Thứ Hai, 31 tháng 5, 2021

Khởi tố hành vi làm lây lan dịch bệnh chứ không “gây khó” cho tổ chức tôn giáo

 

Khởi tố hành vi làm lây lan dịch bệnh chứ không “gây khó” cho tổ chức tôn giáo

 Trước pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng, từ cán bộ đảng viên, chức sắc tôn giáo hay công dân. Quá trình điều tra, vi phạm tới đâu thì xử lý trách nhiệm tới đó, chứ không có chuyện phân biệt tôn giáo hay ngăn cản tự do tín ngưỡng, không “gây khó” cho các tổ chức tôn giáo.

Ngày 29/5, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp (TPHCM) đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” liên quan đến ổ dịch Hội thánh truyền giáo Phục Hưng. Trao đổi với Cổng TTĐT Chính phủ chiều 31/5, ông Vũ Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, cho biết: Việc khởi tố vụ án này là hoàn toàn đúng pháp luật, vì một số cá nhân liên quan đã không thực hiện phòng ngừa dịch bệnh theo đúng quy định của Chính phủ, Bộ Y tế và chính quyền địa phương như không đảm bảo giãn cách, không thực hiện 5K đầy đủ, không hợp tác khai báo để truy vết, không tự giác trong việc đi xét nghiệm…

Những việc này đã gây hậu quả rất nghiêm trọng cho cộng đồng, cụ thể, liên quan đến ổ dịch này đã có hơn 100 người là F0 và hơn 2.500 người là F1, hơn 60.000 người là F2 tại hơn 10 địa phương, trong đó có TPHCM. Cả hệ thống chính trị đã phải vào cuộc, các lực lượng chuyên trách đang căng mình ra rà soát, truy vết để khống chế dịch, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.

Ông Vũ Chiến Thắng nhấn mạnh, việc khởi tố này không cản trở hay làm khó hoạt động của tổ chức tôn giáo. Trước pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng, từ cán bộ đảng viên, chức sắc tôn giáo hay công dân. Quá trình điều tra, vi phạm tới đâu thì xử lý trách nhiệm tới đó, chứ không có chuyện phân biệt tôn giáo hay ngăn cản tự do tín ngưỡng. Các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đảm bảo quy định phòng chống dịch vẫn hoạt động bình thường theo quy định của Nhà nước bởi suy cho cùng, các tôn giáo hoạt động cũng vì cộng đồng, vì nhân dân.

Vừa qua, chúng ta đã xử lý kỷ luật, cách chức nhiều cán bộ đảng viên vi phạm công tác phòng chống dịch bệnh. Điều này thể hiện sự nghiêm minh, bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người.

“Những người là ca bệnh hoặc F1 hay F2 đều được đưa đi chữa bệnh, cách ly, theo dõi y tế dù đó là cán bộ, công chức hay người dân bình thường. Khu vực nào, kể cả trụ sở cơ quan nhà nước, nếu có ca bệnh đều phải phong tỏa, cách ly để bảo đảm an toàn cho nhân dân. Các tôn giáo khác vẫn chấp hành rất nghiêm quy định về chống dịch trong các lễ trọng, như Đại lễ Phật đản, lễ hội La Vang vẫn thực hiện trực tuyến. Nhiều tôn giáo còn tham gia đóng góp nhân lực, vật lực cho cộng đồng để chống đại dịch, được nhân dân và cộng đồng ghi nhận”, ông Vũ Chiến Thắng nói.

Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, lãnh đạo 43 tổ chức tôn giáo đã cam kết với Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ chấp hành tốt Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ trong phòng, chống dịch và thông điệp 5K của Bộ Y tế; nhiều tổ chức giáo hội đã hướng dẫn tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, tín đồ hạn chế các hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo có đông tín đồ tham dự; tạm dừng hội nghị thường niên, đại hội nhiệm kỳ; tăng cường các hình thức sinh hoạt tôn giáo trực tuyến; thực hiện giãn cách, khẩu trang, khử khuẩn tại cơ sở thờ tự tôn giáo...

 

Chuẩn mực đạo đức của Đảng trong xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay

