Thứ Tư, 18 tháng 9, 2019

Cảnh giác với luận điệu xuyên tạc mục tiêu CNXH trước thềm Đại hội Đảng các cấp


Cảnh giác với luận điệu xuyên tạc mục tiêu CNXH

trước thềm Đại hội Đảng các cấp

 

Vừa qua, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30-5-2019, Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Để công tác chuẩn bị chu đáo, việc tổ chức đại hội các cấp bảo đảm thành công tốt đẹp theo đúng tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã quán triệt: Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng. Tuy nhiên các thế lực phản động, phần tử cơ hội chính trị lợi dụng thời điểm này để công kích, chống phá, xuyên tạc mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên XHCN ở Việt Nam.
Cứ “đến hẹn lại lên”, nhằm vào thời điểm đất nước chuẩn bị có những sự kiện trọng đại, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng để đẩy mạnh các hoạt động công kích, chống phá cách mạng Việt Nam.
Lợi dụng thời điểm tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương đang có những chuẩn bị bước đầu để tiến tới đại hội Đảng các cấp, “lộng giả thành chân”, các đối tượng này bắt đầu gia tăng các hoạt động tuyên truyền, chống phá.
Trên các trang điện tử, blog hải ngoại, họ vờ vịt tỏ thái độ ngạc nhiên, ra vẻ thông thái dạy đời: “Vì sao đến giờ này mà Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH”. Họ cho rằng: “Ai cũng thấy là CNXH đã ở vào giờ thứ 25 trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện XHCN tại Việt Nam đã hoàn toàn thất bại sau 10 năm thực hiện triệt để (1975-1985) dù cố gắng “Đổi mới” 10 năm sau đó (1985-1995) theo gương “cải tổ” của Liên Xô vẫn không cứu vãn được.
Chúng xuyên tạc: Để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, đạt được nhiều thành tựu như hiện nay, thực tế Việt Nam đã thực hiện “Kinh tế thị trường, theo định hướng tư bản chủ nghĩa”; nhờ đó, Việt Nam mới phát triển nhiều mặt để có bộ mặt phồn vinh như hôm nay về kinh tế, đời sống người dân ngày một được cải thiện và nâng cao, chứ không phải kinh tế thị trường định hướng XHCN…”.
Đây thực chất là những luận điệu phi lịch sử, phản khoa học và phản động. Mục đích của những kẻ tung ra luận điều này rất rõ ràng là muốn xóa bỏ CNXH, thay đổi thể chế chính trị, hướng lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; bên cạnh đó là làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Nói như vậy, luận điệu mà chúng nêu trên liệu có cần tranh luận? Chắc hẳn là không. Tuy nhiên cũng nên nói rõ để không “thật, giả, vàng, thau lẫn lộn”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỷ XIX và ngót nửa đầu thế kỷ XX, đất nước không được độc lập, nhân dân không được tự do. Các phong trào từ “Cần Vương”, “Khởi nghĩa nông dân”, đến phong trào “Đông Du”, phong trào “Giải phóng dân tộc theo khuynh hướng tư sản dân tộc”… đều thất bại, cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng về con đường giải phóng dân tộc.
Trong điều kiện đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, cách mạng vô sản về Việt Nam. Từ khi có Đảng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đất nước theo con đường CNXH, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nói như thế để thấy, con đường cách mạng vô sản tiến bộ là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, CNXH là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Độc lập dân tộc là gắn liên với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân. Nhân dân là cội nguồn sức mạnh, chủ thể quyết định vận mệnh của dân tộc và non sông đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam một lòng phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Ngoài lợi ích của dộc tộc, nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Nhân dân một lòng theo Đảng. Lý tưởng cộng sản là sự lựa chọn của nhân dân. Kiên định con đường đi lên CNXH là sự kiên định con đường thực tiễn mà nhân dân ta đang đi, kiên định mục tiêu thực hiện mà chúng ta đang hướng tới, là tiếp nối thành quả cách mạng của nhân dân ta và nâng lên tầm cao mới phù hợp với điều kiện lịch sử.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta tiếp tục con đường đã lựa chọn, kiên định mục tiêu CNXH mà tính đúng đắn, khoa học, cách mạng đã được thực tiễn chứng minh để xây dựng nước ta thực sự giàu mạnh, dân chủ, văn minh, nhân dân ta thực sự có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Kiên định con đường đi lên CNXH là phù hợp với quy luật lịch sử, chứ không phải là “đi vào vết xe đổ của Liên Xô” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. CNXH hiện thực sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ có ảnh hưởng quốc tế sâu rộng mà còn làm thay đổi tiến trình lịch sử thế giới trong suốt thế kỷ XX và cho đến tận ngày nay.
CNXH từ lý luận khoa học đã trở thành hiện thực sinh động; từ một nước trở thành hệ thống XHCN thế giới, trở thành lực lượng cách mạng thúc đẩy nhân loại phát triển và phẩm giá con người trong lòng xã hội được thực thi… Liên Xô sụp đổ là sự kiện địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX làm đau đớn nhân loại tiến bộ. Song nó phản ánh sự sai lầm về một mô hình khi đã xa rời những vấn đề mang tính nguyên tắc của CNXH.
Bên cạnh đó cũng phải nói rõ, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đạt được trong hơn 30 đổi mới đến nay mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, là thành tựu của công cuộc đổi mới, thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải là “kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa” như các thế lực thù địch xuyên tạc.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" (Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, tr.102). Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, là thành quả phát triển, hoàn thiện về mặt tư duy lý luận của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có đặc trưng mang tính đặ c thù, khác căn bản về chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà đến những kẻ ngu ngơ nhất cũng không thể đánh đồng.
Thủ đoạn của thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động là xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên CNXH ở nước ta, xuyên tạc kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm mục đích hướng lái cách mạng Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa; tác động, tiêm nhiễm tạo nhận thức lệch lạc, hoài nghi, tư tưởng hoang mang, dao động, từ đó suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân cần nâng cao ý thức cảnh giác và tăng cường đấu tranh tranh phản bác, làm thất bại âm mưu phản cách mạng nguy hiểm này.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2019

Một số kinh nghiệm đấu tranh, phản bác các thông tin sai trái, luận điệu thù địch trên internet và mạng xã hội


Đấu tranh phản bác các thông tin sai trái, luận điều thù địch trên internet và các phương tiện truyền thông khác là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu không có sự tỉnh táo trong nhận định, thận trọng trong xác minh, chính xác trong sử dụng từ ngữ, lập luận, dẫn chứng, rất có thể, việc đấu tranh sẽ bị phản tác dụng, thậm chí còn gây hậu quả ngược lại.

