của nước ta". Trong những năm qua, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đạt nhiều kết quả quan trọng và tiếp tục được hoàn thiện về cơ sở lý luận trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm thực tiễn. Đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế được đặc biệt chú trọng; hệ thống pháp luật được thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, trong đó có nhiều đạo luật mang tính nền tảng như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp… Tập trung xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo phát triển, vì Nhân dân phục vụ gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đã giảm từ 27 bộ, cơ quan ngang bộ (giai đoạn 1992 - 1997) xuống còn 22 bộ, cơ quan ngang bộ hiện nay. Phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh gắn với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi của cấp dưới và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Cải cách chế độ công vụ, cải cách tài chính công có nhiều chuyển biến tích cực; tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Cải cách hành chính, nhất là đơn giản hoá, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh được đẩy mạnh, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tạo mọi thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công", toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta luôn đặc biệt chú trọng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn kết chặt chẽ giữa đoàn kết trong nước với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại - coi đây là yếu tố nền tảng đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng, phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, góp phần tạo đồng thuận xã hội; đẩy mạnh các hoạt động giám sát, phản biện xã hội gắn với tăng cường công khai, minh bạch; chú trọng tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố, tăng cường; quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của Nhân dân ngày càng được phát huy, đi vào thực chất, hiệu quả, nhất là trong tham gia, quyết định những vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước và những cơ chế, chính sách liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ ta.

*

* *

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta trong gần bốn thập kỷ vừa qua khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới, hội nhập và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, gắn liền với những đóng góp to lớn của các thế hệ lãnh đạo tiền bối, trong đó có vai trò quan trọng, dấu ấn nổi bật của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí đã để lại tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, cống hiến hết sức mình vì sự nghiệp cách mạng của Đảng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Hàng trăm nghìn người dân Việt Nam, hàng trăm đoàn khách quốc tế đã trực tiếp đến viếng, tiễn đưa; hàng nghìn đoàn các nước, hàng chục nghìn người nước ngoài đã đến viếng tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; hàng trăm quốc gia, tổ chức quốc tế đã gửi lời chia buồn; hàng triệu, triệu người dân Việt Nam từ mọi độ tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nhất là thế hệ trẻ bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những hình ảnh đó đã thể hiện tình cảm trân trọng, sự gắn bó sâu sắc của đồng bào, chiến sỹ cả nước, người Việt Nam ở nước ngoài cũng như bạn bè quốc tế về tầm vóc của một Nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta [6]; đồng thời cũng thể hiện niềm tin son sắt của Nhân dân đối với Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, đất nước Việt Nam văn hiến, văn minh và anh hùng.

Kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, hội nhập và phát triển; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, sức sáng tạo, ý chí và khát vọng của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại; chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, đất nước ta nhất định sẽ phát triển ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, Nhân dân ta nhất định sẽ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn, như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong đợi và các thế hệ đi trước, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tận tâm, tận lực phấn đấu và trọn đời cống hiến.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mãi mãi thuộc về Tổ quốc ta, Nhân dân ta và sự nghiệp đổi mới của đất nước ta. Tiếp nối những nỗ lực, đóng góp, cống hiến và noi theo tấm gương sáng của Đồng chí, các thế hệ hôm nay và mai sau hãy phát huy hơn nữa tinh thần đoàn kết "Tiền hô hậu ủng", "Nhất hô bá ứng", "Trên dưới đồng lòng", "Dọc ngang thông suốt" và những thành tựu đã đạt được, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giữ vững và phát huy hơn nữa cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ta vững bước trên con đường phát triển nhanh và bền vững./.

Phạm Minh Chính

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ

[1] Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2022 đạt 732 tỷ USD; bước vào năm 2024, xuất khập khẩu phục hồi mạnh mặc dù gặp nhiều khó khăn, trong 6 tháng đầu năm đạt mức kỷ lục 368,5 tỷ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2023.

[2] Năm 2023 kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt hơn 53 tỷ USD; trong 7 tháng đầu năm 2024 đạt trên 34 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ.

[3] Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện có khoảng 6 triệu người.

[4] "Chính sách quốc phòng bốn không" gồm: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

[5] Theo đánh giá của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2022, triển khai nhiệm vụ năm 2023 của Chính phủ với các địa phương.

[6] Qua đó một lần nữa chứng minh lời khẳng định của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: "Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".





Yêu nước ST.

Đánh giá cán bộ, công chức phải gắn với tiền lương

Thực hiện cải cách tiền lương, trả lương theo việc làm phải gắn với tinh giản biên chế, đánh giá cán bộ, công chức. Hiện nay, chúng ta chủ yếu đánh giá cán bộ công chức gắn với tiền thưởng, nhưng quan trọng là đánh giá phải gắn với tiền lương. Có như vậy cải cách tiền lương mới có chiều sâu và thực sự thành công. Còn nếu không đánh giá lại chất lượng cán bộ công chức thì tăng lương, dù tăng thấp cũng là vô nghĩa.

Tiền lương thấp, không đủ sống, cơ chế trả lương cào bằng

Về vấn đề cải cách tiền lương, ông Phạm Minh Huân, nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, đây là lần cải cách tiền lương thứ 5, sau 4 lần cải cách vào các năm: 1960, 1985, 1993 và năm 2003.