Hơn lúc nào hết, hiện nay, cần tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng để lãnh đạo đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và hội nhập quốc tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Khi chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong tác phẩm Đường Cách mệnh (1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu Tư cách một người cách mệnh với 23 điểm căn bản. Với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, yêu cầu và nội dung xây dựng Đảng đặt ra nhiều vấn đề lớn lao và mới mẻ trong đó có rèn luyện đạo đức cách mạng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Chương III về Tư cách và đạo đức cách mạng, nhấn mạnh 12 điều về tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Người nêu bật những tính tốt của người cách mạng cần được bồi đắp: NHÂN, NGHĨA, TRÍ, DŨNG, LIÊM. Hồ Chí Minh thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên như non kém về lý luận, tư tưởng không vững vàng, thiếu kiên định mục tiêu chính trị, quan liêu trong phong cách lãnh đạo và khuyết điểm về đạo đức. Biểu hiện kém đạo đức rất nặng nề và tập trung ở sự tham lam, lười biếng, xa hoa, hủ hóa, kiêu ngạo, hiếu danh, hẹp hòi, thiếu kỷ luật,v.v.. Những thứ bệnh nguy hiểm đó đều bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân. Suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do, xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức gắn liền với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng - lý luận và tổ chức. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nhiều cán bộ, đảng viên đã nêu tấm gương sáng về đạo đức cách mạng. Ở mỗi thời kỳ đấu tranh cách mạng, với chiến lược cách mạng cụ thể đã định hình những giá trị chuẩn mực đạo đức nổi bật. Trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và các cuộc kháng chiến cứu nước đã làm nổi bật những tấm gương về nhân cách, đạo đức của những chiến sĩ cộng sản. Trước hết đó là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp đấu tranh của Đảng và dân tộc vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đạo đức của Đảng là thật sự vì nước, vì dân, nêu cao lợi ích của đất nước, dân tộc, Tổ quốc trên hết, độc lập trên hết. Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức và hành động vì lợi ích của dân tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Toàn Đảng chung sức lãnh đạo đấu tranh làm sao cho đất nước được hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân tộc, đồng bào được tự do, hạnh phúc, bảo đảm quyền sống và thoát khỏi sự áp bức, bất công, đau khổ dưới sự thống trị của chế độ thực dân, phong kiến và các thế lực phản động. Đạo đức của Đảng thể hiện ở quyết tâm và kiên cường đấu tranh chống mọi kẻ thù cướp nước và bán nước, cán bộ, đảng viên của Đảng là những chiến sĩ đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh đó. Cuộc đấu tranh đó đã diễn ra rất lâu dài và gian khổ với những thách thức nặng nề. Cuộc đấu tranh đó phải đương đầu với những thế lực đế quốc, thực dân, phản động cực kỳ tàn bạo, có sức mạnh và mưu đồ hiểm độc. Thách thức nặng nề đó khiến cho toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao phẩm chất, ý chí đấu tranh vì phẩm giá, nhân cách con người và tinh thần tự tôn dân tộc. Bền bỉ đấu tranh vượt qua mọi gian khổ hiểm nguy để đi tới chiến thắng là giá trị đạo đức của Đảng. Đạo đức của Đảng là đức hy sinh, giữ vững ý chí và khí tiết của người cộng sản. Những người cộng sản đã hy sinh tuổi thanh xuân, cuộc sống gia đình, hạnh phúc riêng tư, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Dù biết phải hy sinh kể cả hy sinh tính mạng cũng không lùi bước. Luôn luôn đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh, nêu tấm gương sáng trước quần chúng nhân dân. Nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng đã hy sinh trong lao tù đế quốc như Trần Phú, Lê Hồng Phong hoặc ở trường bắn của quân thù như Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ,… Đạo đức của Đảng trong đấu tranh giải phóng dân tộc đã góp phần rèn luyện nhiều thế hệ đảng viên, cán bộ và cả quần chúng trung kiên thành những lớp người đặc biệt mà uy vũ không thể khuất phục, sẵn sàng xả thân vì dân, vì nước, vì nghĩa lớn, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Những người cộng sản luôn luôn đứng ở hàng đầu trong những lớp người đặc biệt đó và được quần chúng nhân dân kính phục, tin cậy và noi theo. Giá trị đạo đức đó cũng là cội nguồn sức mạnh của Đảng, của cách mạng để đi đến thắng lợi. Thời kỳ Đảng lãnh đạo xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa và thực hiện công cuộc đổi mới, những giá trị đạo đức của thời cách mạng giải phóng và chiến tranh cứu nước tiếp tục được kế thừa, phát triển và lan tỏa. Đại hội XII của Đảng (1-2016) nhấn mạnh xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta nêu rõ nội dung xây dựng Đảng về đạo đức. Cùng với xây dựng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, chú trọng xây dựng tổ chức đảng và công tác cán bộ, phải rất đề cao giáo dục đạo đức cách mạng trong Đảng và cũng đòi hỏi từng cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đặc biệt học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chặng đường mới cũng đặt ra nhiều thách thức mới từ vị trí cầm quyền của Đảng và trách nhiệm lớn lao của mỗi cán bộ, đảng viên đòi hỏi quyết tâm mới để vượt qua hoàn cảnh và vượt qua chính mình trước những cám dỗ vật chất, lợi ích cá nhân và tham vọng quyền lực. Nhiều đồng chí đã giữ vững truyền thống đạo đức của Đảng, hết lòng vì sự phát triển, phồn vinh của đất nước, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện, học tập dẫn tới sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10-2016) đã thẳng thắn chỉ ra. Những hạn chế, khuyết điểm và sự suy thoái đó đã “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Hơn lúc nào hết, hiện nay cần tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng để lãnh đạo đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và hội nhập quốc tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Trước yêu cầu đó, rất cần thiết phải tổng kết sâu sắc hơn những vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức từ trước tới nay và đề ra được những tiêu chí về đạo đức của Đảng trong hoàn cảnh hiện nay. Đạo đức của Đảng trong thời kỳ mới là hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, “dĩ công vi thượng”. Cương lĩnh, đường lối của Đảng đã thể hiện điều đó. Chỉ đạo và hoạt động thực tiễn của toàn Đảng, mọi tổ chức đảng hướng tới chuẩn mực đó. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phấn đấu để làm tốt điều đó. Đó là giá trị đạo đức mới hiện nay. Để đạt tới chuẩn mực đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải đề cao tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân, thái độ vì dân. Thật sự trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân. Phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, vì sự hùng cường của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Coi trọng hành động, những việc làm cụ thể vì mục tiêu cao cả đó. Chuẩn mực đạo đức đó đòi hỏi phải kiên quyết phê phán, chống chủ nghĩa cá nhân trong mỗi người cán bộ, đảng viên. Chống lối sống ích kỷ, tham lam, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, thu vén cá nhân, không quan tâm đến tập thể, đến lợi ích chung. Cần nhấn mạnh, đạo đức của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên là cần kiệm liêm chính, không tham ô, tham nhũng, lãng phí, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Đây là chuẩn mực thể hiện lương tâm, danh dự và nhân cách, tư cách của người cách mạng. Chuẩn mực đó đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải làm việc với chất lượng và hiệu quả cao nhất với những nhiệm vụ được giao, không thờ ơ, thiếu trách nhiệm, vô cảm trong công việc. Thói vô trách nhiệm, né tránh công việc đang làm tổn hại, cản trở sự phát triển và làm cho sự lãnh đạo, quản lý trì trệ, kém hiệu quả, hiệu lực. Cần kiên quyết phê phán, đấu tranh ngăn chặn hành động tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn câu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Sống bằng kết quả lao động, cống hiến và thu nhập hợp pháp, kê khai trung thực, minh bạch tài sản riêng. Không lợi dụng, lạm dụng quyền lực được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực. Kiên quyết chống những biểu hiện phe cánh, lợi ích nhóm. Mọi cán bộ, đảng viên sống và làm việc tuân thủ kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trung thực đoàn kết, không làm điều gì khuất tất, không đưa người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn, điều kiện vào các cơ quan hoặc vị trí lãnh đạo, quản lý. Chống tham nhũng không chỉ bảo vệ tiền bạc, tài sản công để không gây thiệt hại về kinh tế mà còn là vấn đề chính trị, sự vững mạnh của chế độ, niềm tin của nhân dân và cũng là vấn đề đạo đức, vì sự trong sạch trong đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đạo đức của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay là không quan liêu, xa rời quần chúng, khiêm tốn, giản dị, giữ gìn lối sống trong sạch, đề cao các giá trị văn hóa, nhân văn. Gắn bó mật thiết với nhân dân là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Từ phong trào cách mạng của quần chúng mà xây dựng Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên trưởng thành. Bài học lấy dân làm gốc cần được nhận thức và hành động đúng ở mọi thời kỳ cách mạng. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới, bài học đó có ý nghĩa to lớn động viên sức dân trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước. Gắn bó với nhân dân, thật sự vì lợi ích của nhân dân, là vấn đề lớn trong đạo đức cách mạng. Làm tốt được điều đó là khắc phục được bệnh quan liêu - một nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã nêu rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống là: “Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”. Phải thật sự tin dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của dân, bàn bạc với nhân dân, chăm lo cho lợi ích của nhân dân. Nếu có khuyết điểm thì thật thà nhận lỗi trước nhân dân và cùng với nhân dân sửa chữa. Giữ gìn lối sống lành mạnh, không “sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội”. Đạo đức của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay đòi hỏi đề cao tính trung thực, tình thương yêu đồng chí, sống nhân ái, nghĩa tình. Sinh thời Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Tình là tình cảm chân thật, nghĩa là trách nhiệm, cần sống “ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có gì phải giấu Đảng”. Đó là sự trung thực. Mọi việc Đảng giao cho dù to hay nhỏ phải cố gắng hoàn thành cẩn thận. Hiện nay, phải khắc phục biểu hiện thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, gió chiều nào che chiều ấy, dĩ hòa vi quý. Đó là sự thiếu trung thực ảnh hưởng đến sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và cũng là biểu hiện suy giảm về đạo đức. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã nêu rõ những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống cần phải phê phán, loại bỏ như “ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình”, “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền, độc đoán, gia trưởng, thiếu chỉ đạo trong chỉ đạo, điều hành”. Những biểu hiện đó là trái với đạo đức cách mạng của Đảng mà Hồ Chí Minh chú trọng rèn luyện, trái với đạo đức công vụ trong bộ máy nhà nước và ảnh hưởng xấu đến đạo đức của xã hội. Đạo đức trong Đảng hiện nay cần thiết nhấn mạnh sự gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Gương mẫu trong công việc, trách nhiệm được giao; gương mẫu về phẩm chất, nhân cách, lối sống; gương mẫu trong phong cách làm việc dân chủ, khoa học, gần dân, sát thực tế, thống nhất giữa nói và làm; gương mẫu trong hưởng thụ quyền lợi vật chất. Đảng viên nêu gương trước quần chúng, cán bộ lãnh đạo, quản lý nêu gương trước nhân viên, cấp trên nêu gương trước cấp dưới. Người có chức vụ, trách nhiệm càng cao, trách nhiệm nêu gương càng lớn. Sự hoàn thiện đạo đức trong Đảng với những tấm gương sáng về đạo đức của cán bộ, đảng viên có ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn đến những giá trị đạo đức của toàn xã hội, của dân tộc. Hồ Chí Minh mong muốn dân tộc Việt Nam phải là một dân tộc văn minh, thông thái, có đạo đức. Điều đó làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, dân tộc Việt Nam nhân ái trở thành biểu tượng tốt đẹp trong tình cảm của bạn bè quốc tế. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” (1). Thấm nhuần lời dạy đó của Người, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, nhiệm vụ và mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức đang đặt ra bức thiết. Cần thiết có sự thống nhất nhận thức và quyết tâm hành động góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế./.