Chùm thơ về Cách mạng tháng Tám và Quốc kháng 2/9


NGÀY 2 THÁNG 9
Cách mạng tháng Tám đã thành công
Ý Đảng lòng dân quyết một lòng

TRƯỜNG SA, HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM!


Như chúng ta đã biết, Trung Quốc luôn có những bước đi nhằm xâm phạm đến chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Gần đây nhất có thể kể đến Tàu Hải Dương 8 (HD8) của Trung Quốc đã tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (Ngày 3/7/2019), sau hơn một tháng xâm phạm bãi Tư Chính tàu HD8 đã rời đi vào ngày 7/8. Tuy nhiên đến ngày 13 cùng tháng, chiếc tàu này đã quay trở lại, tiếp tục xâm phạm vào bãi Tư Chính của Việt Nam.

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA KẺ THÙ ĐỐI VỚI PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG TIÊU CỰC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những kết quả rất tích cực, những “hồi trống lệnh” chống tham nhũng được gióng lên từ người đứng đầu Đảng và Nhà nước đã đáp ứng được niềm mong mỏi của cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước, thể hiện quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm”, là sự hiện thực hóa đưa Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng vào cuộc sống góp phần làm trong sạch bộ máy của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh. Điều quạn trọng là niềm tin của quần chúng nhân dân đối với vai trò cầm quyền của Đảng được củng cố.
Với tinh thần không có giới hạn, không có vùng cấm, thời gian qua, nhiều vụ việc sai phạm đã được đưa ra xét xử công khai, minh bạch, được dư luận hết sức đồng tình ủng hộ. Thế nhưng vẫn có những kẻ cố tình xuyên tạc, kích động sai sự thật, công khai rêu rao chỉ trích Đảng, Nhà nước ta yếu kém trong quản lý kinh tế nhất là ở các doanh nghiệp nhà nước, hoặc cho rằng có sự bênh vực cho một số đối tượng liên quan do lợi ích nhóm, “đánh trống phát một”, “đánh chuột sợ vỡ bình” …
Thực tế đã chứng minh, các vụ tham nhũng tiêu cực phát hiện trong những năm gần đây, việc điều tra, truy tố, xét xử rất nghiêm khắc, nhiều đối tượng bị xử lý nghiêm minh đúng người, đúng tội theo quy định của pháp luật. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Chống tham nhũng “phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”. Quán triệt tư tưởng của Người, nhiệm vụ chống “giặc nội xâm” được Đảng ta đã lãnh đạo, triển khai một cách bài bản, thận trọng, chắc chắn và hiệu quả, đấu tranh chống tham nhũng phải gắn với giữ vững ổn định chính trị. Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã từng phát biểu: “Đánh” là phải thận trọng, “đánh” đâu chắc đó. Do vậy, cần phải hết sức cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc, bóp méo của những phần tử cơ hội, thù địch đối với cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.


  • ĐẤU TRANH VỚI CÁC LUẬN ĐIỆU TUYÊN TRUYỀN,
  • XUYÊN TẠC VỀ CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
  • Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Thời gian qua, trên một số trang mạng phản động, các phần tử cơ hội cấu kết với những thế lực thù địch đã đăng tải nhiều tin, bài xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, về cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cố tác động tạo ra xung đột trong đời sống xã hội, làm tổn hại mối quan hệ giữa ý Ðảng, lòng dân.
Chúng lợi dụng tình trạng dư luận xã hội bức xúc về một số vụ án tham nhũng trong thời gian qua, về biểu hiện suy thoái của một số cán bộ, đảng viên để quy kết khuyết điểm, sai lầm, tiêu cực trong xã hội cho Ðảng; Chúng đã gắn vấn đề tham nhũng với chính trị, cho rằng “tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng”. Từ đó chúng đưa ra kết luận ở Việt Nam còn chế độ công hữu, chế độ độc đảng thì vấn nạn tham nhũng vẫn còn.
Từ kết quả trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực như vụ án Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và Tham ô tài sản xảy ra tại Tổng công ty CP Xây lắp Dầu khí Việt Nam – PVC; đường dây đánh bạc công nghệ cao... Trung ương đã kỷ luật Đảng, truy tố theo pháp luật đối với nhiều cá nhân có liên quan, kể cả cán bộ cao cấp trong bộ máy Đảng, Nhà nước. Trong nhiều bài viết trên blog cá nhân, hay mạng xã hội các thế lực thù địch trắng trợn dựng đứng lên câu chuyện đấu đá nội bộ, phe nhóm trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Không chỉ vẽ ra cảnh đấu đá nội bộ ở cấp Trung ương, các thế lực thù địch còn vẽ ra cảnh đấu đá nội bộ ở các địa phương, dựng lên cái gọi là “cuộc chiến chiếm lĩnh quyền thống trị” như ở Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh.v.v. Sự xuyên tạc không dừng lại ở đó, để cho ly kỳ, hấp dẫn hơn, chúng còn bịa ra những lực lượng, cá nhân được hưởng lợi từ sự đấu đá nội bộ trong Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ những luận điệu trên đây, trước hết phải thấy rằng đây là thủ đoạn rất thâm độc của "diễn biến hòa bình", nhằm chống phá sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc xây dựng CNXH của nhân dân ta; là xuyên tạc, bóp méo sự thật, làm dư luận nghi ngờ, từ đó phục vụ âm mưu phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Ðảng, kích động tinh thần dân chủ theo lối tự do vô chính phủ để từng bước làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng, làm mất uy tín, sức mạnh, vai trò lãnh đạo của Ðảng.
Chúng ta biết rằng, tham nhũng là hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước; sự quản lý kinh tế- xã hội lỏng lẻo sẽ tạo ra sơ hở cho các hành vi tiêu cực nảy sinh, trong đó có tham nhũng. Thực tiễn cho thấy tham nhũng là hiện tượng phổ biến ở nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia thực hiện chế độ “đa nguyên, đa đảng”. Trong các cuộc đàm phán về Công ước chống tham nhũng của Liên hợp quốc, người ta đều khẳng định là nơi nào hệ thống pháp luật còn lỏng lẻo, các quy trình ra quyết định và hoạch định chính sách còn thiếu minh bạch, thủ tục hành chính còn rườm rà, lương công chức còn thấp,… thì ở đó tình trạng tham nhũng có xu hướng gia tăng cả về tính chất và mức độ, đồng thời số vụ có tính chất xuyên quốc gia cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Đặc biệt là, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ chính trị – kinh tế tạo ra những tiền đề khách quan làm cho tham nhũng phát triển.Như vậy, tham nhũng là hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước, không phải là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu, chuyên chế độc đảng. Các thế lực thù địch cố tình đưa ra luận điệu sai trái xuyên tạc nguyên nhân tham nhũng ở Việt Nam là nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trên thực tế, kể từ khi toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết, kiên trì triển khai thực hiện các Nghị quyết Hội nghị T.Ư khóa XII của Ðảng về cuộc đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí; về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều vụ án tham nhũng lớn đã được phát hiện, đưa ra xét xử công khai; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, kết luận của Ðảng, quy định của Nhà nước về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế đang được triển khai đồng bộ. Ðó vừa là bằng chứng bác bỏ luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch, vừa khẳng định vị thế, vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam là Ðảng duy nhất có đủ năng lực lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.