Nhìn tổng thể về chính sách tiền lương hiện nay, có thể thấy thành công lớn nhất là góp phần ổn định được kinh tế vĩ mô, hài hòa mối quan hệ giữa phân phối - tiêu dùng, "cái bánh" ngân sách chia cho đầu tư phát triển, trả nợ và dự phòng, chứ không chỉ để dành chi thường xuyên (trong đó có trả lương).

Nhưng chính sách tiền lương hiện hành đang tồn tại những hạn chế, bất cập. Trước hết phải nói lương thấp, không bảo đảm nhu cầu sống cơ bản. Cơ chế lương cào bằng, bình quân, không công bằng khi người làm tốt và người không làm tốt đều trả như nhau dẫn đến triệt tiêu động lực lao động, ông Phạm Minh Huân nêu quan điểm.

Theo ông, về mặt khoa học, phải tổ chức bộ máy sao cho tinh gọn, nhưng thực tế vẫn còn cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả. Tỷ lệ cán bộ công chức không đáp ứng được yêu cầu công việc còn cao. Đây là lực cản lớn.

Bên cạnh đó, thiết kế hệ thống lương hơi phức tạp, chỉ phù hợp với giai đoạn những năm 1993, nhưng kéo dài mấy chục năm lại lỗi thời.

Mặt khác, cơ chế trả lương thiếu sự đánh giá gắn với kết quả làm việc. Cho nên dẫn đến hiện tượng "sáng cắp ô đi, tối vác về", cứ "bình chân như vại", khác với khu vực thị trường, trả lương dựa vào kết quả làm việc. Vì thế, khi khu vực thị trường phát triển mạnh, nhiều người giỏi sẽ rời khỏi khu vực công.

Cải cách tiền lương là "không còn đường lùi"

Nêu quan điểm về lộ trình thực hiện cải cách tiền lương từ ngày 1-7-2024 và trả lương theo vị trí việc làm, ông Phạm Minh Huân đánh giá cao quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước về cải cách tiền lương.

Theo ông việc cải cách tiền lương là "không còn đường lùi, chúng ta không thể kéo dài chế độ tiền lương như hiện nay". Quyết tâm đó thể hiện trước hết là việc bố trí nguồn tiền cải cách tiền lương.

Ông Huân cho biết, trong các lần cải cách tiền lương trước, đây là vấn đề khó khăn nhất. Tuy nhiên lần này Chính phủ đã tích lũy, tiết kiệm được một nguồn lực đáng kể để thực hiện cải cách tiền lương.

Nội dung cụ thể đã được thể hiện trong Nghị quyết số 27-NQ/TW năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.

 Cải cách tiền lương từ 1-7-2024 là phù hợp

Ông Phạm Minh Huân cho rằng chọn mốc 1-7-2024 để thực hiện cải cách tiền lương là phù hợp. Từ tháng 7 năm 2024 sẽ thực hiện trả lương theo vị trí việc làm thay vì định biên như trước đây vốn có nhiều bất cập.

Thí dụ, một cơ quan nhà nước năm nay định biên 200 người, năm sau tăng lên 20 người nhưng cơ sở cho việc tăng không có hoặc không rõ.

Theo ông Phạm Minh Huân, trả lương theo vị trí việc làm cũng phải xuất phát từ việc rồi mới phân người, chứ không phải từ người mới phân việc.

Cần xác định lại trong một bộ có bao nhiêu vụ, một vụ có bao nhiêu việc, một việc cần bao nhiêu người, rồi từ đó sắp xếp lại nhân sự, cắt giảm, điều chuyển sao cho đúng vị trí việc làm. Mô hình này nhiều nước vận hành rất tốt.

Đánh giá cán bộ, công chức phải gắn với tiền lương

Do đó, phải xác định rõ, thực hiện trả lương theo vị trí việc làm bản chất là tinh giản biên chế, thậm chí phải thu hút người tài vào bộ máy để thay đổi. Cùng với đó, cần gắn trả lương với cơ chế đánh giá cán bộ, công thức.

Việc này rất khó, một công chức lương cơ bản đang cao giờ làm không tốt bị giảm lương dễ dẫn đến bất bình, kiện tụng. Nhưng khó cũng phải quyết tâm làm, phải xây dựng được một phương thức đánh giá và thực hiện việc đó.

Xếp lương chỉ là ban đầu, sau này trả lương gắn với hiệu quả công việc, mức độ đóng góp. Làm việc kém phải giảm lương, làm tốt phải tăng lương.

Theo ông Phạm Minh Huân, hiện nay, chúng ta chủ yếu đánh giá cán bộ công chức gắn với tiền thưởng, nhưng quan trọng là đánh giá, phải gắn với tiền lương, như vậy cải cách tiền lương mới có chiều sâu và thực sự thành công.

"Nếu không làm được việc này thì không thể giữ được người giỏi chứ đừng nói đến thu hút người tài vào bộ máy", ông Phạm Minh Huân nhấn mạnh.

