Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời ngày 03/02/1930, là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi
trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Bối cảnh ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa
tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư
bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và
áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm
cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các
dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời
đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách
mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị
áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III)
vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng
trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ
súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến
một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách
cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong
kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực
hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa
chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách
bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây
dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ
chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để
chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín
dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi
cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào
Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính
sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra
quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng
cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ
Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu
nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình
thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất
trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề.
Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm
tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng
của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp
nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc,
phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư
sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ
bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp
tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do…
đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm
thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài
truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức
độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam,
ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ
và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay
gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa
phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm
lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ
phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông
dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong
trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi
nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước
theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối
thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ
XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông
dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục
năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ
tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc.
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được
hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ
chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách
mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu
nước.
Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường
cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức
là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương
hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát
hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi
đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước
thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp,
đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước
Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới
Hội nghị Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm
ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920),
Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng
lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu
tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn
Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ
nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải
phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối
với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều
kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra
sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính
lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường,
đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều
tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực
dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền
phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên
truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường cách
mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối
chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định,
muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng
mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho
việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc)
và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và
trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt
Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng
ngày càng chín muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam
trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải
thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào
cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp
nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức
Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn
kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều
lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua
lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt
Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý
nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội
nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm
thành lập Đảng.
Ba2505