VẠCH TRẦN, LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG


Trước thềm đại hội Đảng các cấp, tiến tới đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự chống phá của các thế lực thù địch càng quyết liệt, thâm hiểm hơn, nhất là việc xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, về kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, về sự lãnh đạo của Đảng, về công tác nhân sự Đại hội...Tất cả sự chống phá nêu trên đều nhằm tới mục tiêu: “Hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng của Đảng và Nhà nước ta; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng”.
Để vạch trần và làm thất bại âm mưu của chúng, trước hết chúng ta cần khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam luôn kiên định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Tất nhiên, cũng như các đại hội đảng trước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc xem xét, vận dụng lý luận phù hợp với tình hình thực tiễn của từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; gắn kết giữa phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Cho đến nay, công tác chuẩn bị Đại hội XIII đã và đang được thực hiện tích cực, trách nhiệm, bảo đảm tiến độ ở đảng bộ các cấp, cả về nội dung các báo cáo và công tác nhân sự. Nhân sự Đại hội XIII đã được Ban Chấp hành Trung ương khóa XII chuẩn bị chu đáo, công phu. Quy hoạch cán bộ và công tác đào tạo cán bộ theo quy hoạch đã và đang được triển khai đồng thời với công tác chuẩn bị về nội dung. Việc triển khai công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ chủ chốt theo quy hoạch được thực hiện bài bản, công khai, dân chủ, có chất lượng.
Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong hệ thống chính trị các cấp. Công tác chuẩn b đại hội được phổ biến sâu rộng đến Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Dự thảo Báo cáo Chính trị sẽ được công bố công khai và lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác nhân sự cấp ủy các cấp cũng là một trong những nội dung được lấy ý kiến.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở. Công tác chuẩn bị đại hội các cấp được triển khai theo hệ thống tổ chức của mình, là sinh hoạt chính trị bình thường trong Đảng. Tuy nhiên, như đã thành thông lệ, càng gần đến Đại hội XIII của Đảng, sự chống phá của các thế lực thù địch càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Vì vậy, mỗi chúng ta cần đề cao cảnh giác, nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh phản bác, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội..., góp phần bảo đảm sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng.