Không đánh giá được cán bộ, công chức thì tăng lương vô nghĩa

Theo ông Phạm Minh Huân, "chưa cần nói đến chuyện tăng nguồn trả lương, mà chỉ cần tinh giản biên chế, có những cơ quan có thể tinh giản một nửa biên chế thì riêng tiền để trả lương đã tăng gấp đôi".

Người đứng đầu phải chịu trách nhiệm làm việc này và khi tinh giản phải giữ nguyên quỹ lương cho cơ quan đó để có động lực. Nếu chưa làm ngay được tất cả thì tạo ra mô hình để từ đó nhân rộng.

Theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, lương cơ sở và hệ số lương như hiện nay sẽ bị bãi bỏ, thay vào đó là các bảng lương mới phản ánh đúng năng lực thực chất và khả năng đáp ứng công việc của cán bộ công chức, viên chức...

Chính sách tiền lương mới sẽ thiết kế cơ cấu tiền lương mới gồm: lương cơ bản (chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương) và các khoản phụ cấp (chiếm khoảng 30% tổng quỹ lương). Bổ sung tiền thưởng (quỹ tiền thưởng bằng khoảng 10% tổng quỹ tiền lương của năm, không bao gồm phụ cấp). Như vậy, khu vực hành chính cũng có tiền thưởng.

Ông Phạm Minh Huân cho rằng, có một bài toán nữa là phải mở rộng quan hệ tiền lương, nhưng mở là bao nhiêu? Hiện nay, thấp nhất là người lao động hưởng lương cơ sở, cao dần lên cho đến cao nhất là lương Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội...

Quan hệ này có các mốc, thí dụ lương cơ sở là 1, hệ số lương người tốt nghiệp đại học ra trường là 2,34 (hệ số nhân với mức lương cơ sở hiện nay), hệ số lương của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có 2 bậc là 9,7 và 10,3.

"Năm 1993, khi chúng tôi làm cải cách tiền lương, Bộ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội Trần Đình Hoan lúc bấy giờ chỉ ước ao đến năm 2000 lương Bộ trưởng được 1.000 USD mỗi tháng. Đến nay lương Bộ trưởng còn xa mức 1.000 USD", ông Phạm Minh Huân chia sẻ.

Vấn đề là nếu mức lương của người cao nhất không tăng lên thì ở dưới cũng không tăng được, không mở thì sẽ sít lại với nhau. Trong thiết kế lương theo hình chóp, người hưởng lương cao nhất không quan trọng vì là số rất ít, nhưng người hưởng lương trung bình mới quan trọng vì chiếm đa số ở dưới.

Người mới ra trường có hệ số là 2,34 hiện nhận mức lương hơn 4 triệu đồng, trong khi mức lương trung bình của thị trường là 7 triệu đồng, mới chỉ gần bằng một nửa. Bây giờ làm sao nâng lên 7 triệu?

Ông Phạm Minh Huân cho rằng làm công chức không giàu được nhưng phải bảo đảm sống được bằng lương, ở mức trung bình khá thì bộ máy mới trong sạch. Phải thay đổi cơ chế quản lý tiền lương.

Nếu vấn đề tổ chức hệ thống biên chế tốt rồi thì chúng ta đưa hệ thống lương mới vào, còn nếu chưa tốt mà đưa vào cũng không nhiều tác dụng. Nếu không đánh giá lại chất lượng cán bộ công chức thì tăng lương, dù tăng thấp cũng là vô nghĩa.

Khu vực công thì làm từng bước, còn đối với khu vực sự nghiệp phải mạnh mẽ thay đổi, phân loại, nếu đủ điều kiện chuyển dần sang cơ chế tự chủ. Bác sĩ thì để cho người bệnh trả lương, giáo viên thì để người học trả lương...

Trả lương đúng là một sự đầu tư cho phát triển

Ông Phạm Minh Huân nhấn mạnh: Lương phải thiết kế sao cho người nào có năng lực, có cống hiền nhiều thì nhanh chóng được lên ngạch lương cao hơn, vị trí công việc cao hơn. Về thiết kế thì có nhưng chúng ta chưa làm được việc đó.

Hiện nay cứ tuần tự như tiến, chuyên viên phải mất thời gian để tiến gần rồi sau đó lên chuyên viên chính, thậm chí có trường hợp chuyên viên làm việc của chuyên viên chính, chuyên viên chính làm việc của chuyên viên cao cấp, còn chuyên viên cao cấp thì làm việc ít nhưng hưởng lương cao nhất, chưa kể có chuyện cho người sắp về hưu lên chuyên viên cao cấp nhưng không làm việc của chuyên viên cao cấp.

Thiết kế, tổ chức kiểu này phải thay đổi lại, lương phải trả đúng người, đúng việc, tăng giảm phải căn cứ vào kết quả công việc. Trả lương đúng là một sự đầu tư cho phát triển. Kinh tế phát triển mới làm "cái bánh" ngân sách to lên được. Nếu "bánh" không to, thì lương như cái chăn quá hẹp, người này ấm thì kẻ khác lạnh.

Ông Huân cho biết, trước đây, mỗi lần tăng lương, vì ngân sách eo hẹp tôi chứng kiến Bộ Tài chính "than": Tăng lương lên thì những thứ khác phải giảm xuống. Chúng tôi từng tính cứ tăng 10.000 đồng tiền lương cơ sở thì quỹ lương tăng khoảng 50.000 tỷ đồng đến 60.000 tỷ đồng. Đó là một con số khổng lồ gây áp lực rất lớn lên ngân khố quốc gia. Nguồn lực tiền lương khác với các chính sách khác, khi đã đưa vào gốc rồi thì năm sau phải đắp lên, đây là vấn đề không đơn giản.

Bồi đắp tri thức qua sách, báo

 

Với niềm đam mê đọc sách, báo tìm hiểu tri thức nhân loại, mỗi cuốn sách trang báo trở thành người bạn đồng hành thân thiết của giảng viên, học viên Trường Sĩ quan Chính trị.

Mở rộng kênh đánh giá cán bộ

 

Đánh giá cán bộ là khâu quan trọng nhất, nhưng cũng là phần việc khó và đang là khâu yếu ở nhiều tổ chức đảng. Với quyết tâm cao và tinh thần đổi mới, từ đầu nhiệm kỳ 2020-2025 đến nay, một số đảng bộ địa phương đã ban hành các giải pháp đột phá nhằm đánh giá cán bộ cụ thể, thực chất.

Từ tháng 1-2022 đến nay, đều đặn hằng tuần, hằng tháng, cán bộ, công chức, viên chức (CB, CC, VC), lao động hợp đồng trong toàn hệ thống chính trị TP Hà Nội phải cập nhật các đầu việc đang thực hiện và tiến độ triển khai lên phần mềm đánh giá điện tử. Một nội dung không thể thiếu là cam kết hoàn thành nhiệm vụ theo đúng tiến độ đã đăng ký trên phần mềm và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính là căn cứ đánh giá cán bộ hằng tháng. Từ kết quả cập nhật trên phần mềm và xem xét lại toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ trong tháng của CB, CC, VC, người lao động, lãnh đạo phòng, ban xem xét, quyết định kết quả đánh giá cuối cùng.

Trước đây, việc đánh giá cán bộ thực hiện thông qua hình thức hội nghị vừa mất thời gian, lại phải chuẩn bị nhiều loại văn bản, giấy tờ, phiếu bình bầu. Mặt khác, khi tham gia hội nghị tập trung, các thành viên thường đưa ra quyết định có xu hướng thiên vị, nể nang hoặc áp đặt, cảm tính khi đánh giá cán bộ. Bởi vậy, đánh giá cán bộ hằng tháng qua phần mềm điện tử là bước cụ thể hóa quyết tâm đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội.

Ngoài việc đánh giá bằng phần mềm, TP Hà Nội cũng tính đến yếu tố đặc thù từng công việc để bảo đảm việc đánh giá cán bộ hằng tháng đạt độ chính xác cao. Đơn cử như tại bộ phận một cửa từ cấp quận, huyện, thị xã đến xã, phường, thị trấn luôn có một thiết bị điện tử hiển thị thông tin của CB, CC, VC. Sau khi người dân thực hiện xong các thủ tục hành chính sẽ đánh giá mức độ hài lòng về thái độ phục vụ, chất lượng giải quyết công việc của CB, CC, VC đó.

Quyết liệt đổi mới công tác đánh giá cán bộ cũng là quyết tâm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình từ đầu nhiệm kỳ 2020-2025 đến nay. Đồng chí Nguyễn Quốc Toản, Phó trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Ninh Bình cho biết, bám sát các quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác nhận xét, đánh giá cán bộ, Tỉnh ủy Ninh Bình đã ban hành quy định về tiêu chí đánh giá và xếp loại cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý theo hình thức lượng hóa bằng điểm số với thang điểm 100. 

Để làm được điều đó, quan điểm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình là đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền trong đánh giá cán bộ theo phương châm “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm”, có nghĩa là ai giao việc thì người đó đánh giá. Ví như, đối với các đồng chí Thường trực Huyện ủy sẽ do Ban Thường vụ Tỉnh ủy đánh giá; còn lại các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện ủy, các phó chủ tịch UBND, HĐND huyện sẽ do Ban Thường vụ Huyện ủy đánh giá và báo cáo kết quả về Ban Thường vụ Tỉnh ủy... Ngoài ra, Ninh Bình còn triển khai nhiều cách thức mới trong đánh giá cán bộ. Ví như tại huyện Kim Sơn và TP Ninh Bình thực hiện chấm điểm cán bộ hằng tháng và đến cuối năm sẽ tổng hợp lại, làm căn cứ để nhận xét, đánh giá cán bộ. Hay như tại bộ phận một cửa ở tất cả UBND các xã, phường, thị trấn trong tỉnh đều lắp đặt camera giám sát và thiết bị đánh giá mức độ hài lòng của người dân khi thực hiện thủ tục hành chính... Công chức xã, phường, thị trấn có hành vi chưa chuẩn mực, thái độ phục vụ chưa tốt; hoặc người dân phản ánh, khiếu nại không đúng bản chất sự việc đều được camera giám sát ghi lại và lưu trữ trên hệ thống, làm căn cứ để đối chiếu. Nhờ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, việc đánh giá cán bộ được sát thực, đa chiều hơn so với trước đây.