Cảnh giác trước thủ đoạn dùng tin giả trên mạng để chống phá Đảng Nhà nước


Khi mạng xã hội phát triển mạnh mẽ đến từng người dân, vấn nạn tin giả thực sự là một nguy cơ tiềm tàng cực kỳ nguy hiểm đến an ninh xã hội. Trên các mạng xã hội phổ biến như Facebook, Youtube, Zalo, Twister, …xuất hiện tin tức từng giây, từng phút, các tin thể hiện rất phong phú từ âm thanh, hình ảnh đến các nội dung văn bản. Tuy nhiên, sự thực ở các thông tin đó thì không ai kiểm duyệt trước khi đưa lên. Có chăng là một số tờ báo điện tử có uy tín, còn trên mạng xã hội gần như là không.
          Chính vì đặc điểm đó, tin tức có thể bị nhào nặn, bóp mép…thậm chí mô tả thực tế nhưng lại là không tưởng, không có thật. Chúng ta từng lên án những thủ đoạn tung tin giả làm hoang mang dư luận như: Cảnh tai nạn máy bay tại sân bay Nội Bài, bức ảnh có biển địa danh lãnh thổ Trung quốc ở Vũng Áng… là những hình ảnh được cắt ghép, nếu thực hiện chuyên nghiệp thì rất khó chúng ta mới phát hiện ra được.
Kết quả hình ảnh cho Tin giả mạo tai nạn máy bay ở Nội bải
Tin giả tai nạn máy bay ở Nội Bài
Tin giả có thể núp bóng dưới nhiều hình thức khác nhau như những dòng trạng thái bàn chuyện ô nhiễm tại một địa phương nhưng lại dùng hình ảnh tận bên kia địa cầu, xảy ra từ lâu trong quá khứ hay một bức hình của quan chức cao cấp bị gắn với một phát ngôn gây sốc, mọi người chia sẻ và bình luận mà không quan tâm xem nội dung đó có bị xuyên tạc hay không. Theo các chuyên gia, các đối tượng xấu sẽ sử dụng các robot ứng dụng trí tuệ nhân tạo nhằm lan truyền rất nhanh những thông tin giả.
Nguy hiểm hơn, những thông tin giả đều gắn mã độc, khi người xem click vào các đường link, các thiết bị máy tính, điện thoại của người xem sẽ bị kiểm soát dẫn tới thường xuyên nhận được thông tin giả.
Để tạo niềm tin vào tin giả, chúng còn tạo dựng những giả mạo của các tổ chức, lãnh đạo uy tín, hoặc trùng lắp về thời gian với những sự kiện dễ nhầm lẫn để đưa ra những thông tin dễ làm người dân tin tưởng, từ đó để thực hiện các động cơ xấu xa trong chống Đảng, Nhà nước và đôi khi là lừa đảo, trục lợi cá nhân.
Ngoài trách nhiệm của các cơ quan chức năng, với hành lang pháp lý Luật An ninh mạng trong đấu tranh, xử lý các đối tượng tạo tin giả. Chúng ta, mỗi người dân Việt nam yêu nước cần hết sức cảnh giác, có kỹ năng khi nhận định, chia sẻ, bình luận …và  quyết tâm đấu tranh loại trừ vấn nạn tin giả làm cho không gian mạng an toàn, lành mạnh và rộng khắp./.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019

Giá trị của hòa bình, của tự do và độc lập là không thể phủ nhận


Giá trị của hòa bình, của tự do và độc lập là không thể phủ nhận

 


Vào buổi sáng mùa thu lịch sử cách đây 74 năm, trước cuộc mít tinh lớn tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào cả nước và nhân dân thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam).
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Có thể khẳng định, Cách mạng Tháng Tám thành công, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của quân và dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra kỷ nguyên mới, bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên người dân Việt Nam có quyền ngẩng cao đầu, tự hào mình trở thành công dân của một nước tự do và độc lập.
Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á là dấu mốc chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân Việt Nam phải chịu đựng dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ kiếp nô lệ trở thành người dân một nước tự do, độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Việt Nam từ nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước hòa bình, độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) trở thành đảng cầm quyền. Đất nước và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
74 năm qua là chặng đường kiên trì, bền bỉ phấn đấu hy sinh vượt qua nhiều thử thách, cam go ác liệt. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, đưa cả nước bước vào thời kỳ mới với hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, đặc biệt, trải qua hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất-kỹ thuật, hạ tầng kinh tế-xã hội từng bước đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH, tạo ra môi trường thu hút mọi nguồn lực cho sự phát triển... Đất nước ta ngày nay đã lớn mạnh hơn gấp nhiều lần.
Nhờ kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế mà tầm vóc và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đến đầu năm 2019, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, đối tác toàn diện với 11 nước... Ngoài ra, Việt Nam còn đóng góp tích cực trong nhiều diễn đàn đa phương và được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc. Đặc biệt mới đây, Việt Nam lần thứ hai trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2020-2021) với số phiếu gần như tuyệt đối. Việt Nam cũng được bạn bè quốc tế tín nhiệm lựa chọn là nơi tổ chức nhiều sự kiện quan trọng mang tầm cỡ khu vực và toàn cầu.
Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, chúng ta đã gặt hái được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu ấy là minh chứng hùng hồn đầy sức thuyết phục cho vị thế và giá trị đích thực của hòa bình, tự do, độc lập mà Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 đem lại. Bất cứ người Việt Nam yêu nước chân chính nào cũng nhận thấy giá trị cao quý, thiêng liêng và rất đỗi tự hào trước những thành quả mà cách mạng đem tới.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đang đối diện với không ít khó khăn, trở ngại, hạn chế, yếu kém; cùng nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhạy cảm khác đang đặt ra cần phải giải quyết để đưa đất nước phát triển bền vững. Cùng với đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, của những kẻ phản động, cơ hội quay lưng với đất nước. Trong khi chúng ta tự hào, hân hoan trước những thành tựu đã đạt được, trước sự phát triển của đất nước thì các thế lực thù địch, những kẻ phản động, cơ hội chính trị lại tỏ ra hậm hực, tức tối. Chúng tìm mọi mưu hèn, kế bẩn để chống phá, cản trở sự phát triển, phá hoại sự bình yên của đất nước. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta càng đạt được nhiều thành tựu thì chúng càng đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, với cấp độ ngày càng nguy hiểm, quyết liệt. Chúng thường xuyên bóp méo, xuyên tạc, bôi nhọ những giá trị tinh thần, niềm tự hào lớn lao của dân tộc, phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của hòa bình, độc lập, tự do đối với nhân dân ta, hướng lái làm cho giới trẻ mơ hồ nhận thức. Đặc biệt, chúng coi phá hoại về tư tưởng, văn hóa là “mũi đột phá”, mưu toan làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về tư tưởng, từ đó từng bước chuyển hóa tiến tới xóa bỏ hệ tư tưởng XHCN trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
Ngay khi chúng ta đang sống giữa những ngày hào hùng, sôi nổi kỷ niệm 74 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 thì đây đó, các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội vẫn lợi dụng diễn biến phức tạp ở Biển Đông, mang danh "lòng yêu nước", "tình yêu Tổ quốc"... để tuyên truyền xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta; kêu gọi, kích động người dân tụ tập gây rối, chống đối chính quyền. Bằng đủ mọi chiêu thức, chúng tuyên truyền bóp méo, xuyên tạc, hòng phủ nhận những thành quả mà nhân dân Việt Nam phải bằng bao công sức, mồ hôi, xương máu mới giành được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực chất của những âm mưu, thủ đoạn ấy là nhằm phủ nhận giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9; phủ nhận giá trị đích thực của hòa bình, tự do, độc lập mà Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 đem lại; và xét cho đến cùng vẫn là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giá trị lịch sử, ý nghĩa thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 là không thể phủ nhận. Thời gian càng lùi xa thì tầm vóc, vị thế và giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 ngày càng tỏa sáng. “Ôn cố tri tân” vừa là đạo lý, vừa là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy những giá trị lịch sử, truyền thống dân tộc trong xu thế hội nhập là yêu cầu tất yếu, là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách với chúng ta.
Muốn thực hiện được điều đó, trước hết chúng ta cần tăng cường công tác giáo dục truyền thống dân tộc, những trang sử cách mạng hào hùng cho nhân dân, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Chỉ có hiểu đúng, nhận thức đầy đủ, sâu sắc về lịch sử, truyền thống hào hùng của dân tộc, trong đó có ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, chúng ta mới thấy hết công lao của các thế hệ đi trước, từ đó ý thức rõ ràng và đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình trong giữ gìn và phát huy. Mặt khác, càng hiểu về giá trị, ý nghĩa của chiến thắng, mỗi người chúng ta càng ý thức rõ hơn trách nhiệm của thế hệ hôm nay và mai sau, kiên quyết vạch trần, đấu tranh, làm thất bại những âm mưu, luận điệu xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ cho tồn tại những hành động ngang nhiên chà đạp lên khát vọng của dân tộc Việt Nam, chà đạp lên xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam hy sinh vì hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Bảo vệ, giữ gìn giá trị lịch sử truyền thống dân tộc nói chung; ý nghĩa, giá trị của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 nói riêng là cơ sở nền tảng để toàn dân, toàn quân ta tiếp tục chung sức, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng gặt hái được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