Tỉnh Hậu Giang cũng là một trong những địa phương có nhiều chủ trương, giải pháp quyết liệt để nâng cao chất lượng đánh giá cán bộ; đặc biệt là việc ban hành và thực hiện Quy định số 1120-QĐ/TU ngày 1-6-2022 ban hành bộ tiêu chí đánh giá, xếp loại chất lượng CB, CC, VC, người lao động trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Theo đồng chí Nguyễn Thanh Thuấn, Phó trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hậu Giang, đây là lần đầu tiên Hậu Giang ban hành một bộ tiêu chí đánh giá cán bộ rất cụ thể; các tiêu chí đánh giá đã lượng hóa kết quả thực hiện nhiệm vụ của từng cá nhân. Với thang điểm 100, một trong những tiêu chí để xếp loại CB, CC, VC, người lao động (bao gồm cả cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý) hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong năm là phải có tổng số từ trên 90 đến 100 điểm. Nhưng để đạt được mức xếp loại này, điều kiện cần và đủ là không bị “điểm liệt”, có nghĩa là không có tiêu chí nào bị 0 điểm và phải đạt hiệu quả cao đối với một số tiêu chí nhất định.

Theo tinh thần đó, việc đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ hằng năm phải căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ, thể hiện thông qua công việc, sản phẩm cụ thể; chất lượng sản phẩm, tiến độ và thái độ hoàn thành công việc. Đối với CB, CC, VC lãnh đạo, quản lý phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình. Kết quả đánh giá, xếp loại chất lượng CB, CC, VC được sử dụng làm cơ sở để liên thông trong đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên; là cơ sở đánh giá, xếp loại chất lượng tập thể và ngược lại.

Cùng với những kết quả đạt được, nhiều ý kiến của CB, CC, VC tại các địa phương được khảo sát cho rằng: Ngoài những tiêu chí chung để đánh giá cán bộ theo quy định của Trung ương thì mỗi cấp, ngành, địa phương cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ phù hợp với đặc thù hoạt động và đối tượng cán bộ. Bộ tiêu chí đánh giá này cần quy định cụ thể những điểm cộng, điểm trừ ở một số tiêu chí nhất định như: Mức độ hoàn thành nhiệm vụ, số lần hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn; số việc khó, việc đột xuất đã giải quyết trong năm; số lần được biểu dương, khen thưởng; số lần và mức độ sai phạm, khuyết điểm; số lần bị phê bình, nhắc nhở... Quy định về điểm cộng, điểm trừ trong các tiêu chí đánh giá càng cụ thể thì càng dễ triển khai thực hiện, làm căn cứ đánh giá cán bộ.

Thu hút đầu tư cải tạo, nâng cấp chung cư cũ

 

TP Hồ Chí Minh hiện nay còn nhiều chung cư cũ, xuống cấp, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống người dân và làm mất mỹ quan đô thị. Theo kế hoạch, thành phố phấn đấu đến năm 2025 sẽ cải tạo, sửa chữa, nâng cấp hơn 200 chung cư cũ.

“PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI - NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI THỦ ĐOẠN MỚI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

 


Gần 80 năm ra đời, chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện luôn chứng tỏ là lực lượng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Để Quân đội luôn mang trong mình đầy đủ những phẩm chất cao quý ấy, trở thành đội quân “bách chiến, bách thắng” trong thời đại Hồ Chí Minh, phải khẳng định rằng một nhân tố quan trọng hàng đầu và quyết định là Đảng lãnh đạo “Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội.  

Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức công kích, phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội nhân dân. Chúng đủ kiểu lập luận trơ tráo hòng đòi bỏ Điều 65, Chương IV, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 (sửa đổi), quy định: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước; có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”; đòi phải sửa một nội dung đặc biệt quan trọng trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân”. Điều đó càng khẳng định rằng, mưu đồ “Phi chính trị hóa” của các thế lực thù địch là rất rõ ràng và thâm độc, bởi lẽ xóa bỏ những nội dung nêu trên trong Hiến pháp và Văn kiện của Đảng cũng chính là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, trong đó có Quân đội. Cần nhận thức đúng đắn, sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội là không thể phân chia cho bất kỳ ai hay lực lượng, tổ chức chính trị nào khác; là nguyên tắc bất biến, nhất quán và xuyên suốt trong tiến trình cách mạng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi, bảo đảm cho Quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân và ngày càng trưởng thành, lớn mạnh, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trước dân tộc.

Không ngừng phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.

Hiếm có một quân đội nào lại có một danh xưng gần gũi, thân thương và cao quý như Quân đội nhân dân Việt Nam: “Bộ đội Cụ Hồ”. Danh xưng-danh hiệu cao quý này không phải tự nhiên mà có, đó là kết quả suốt quá trình Đảng lãnh đạo, chăm lo giáo dục, rèn luyện Quân đội và sự nỗ lực không ngừng của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh mới có được, trở thành giá trị văn hóa quân sự đặc sắc, tiêu biểu trong thời đại Hồ Chí Minh.  

Thế nhưng có một thực tế là, chưa bao giờ chúng ta thấy các thế lực thù địch lại công khai tấn công chống phá trực diện vào giá trị cốt lõi của Quân đội ta như trong thời điểm hiện nay. Mặt khác, việc giữ gìn và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của mỗi cán bộ, chiến sĩ hiện cũng đang đứng trước những thách thức không nhỏ của mặt trái nền kinh tế thị trường; lối sống thực dụng, tư tưởng so bì hơn thiệt giữa môi trường Quân đội với xã hội bên ngoài; tâm lý hưởng thụ, ngại cống hiến, lười phấn đấu đã len lỏi vào trong suy nghĩ của quân nhân; đã có số ít cán bộ, chiến sĩ chưa nhận thức đầy đủ, thiếu tự giác, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện, thậm chí sa vào chủ nghĩa cá nhân, băn khoăn dao động trước diễn biến phức tạp của tình hình…

 Nghị quyết 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về “Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới” đã thẳng thắn đánh giá đúng thực trạng, xác định rõ chủ trương, biện pháp lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và cấp ủy các cấp trong toàn quân việc gìn giữ và phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”. Hơn lúc nào hết, chủ động chăm lo xây dựng tổ chức, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và trình độ sẵn sàng chiến đấu của Quân đội. Đó giống như quá trình tạo cho một “cơ thể” khỏe mạnh, sức đề kháng cao để Quân đội luôn tự miễn dịch với mọi loại “vi rút” nguy hại.

Thực tiễn trong những năm gần đây, phẩm chất, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn tiếp tục được tỏa sáng ở mọi lúc, mọi nơi và trên mọi lĩnh vực. Giữa thời bình, cùng với thường xuyên chăm lo rèn cán, luyện binh, Bộ đội Cụ Hồ cũng luôn tích cực, chủ động đến với dân, giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, dịch bệnh… Biết bao cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, gắn bó phần lớn tuổi thanh xuân của mình ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; nhiều cán bộ, chiến sĩ đã dũng cảm hy sinh để bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. Đặc biệt, trong hơn hai năm xảy ra đại dịch Covid-19, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trong toàn quân đã không quản hiểm nguy lao vào các vùng tâm dịch để bảo vệ, giúp đỡ nhân dân, trở thành điểm tựa vững chắc của nhân dân trước họa đại dịch. Với cán bộ, chiến sỹ LLVT Quân khu 3, những tấm gương bình dị mà cao quý vẫn thường xuyên xuất hiện cả trong công tác và cuộc sống đời thường, như Thượng úy QNCN Ngô Văn Thứ, nhân viên bếp ăn thuộc Văn phòng Bộ CHQS tỉnh Hà Nam dũng cảm cứu người bị đuối nước năm 2021; mới nhất đầu tháng 01 năm 2023 vừa qua, 03 chiến sĩ Trinh sát cũng ở Bộ CHQS tỉnh Hà Nam chỉ với tay không nhưng đã dũng cảm vây bắt gọn tên cướp nguy hiểm giữa đường phố; nhiều tấm gương về hành động đẹp khi nhặt được của rơi trả lại người đánh mất, kịp thời cứu người bị nạn… của cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị trong LLVT Quân khu vẫn lan tỏa trong xã hội. Đó là những hành động, việc làm rất đỗi bình dị của người chiến sĩ Quân đội nhân dân, song lại tỏa sáng một phẩm chất cao quý: “Bộ đội Cụ Hồ”- Bộ đội của dân, do dân, và vì nhân dân!

Lực lượng nòng cốt xây dựng “Thế trận lòng dân” trên không gian mạng.

Không gian mạng là môi trường rộng lớn và không phân định rõ ràng biên giới giữa các quốc gia. Đặc biệt, các nền tảng kết nối cộng đồng như Facebook, Zalo, Youtube, Twitter, Tiktok, Google… luôn đa dạng nội dung truyền tải, hấp dẫn hình thức thể hiện, tự do trong cách thức biểu đạt, lại tiếp cận nhanh chóng và có tính tương tác cao. Từ tính ưu việt không thể phủ nhận này, các thế lực thù địch lại tận dụng triệt để nó để trở thành công cụ, phương tiện truyền tải thông tin phản khoa học, sai sự thật, mang đậm ý chí chủ quan nhằm xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta.  