Đất nước lớn nhưng bé trong tôn trọng luật pháp và ngoại giao quốc tế.


Với tham vọng phi lý ở Biển Đông, Trung Quốc là một đất nước rộng lớn, đông dân cư nhất thế giới. Thế nhưng, quan điểm của chính quyền Trung Quốc về tôn trọng luật pháp quốc tế và ngoại giao quốc tế lại rất nhỏ.
Trung Quốc công khai bỏ qua luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, đây là một hành động nguy hiểm tới an ninh khu vực, hết sức nguy hiểm. Sợ khơi ngòi của Trung Quốc là một sự vi phạm chủ quyền của Việt Nam và các quyền hợp pháp của quốc gia này trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ).

Kết quả hình ảnh cho Trung quốc tiếp tục xâm phạm biển việt nam
Trung Quốc tái xâm phạm vùng Biển của Việt Nam
Chúng ta đã kiên nhẫn đấu tranh ngoại giao khi có các thông tin về các tàu thăm dò dầu khí của Trung Quốc vào vùng EEZ của Việt Nam, Hà Nội đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút tàu ra khỏi vùng EEZ của Việt Nam. Nhưng đáp lại, Trung Quốc đã vờ như không nghe thấy, cố tình làm ngơ. Đây là hành vi gây ra mối đe dọa đối với Việt Nam và là bằng chứng cho thấy quan điểm của Trung Quốc sẵn sàng bắt nạt các nước láng giềng vì âm mưu chủ quyền phi lí.
Cộng đồng quốc tế và khu vực đã có nhiều nước lên tiếng lên án hành động của Trung Quốc, đây là tiếng nói chính nghĩ để duy trì trậ tự dựa trên luật lệ và luật pháp quốc tế. Để vớt vát danh dự, Trung Quốc nên rút tất cả và ngay lập tức các tàu ra khỏi lãnh hải của các nước láng giềng, tuân thủ luật pháp quốc tế để duy trì sự ổn định, đoàn kết giữa các quốc gia trên Biển../

Làm thất bại âm mưu các thế lực thù địch chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng


Làm thất bại âm mưu các thế lực thù địch chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng


Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 sẽ được tổ chức trong năm 2020. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt là yếu tố, tiền đề hết sức quan trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh và yêu cầu phải chuẩn bị và tổ chức thật tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, đại hội đảng bộ các cấp cần chuẩn bị kỹ cả về nội dung báo cáo chính trị và công tác nhân sự. Đặc biệt, việc chuẩn bị nhân sự đại hội có vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm cho thành công của đại hội và triển khai thực hiện nghị quyết của đại hội.
Trong chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xác định và nhấn mạnh, công tác nhân sự cần thực hiện phương châm bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo và phát triển; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu. Cấp ủy nhiệm kỳ 2020-2025 phải đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Cùng với đó, báo cáo chính trị cần đánh giá đúng, trung thực, khách quan, toàn diện tình hình và kết quả thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ 2015-2020, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan và rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; đồng thời, xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ tới sát tình hình thực tế, có tính khả thi cao, làm cơ sở để tổ chức thực hiện hiệu quả. Thông qua đại hội đảng bộ các cấp, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; củng cố, tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Để chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng, từ đầu tháng 10-2018, các tiểu ban của đại hội (gồm: Tiểu ban Văn kiện; Tiểu ban Kinh tế-Xã hội; Tiểu ban Điều lệ Đảng; Tiểu ban Nhân sự và Tiểu ban Tổ chức phục vụ đại hội) đã được thành lập và sớm đi vào hoạt động, với tinh thần làm việc hết sức khẩn trương, nghiêm túc. Ngay sau khi được thành lập, từng tiểu ban đều do các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư trực tiếp chỉ đạo tiến hành khảo sát tình hình thực tế; tổ chức họp nhiều lần để thống nhất từng nội dung, nhất là những nội dung quan trọng.
Công tác quy hoạch nguồn cán bộ cho Đại hội XIII của Đảng và đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chuẩn bị từ các nhiệm kỳ trước, đặc biệt là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII. Đến nay, phần việc này về cơ bản được hoàn thiện. Trung ương cũng đã thống nhất danh sách giới thiệu dự bầu Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII do tổ chức đảng các cấp, các ban, ngành Trung ương và các địa phương giới thiệu quy hoạch. Căn cứ kế hoạch tổng thể, những cán bộ trong diện quy hoạch được Trung ương và các cấp ủy quan tâm, tạo điều kiện cho đi đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển công tác để rèn luyện, thử thách qua thực tiễn với nhiều cương vị công tác từ thấp đến cao. Đây thật sự là bước chuẩn bị chu đáo, chủ động từ sớm, từ xa của Trung ương, của các cấp ủy và hệ thống chính trị trong tiến hành công tác nhân sự khóa mới.
Như vậy, có thể khẳng định, công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng đã và đang được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chuẩn bị chu đáo, công phu, bài bản; được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, đánh giá cao; qua đó củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng; tạo không khí phấn khởi, đồng thuận trước thềm đại hội đảng các cấp.
Thế nhưng trên internet, mạng xã hội và một số “diễn đàn”, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội cố tình đưa nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc về đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là tuyên truyền xuyên tạc về công tác chuẩn bị đại hội. Họ dựng chuyện và “quy chụp” rằng, “việc chuẩn bị đại hội như là hoạt động thay cho đại hội, xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; rằng công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ cốt cán cho Đại hội XIII là Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội XIII”… Theo họ (thực chất là những nguồn tin thất thiệt trên internet, mạng xã hội) thì không chỉ là nội dung văn kiện, mà danh sách Ủy viên Trung ương của Đại hội XIII cũng đã có…?
Đặc biệt, vấn đề nhân sự bị một số thế lực bên ngoài can thiệp, chỉ đạo, xuyên tạc. Họ tự “dựng lên” danh sách lãnh đạo cấp cao, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng... như thể họ là người trong cuộc. Họ “tung hô”, ngụy tạo rằng, đại biểu dự Đại hội XIII của Đảng chỉ còn việc “giơ tay biểu quyết” đồng ý mà không thể có ý kiến gì khác. Đặc biệt, họ trắng trợn dựng chuyện, xuyên tạc: “Đại hội đảng là hình thức; là một dịp tái cơ cấu cán bộ theo lối phe cánh lợi ích nhóm”. Trước việc Đảng, Nhà nước Việt Nam kiên quyết xử lý nghiêm minh, không có “vùng cấm” mọi sai phạm của cán bộ, đảng viên thì họ lợi dụng xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ đội ngũ cán bộ chủ chốt, kích động, gây chia rẽ đoàn kết trong Đảng. Nguy hiểm hơn, họ vu cáo, xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã “đổi màu”, không còn kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường đi lên CNXH.
Vậy, thực chất những luận điệu đó như thế nào? Có phản ánh đúng đời sống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam? Và mục tiêu của chúng là gì?
Trước hết cần khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Tất nhiên, cũng như các đại hội đảng trước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc xem xét, vận dụng lý luận phù hợp với tình hình thực tiễn của từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; gắn kết giữa phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Cho đến nay, công tác chuẩn bị Đại hội XIII đã và đang được thực hiện tích cực, trách nhiệm, bảo đảm tiến độ ở đảng bộ các cấp, cả về nội dung các báo cáo và công tác nhân sự. Cũng như các đại hội trước, nhân sự Đại hội XIII đã được Ban Chấp hành Trung ương khóa XII chuẩn bị chu đáo, công phu. Quy hoạch cán bộ và công tác đào tạo cán bộ theo quy hoạch đã và đang được triển khai đồng thời với công tác chuẩn bị về nội dung. Việc triển khai công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ chủ chốt theo quy hoạch được thực hiện bài bản, công khai, dân chủ, có chất lượng.
Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong hệ thống chính trị các cấp. Công tác chuẩn bị đại hội được phổ biến sâu rộng đến Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội các cấp. Dự thảo Báo cáo Chính trị sẽ được công bố công khai và lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác nhân sự cấp ủy các cấp cũng là một trong những nội dung được lấy ý kiến.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở. Công tác chuẩn bị đại hội các cấp được triển khai theo hệ thống tổ chức của mình, là sinh hoạt chính trị bình thường trong Đảng. Tuy nhiên, như đã thành thông lệ, càng gần đến Đại hội XIII của Đảng, sự chống phá của các thế lực thù địch càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Vì vậy, mỗi chúng ta cần đề cao cảnh giác, nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh phản bác, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội…, góp phần bảo đảm sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng.

"CHẠY BẰNG CẤP" - KHÔNG CHỈ LÀ SUY THOÁI ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG


Bằng cấp phần nào thể hiện trình độ kiến thức, tư duy, trí tuệ, năng lực của mỗi người và đó là một trong những tiêu chí quan trọng để cơ quan có thẩm quyền có thêm căn cứ đánh giá, tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ. Tuy nhiên, cũng chính vì tiêu chí này, thời gian qua, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã tìm mọi cách để “chạy bằng cấp” nhằm mục đích tiến thân với động cơ không lành mạnh.
 Vấn nạn làm “mọt ruỗng” văn hóa công quyền
Một trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống đã được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra, đó là “chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội”. Trong 6 loại “chạy” trên, “chạy bằng cấp” rất đáng lên án, bởi nó không đơn thuần chỉ là sự suy thoái về đạo đức, lối sống, mà đó cũng là một trong những biểu hiện của suy thoái về chính trị và làm “mọt ruỗng” văn hóa công quyền. Vì những người “chạy bằng cấp” ngoài mục đích có “chỗ làm tốt, vị trí tốt, bổng lộc nhiều”, còn tự tạo cho mình một uy tín giả thông qua cái vỏ bọc có tấm bằng “cử nhân này, thạc sĩ nọ, tiến sĩ kia”. Đấy là chưa kể những người không học hành hẳn hoi, không qua quá trình đào tạo chỉn chu mà vẫn sở hữu những tấm bằng “danh chính ngôn thuận” (mà dân gian vẫn gọi là “học giả, bằng thật”) rồi “chui” được vào các cơ quan công quyền ung dung làm cán bộ lãnh đạo, quản lý! Mặt khác, những người sử dụng bằng cấp giả còn vô hình trung vi phạm pháp luật do sử dụng giấy tờ giả mạo.
Mới đây, GS, NGND Phạm Minh Hạc, Chủ tịch Hội Cựu giáo chức Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết: Năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có đợt thanh tra và phát hiện được hơn 10.000 trường hợp dùng bằng giả, trong đó có một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức. Sau cuộc “tổng rà soát, thanh tra” này, rất nhiều cán bộ, công chức, viên chức bị kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho thôi việc và cách chức.
Những năm gần đây, vấn nạn “chạy bằng cấp” diễn ra tinh vi hơn, tính chất cũng trở nên phức tạp hơn, đối tượng đa dạng hơn. Số cán bộ, công chức “học giả, bằng thật”, mạo danh bằng cấp, sử dụng bằng cấp không đúng quy định không chỉ dừng lại ở cán bộ cấp xã, cấp huyện, mà còn liên quan đến cả cán bộ cấp cao hơn. Cách đây mấy năm, dư luận từng xôn xao và cơ quan chức năng Trung ương đã phải vào cuộc kiểm tra một số cán bộ tỉnh Phú Thọ và Yên Bái đã sử dụng bằng tiến sĩ ở trường đại học nước ngoài không được Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta công nhận. Một cán bộ từng là Thứ trưởng Bộ Y tế chỉ có chứng chỉ để được tham dự khóa học tiến sĩ ở nước ngoài, nhưng về nước lại kê khai là có bằng “tiến sĩ”. Một cán bộ cấp tỉnh ở Bình Định trước khi được bổ nhiệm đã ghi trong lý lịch cá nhân là có học vị “tiến sĩ”, nhưng khi tham gia danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV lại ghi là “thạc sĩ”, cũng khiến dư luận hoài nghi về động cơ chưa minh bạch này. Mới đây, việc ông Nguyễn Xuân Anh bị kỷ luật bằng hình thức cách chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng và cho thôi giữ chức Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân là “kê khai, sử dụng bằng cấp không đúng quy định, thiếu trung thực”.
Nhiều năm trở lại đây, năm nào các cơ quan chức năng cũng “khui” ra hàng chục vụ cán bộ, công chức sử dụng bằng cấp giả, bằng cấp không đúng quy định. Các cơ quan điều tra và bảo vệ pháp luật cũng đã phát hiện, khởi tố, xử lý rất nhiều vụ việc, đối tượng làm bằng cấp đại học giả. Thực tế đó cho thấy việc đăng ký, rà soát, quản lý bằng cấp ở nhiều cơ quan, tổ chức còn sơ hở và đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “chạy bằng cấp” không được ngăn chặn từ gốc.
Một trong những nguyên nhân sâu xa là tâm lý xã hội vẫn còn sính bằng cấp, háo danh, nhiều người coi bằng cấp như là “mưu kế tiến thân” thuận lợi nên đã tìm mọi cách mong có được tấm bằng để làm “tấm bình phong” trong việc “chạy” vào bộ máy công quyền, thậm chí “chui sâu, leo cao” nhằm vụ lợi, vinh thân phì gia. Việc một số cơ quan, tổ chức xử lý nương nhẹ một số cán bộ, công chức sử dụng bằng cấp giả, bằng cấp không đúng quy định cũng không tạo ra sức răn đe nghiêm khắc đối với các trường hợp vi phạm khác. 
Phải bịt các kẽ hở để ngăn đường “chạy bằng cấp”
Nhằm ngăn ngừa vấn nạn “chạy bằng cấp”, đã đến lúc chúng ta phải tìm cách “trị” tận gốc tình trạng này. Trước hết cần đổi mới quan niệm, tư duy về bằng cấp. Bằng cấp chỉ có giá trị khi người sử dụng phải được học hành, đào tạo nghiêm túc với một lượng kiến thức, trình độ, kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ đã được quy chuẩn và luật hóa theo quy định.
Trong quá trình tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, các tổ chức, cơ quan, đơn vị chỉ nên xác định tiêu chí bằng cấp là điều kiện cần chứ không phải là tiêu chí quan trọng nhất, duy nhất, mà đòi hỏi phải trải qua sát hạch, kiểm tra, thi tuyển một cách thực chất, khách quan, công bằng, minh bạch để tìm kiếm, lựa chọn được những cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực toàn diện nhất bố trí vào cương vị tương xứng. Các cơ quan, tổ chức-cán bộ cần sớm nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chí khoa học để đánh giá thực chất trình độ, trí tuệ, năng lực thực tế của đội ngũ cán bộ, công chức, làm cơ sở để tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ một cách phù hợp, chính xác, bảo đảm đạt cả ba mục tiêu là “được người, được việc, được tổ chức”.
Bên cạnh đó, phải phòng chống, ngăn chặn cho được tình trạng một bộ phận cán bộ lạm dụng quyền lực để tranh thủ cho con em mình đi học, đi đào tạo nhằm “hợp pháp hóa” bằng cấp, sau đó lại cố tình “giữ chỗ, giữ ghế” nhằm chờ thời cơ thuận lợi thì “thế chỗ, nhường ngôi” cho người thân, người nhà của mình. Vì bấy lâu nay, vấn nạn kê khai, sử dụng bằng cấp giả, bằng cấp không đúng quy định cũng một phần bắt nguồn từ một bộ phận người thân, người nhà của cán bộ lãnh đạo, quản lý muốn “nối nghiệp cha ông” không phải do năng lực, tài cán và cống hiến của mình, mà chủ yếu xuất phát từ tấm bằng “cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ” hào nhoáng bên ngoài.
Một giải pháp có ý nghĩa căn cơ hơn là tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức. Phải làm sao để những người làm việc trong bộ máy công quyền luôn đề cao ý thức tự trọng, đức tính liêm sỉ, có động cơ phấn đấu lành mạnh, nỗ lực tiến thân bằng tinh thần cầu thị, thực hiện phương châm “5 thật”, đó là “học thật, bằng thật, năng lực thật, làm thật, kết quả thật” để cống hiến công sức, tài năng, trí tuệ, tâm huyết của mình xây dựng tổ chức, cơ quan, đơn vị ngày càng vững mạnh, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được phân công.
Mới đây, phát biểu tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Đảng bộ TP Hà Nội, đồng chí Trần Quang Cảnh, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội sau khi trích lại câu nói của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Nếu đã trót ít nhiều nhúng chàm rồi thì sớm tự giác gột rửa”, đã khuyến cáo cán bộ, đảng viên nào hiện đang kê khai, sử dụng bằng cấp giả thì khẩn trương báo cáo Ban Tổ chức Thành ủy và Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội xin rút lui, thậm chí xin từ chức.
Ý kiến đề xuất nêu trên là xác đáng. Vì khi tự giác khai báo thành thật với cơ quan chức năng, cán bộ, công chức có bằng cấp giả vừa được “rút lui trong danh dự”, vừa góp phần giữ uy tín cho tổ chức, cơ quan, đơn vị mình. Còn nếu ai đó “học giả, bằng thật” hay sử dụng bằng cấp mạo danh mà vẫn cố tình quanh co che giấu, biện minh thì nhất định phải xử lý nghiêm khắc hơn. Đã đứng trong hàng ngũ của Đảng và làm việc trong bộ máy công quyền, cán bộ, đảng viên, công chức không bao giờ được phép sử dụng bằng cấp giả, bằng cấp không đúng quy định. Vì đó không chỉ là hành vi gian dối đối với Đảng, Nhà nước, mà còn làm đảo lộn các giá trị văn hóa, đạo đức công vụ, gây xói mòn niềm tin trong nhân dân.