Trên cơ sở dự báo khoa học và nghiên cứu những bài học thực tiễn từ các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng cam”, “mùa xuân Ả Rập” đã từng xảy ra ở một số quốc gia trên thế giới, với tầm nhìn chiến lược, Đảng, Nhà nước ta đã có những quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời. Ngày 25/7/2018, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ-TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”; tiếp đó, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 35-NQ-TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết 35 nêu rõ: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân”, trong đó Đảng xác định Quân đội và Công an là lực lượng nòng cốt, đi đầu trên mặt trận đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Bám sát các nghị quyết lãnh đạo của Đảng và tình hình thực tiễn đất nước, Quân đội đã nêu cao tinh thần chủ động trước một nhiệm vụ mới, đặc biệt quan trọng trong thời bình. Từ năm 2018, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã tập trung xây dựng được một lực lượng chiến đấu tinh nhuệ trên không mạng, đó là thành lập Bộ Tư lệnh tác chiến không gian mạng; đầu tư mua sắm và tự nghiên cứu sản xuất ra nhiều trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác này; chủ động nghiên cứu các phương thức tác chiến hiệu quả trên không gian mạng để phòng ngừa, ngăn chặn và chiến đấu thắng lợi trước mọi tình huống xấu, mọi thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt của kẻ thù. Quân đội cũng làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trong toàn quân tích cực, chủ động tham gia đấu tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực thù địch trên không gian mạng bằng nhiều hình thức, biện pháp sáng tạo, hiệu quả, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị- xã hội tham gia, tạo ra một thế trận đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng một cách chặt chẽ, nhiều tầng, nhiều lớp. Đồng thời, Quân đội cũng phối hợp chặt chẽ với các lực lượng thường xuyên lan tỏa những thông tin tích cực của mọi mặt đời sống xã hội trên không gian mạng, vừa tăng cường xây dựng củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội, vừa tích cực tham gia xây dựng một môi trường không gian mạng ngày càng trong sạch, lành mạnh.

Nhân dân một lòng đi theo Đảng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo; mối quan hệ Đảng- Nhân dân- Quân đội ngày càng gắn bó mật thiết. Đó là thế vững của đất nước. Trong thế vững ấy có vai trò đặc biệt quan trọng của Quân đội trong tham gia xây dựng “Thế trận lòng dân” trên không gian mạng, trở thành sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “từ sớm, từ xa”.   

Lương tăng, giá cả vẫn ổn định

 

Đã gần một tháng kể từ kỳ tăng lương ngày 1-7, hiện giá cả hàng hóa, thực phẩm nhìn chung vẫn ổn định. Đây là kết quả của việc chủ động thực hiện các biện pháp kiểm soát lạm phát, bình ổn giá.

Nỗ lực an cư cho người lao động

 

Mấy ngày nay, gia đình chị Trần Thị Lan, công nhân Khu Công nghệ cao TP Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh) tất bật lo thủ tục, giấy tờ để đủ tiêu chí thuê nhà tại dự án nhà lưu trú công nhân phường Thạnh Mỹ Lợi, TP Thủ Đức.

Ai không làm, đứng sang một bên

 

“Ai không làm thì đứng sang một bên cho người khác làm” là thông điệp thép nhiều lần được các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước truyền đi với quyết tâm mạnh mẽ tuyên chiến với thái độ làm việc bàng quan, vô cảm, né tránh, đùn đẩy, vô trách nhiệm trong thực thi công vụ.

Cán bộ phải biết trọng liêm sỉ, giữ danh dự       

Nói về nguyên nhân dẫn đến sự né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm, có luồng ý kiến cho rằng, thời gian gần đây, nhiều sai phạm trong thực thi công vụ bị xử lý đã tác động mạnh đến tư tưởng cán bộ, đảng viên dẫn đến tâm lý sợ sai, không dám làm. Cách hiểu sai lệch bản chất của vấn đề này cũng từ đây mà xuất hiện khi một số người cho rằng, có những sai phạm là do lỗ hổng của cơ chế, chính sách mà ra.

Không thể không thừa nhận rằng, cơ chế, chính sách của chúng ta có chỗ còn chưa hoàn thiện, chưa theo kịp diễn biến thực tiễn. Thế nhưng bản chất của các sai phạm thường không nằm ở cơ chế, chính sách mà hầu hết là do bản thân những người thực thi công vụ đã tìm mọi cách để trục lợi từ những kẽ hở trong cơ chế, chính sách. Không thể đổ lỗi cho cơ chế, chính sách, mà lỗi chủ quan của chính những cán bộ sai phạm do suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, thiếu liêm sỉ và coi rẻ danh dự của bản thân mình. 

Sự ngụy biện đổ lỗi cho cơ chế, chính sách, thiếu hành lang pháp lý chỉ là cái cớ để che đậy sự vô trách nhiệm, co cụm, cầu an, sợ sai đến mức tiêu cực, có việc mà không dám làm ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, tình trạng báo động khẩn cấp trước vấn nạn làm việc cầm chừng, bàng quan, vô trách nhiệm, ngay cả khi đất nước ở trong hoàn cảnh “nước sôi lửa bỏng” đang rất cần cán bộ phải làm nhanh, làm thật. Đó là tình cảnh bệnh nhân mòn mỏi, hoang mang vì thiếu trầm trọng thuốc chữa bệnh; là những công trình hàng nghìn tỷ đồng nằm đắp chiếu; là nguồn vốn đầu tư công ứ đọng không thể giải ngân; là những thủ tục hành chính vô cùng rối rắm, ì ạch… đã khiến cho hàng loạt cơ hội của người dân, doanh nghiệp bị bỏ qua; là cảnh bao phụ huynh và học sinh rớt nước mắt vì thiếu trường học...  

Cán bộ làm việc trong cơ quan công quyền được trả lương cùng nhiều chế độ đãi ngộ, mà những thứ ấy là từ tiền thuế của nhân dân, doanh nghiệp đóng góp. Quyền lực của cán bộ cũng thuộc về nhân dân, do nhân dân ủy thác mà có. Cán bộ là người đầy tớ, là công bộc của nhân dân. Bởi vậy trong bất luận hoàn cảnh nào, người cán bộ cũng phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, hoàn thành mọi công việc, trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó. Đây không chỉ là bổn phận, là trách nhiệm mà còn là thước đo lương tri, đạo đức của người cán bộ biết trọng liêm sỉ, giữ danh dự khi được hưởng bổng lộc từ nhân dân, được nhân dân tin tưởng trao quyền. Bởi vậy, người cán bộ đừng ngộ nhận về vị trí, quyền lực của mình, đặt bản thân lên trên quần chúng và cho mình cái quyền được ban phát quyền lợi cho dân. 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều lần nhấn mạnh rằng cán bộ là cái gốc của mọi công việc; cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người lãnh đạo phải biết trọng danh dự, giữ liêm sỉ, không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Trọng danh dự, giữ liêm sỉ bao gồm nhiều nội hàm, trong đó điều bao trùm là phải có lòng tự trọng cao, luôn giữ gìn nhân cách, thanh danh và hoàn thành công việc một cách chất lượng. 

Như vậy, rõ ràng, người cán bộ biết trọng danh dự, giữ liêm sỉ sẽ không bao giờ trốn tránh, vô trách nhiệm, đùn đẩy công việc, chỉ biết “ăn trên ngồi trốc”, “ăn không ngồi rồi”, hưởng đãi ngộ từ dân nhưng vô cảm trước việc của dân. Người cán bộ trọng danh dự, giữ liêm sỉ cũng sẽ tự giác từ chức, xin thôi, đứng sang một bên để người khác làm nếu thấy bản thân không đủ trình độ, năng lực, uy tín để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Giải pháp đầu tiên, việc cần làm trước để triệt tiêu tình trạng đùn đẩy, né tránh, không dám làm là bản thân mỗi cán bộ phải tự nhận thức được trách nhiệm, tự học, tự tu dưỡng, không ngừng phấn đấu và nỗ lực hết mình để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ. 

Điểm mặt chỉ tên đội ngũ “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”

Một bộ phận cán bộ né tránh, đùn đẩy công việc do năng lực hạn chế, yếu kém, dân ta hay gọi hiện tượng này là “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”. Thực tế, việc điểm mặt chỉ tên bộ phận này lại không phải là điều phổ biến, bởi con số cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ được cơ quan chức năng đưa ra khá khiêm tốn, trong khi chất lượng, tiến độ thực hiện nhiệm vụ nói chung ở hệ thống cơ quan công quyền còn không ít những hạn chế, yếu kém. 

Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta có nhiều văn bản, chỉ đạo kiên quyết xử lý, thay thế, miễn nhiệm cán bộ né tránh, đùn đẩy công việc. Để thực hiện hiệu quả chủ trương này thì lẽ dĩ nhiên phải đánh giá đúng, chỉ rõ ai né tránh, đùn đẩy, không dám làm. Thế nhưng, công tác đánh giá cán bộ ở nhiều nơi còn chưa thực chất, chưa sát với thực tiễn. Tình trạng cán bộ, công chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” tồn tại ở không ít cơ quan, đơn vị trong bộ máy công quyền, thế nhưng báo cáo hằng năm vẫn là hơn 90%, thậm chí có những nơi 100% hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Tình trạng đánh giá cán bộ thiếu khách quan, nể nang, đánh đồng những người hoàn thành tốt với bộ phận làm việc cầm chừng, kém hiệu quả khiến không ít cán bộ tốt mất động lực phấn đấu, còn những người thực hiện nhiệm vụ kém chất lượng vẫn ung dung tại vị và nuôi tư tưởng “có làm hay không cũng như nhau, làm ít sai ít, làm nhiều sai nhiều”. Vậy nên yếu tố cốt lõi để đội ngũ cán bộ, công chức thay đổi thái độ, trách nhiệm nằm ở chỗ đánh giá thực chất hiệu quả công việc của mỗi người. Đánh giá đúng để sử dụng đúng, để kịp thời chấn chỉnh, đưa ra khỏi bộ máy những cá nhân đi chệch khỏi quỹ đạo của tinh thần dám nghĩ, dám làm, sáng tạo, đột phá vì lợi ích chung.

Để đánh giá đúng chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức, tránh đùn đẩy trách nhiệm thì việc cụ thể, cá thể hóa quyền hạn, trách nhiệm cá nhân trong từng khâu của quy trình xử lý công việc là điều tối cần thiết. Việc tăng cường công tác kiểm tra hoạt động công vụ, đặc biệt là kiểm tra đột xuất là điều không thể lơ là trong cuộc chiến loại bỏ cán bộ đùn đẩy, né tránh, vô trách nhiệm gây đình trệ công việc, tắc nghẽn mạch phát triển của nền kinh tế - xã hội, tổn hại đến lợi ích của nhân dân. 

Cùng với các giải pháp đồng bộ, nhất là khơi thông những điểm nghẽn về cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung; điều cần làm song song để không còn thấy trong bộ máy công quyền những cán bộ né tránh, đùn đẩy, thờ ơ, vô trách nhiệm với công việc là việc kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ đối với đội ngũ “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”.