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CNXH LÀ MỤC TIÊU XUYÊN SUỐT CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Những ngày vừa qua, nhân sự kiện kỷ niệm 74 năm Cách mạng Tháng Tám, trên trang mạng Tiếng Dân, Trung Nguyễn đã đăng bài viết xuyên tạc bản chất của Cách mạng Thám Tám, Y cho rằng: Dân tộc Việt Nam theo Việt Minh làm cách mạng lật đổ chế độ phong kiến nhưng không hề có ý định xây dựng một nhà nước “xã hội chủ nghĩa”.
Phải khẳng định ngay rằng điều đó hoàn toàn bịa đặt sai sự thật, nhằm mục đích chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc được thể hiện: Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập toàn diện và vững chắc.
Nghĩa là phải đảm bảo cho các dân tộc quyền cơ bản: quyền được sống trong hoà bình, độc lập, tự do, bình đẳng, hạnh phúc; độc lập dân tộc gắn với sự thống nhất quốc gia, sự vẹn toàn lãnh thổ đất nước; độc lập dân tộc gắn với quyền tự quyết dân tộc; gắn với ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đó cũng chính là mục tiêu nhất quán và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi mới 15 tuổi, Người đã sớm hiểu biết và rất đau sót trước nỗi thống khổ vì mất độc lập của dân tộc Việt Nam trước ách đô hộ của thực dân Pháp, từ đó đã hình thành chí lớn ở Người là đánh đuổi thực dân Pháp để giải phóng đồng bào: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”[1].
Khi đặt chân tới nước Pháp, tháng 6/1919, Hồ Chí Minh đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến Hội nghị Vécxây bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tại Đại hội Tua (30/12/1920), sau khi bỏ phiếu tán thành việc ra nhập Quốc tế Cộng sản, trả lời người tốc ký Đại hội:
“Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III?
Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa…Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[2]. Năm 1921, sau khi gặp Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Người lại khẳng định: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”[3].
Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các Kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng, Người viết: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[4].
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về tới địa đầu Tổ quốc (cột mốc biên giới Việt - Trung 108, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, Cao Bằng). Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị xác định phải đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm sau cũng không đòi lại được”[5].
Ngày 2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền của dân tộc Việt Nam: “… Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”[6]. Ngày 20/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người lại tiếp tục khẳng định: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[7]. Lời kêu gọi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1966), Hồ Chí Minh lại tiếp tục khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”[8].
Chúng ta đều biết rằng: Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống tốt đẹp, đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý chí kiên cường bất khuất không cam chịu làm nô lệ, không chấp nhận nghèo hèn... Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhờ phát huy cao độ “truyền thống quý báu” của dân tộc, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thành sức mạnh vô địch đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh mới càng cần khơi dậy, phát huy mạnh mẽ truyền thống quý báu và tinh thần quật cường của dân tộc; chú trọng đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, để nhân dân ấm no, hạnh phúc. Mục tiêu đó không phải chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp lại vừa là dân tộc. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng và giai cấp công nhân mới là đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc, mới xây dựng được mặt trận Đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu nói trên. Những lệch lạc về phía này hay phía khác đều là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh, trái với đạo lý và truyền thống dân tộc.


[1] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.13.
[2] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh  - Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H. 2006, t. 1, tr. 111-112.
[3] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh  - Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H. 2006, t. 1, tr. 173.
[4] HCM: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 4, tr. 64.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 7, tr. 113.
[6] HCM: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, tập 6, tr. 587.
[7] HCM: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, tập 4, tr. 534.
[8] HCM: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, tập 15, tr. 131.