CÁN BỘ PHẢI VỪA XÂY VỪA RÈN ĐỨC LIÊM CHÍNH

Đức liêm chính của một người đối lập với một số biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân như: 1) “Địa phương cục bộ”, chỉ chăm chút và vun vén cho địa phương hoặc bộ phận mình phụ trách mà không nghĩ tới toàn cục, đến lợi ích chung, gây tổn hại đến lợi ích chung của đất nước. 2) Óc hẹp hòi, cánh hẩu, lợi ích nhóm, chỉ luôn “dễ” mình và những người cùng phe nhóm mình và “khó” với những người không “cùng hội cùng thuyền với mình” dù đó là người tài, người tốt, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, Đảng mất cán bộ và hỏng công việc chung. 3) Quan liêu và tham ô, tham nhũng, làm trái phép nước, coi thường pháp luật, gây bức xúc trong nhân dân... Sớm tiên lượng nguy cơ suy thoái, sa vào bất liêm, bất chính của đội ngũ cán bộ, đảng viên khi được trao/ủy quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “những người ở các công sở, từ làng cho đến Chính phủ trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét nhân dân”. Do đó, để ngăn ngừa tình trạng “tư túi”, không “dốc lòng phục vụ, tận tụy phục vụ” Tổ quốc và nhân dân, Người đã cảnh báo: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[17]. Những người dùng quyền lực mình được trao cho/ủy thác để mưu cầu lợi ích cá nhân đã sa vào chủ nghĩa cá nhân, đã quên lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân”[18] và “khi lộ ra, bị phạt, thì mất hết cả danh giá, mà của phi nghĩa đó cũng không được hưởng”[19]. Theo Hồ Chí Minh: Muốn liêm chính, “những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu… Mình là người làm việc công, phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người tài năng, làm được việc… Chớ lên mặt làm quan cách mệnh”[20]; phải nỗ lực học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt và năng lực công tác: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”[21]. Vì thế, để liêm chính, mỗi người cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thường xuyên sửa chữa sai lầm, khuyết điểm để xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trong bất cứ điều kiện nào, hoàn cảnh nào, cũng phải chí công vô tư, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết và khi lợi ích của Đảng mâu thuẫn với lợi ích cá nhân, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng… Trong những năm qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, công tác cán bộ, phòng và chống tham ô, tham nhũng, quan liêu nói riêng được đẩy mạnh. Tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, trong từng lĩnh vực công tác, đội ngũ cán bộ đã gắn việc rèn luyện "cần kiệm liêm chính" với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, với thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Trong bản cam kết và đăng ký thi đua hằng năm, mỗi cán bộ nói chung, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị nói riêng đã căn cứ theo 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để rèn luyện và tự soi, tự sửa mình, nâng cao bản lĩnh chính trị, gương mẫu về đạo đức, lối sống, hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn một bộ phận cán bộ, kể cả cán bộ giữ trọng trách cao suy thoái về đạo đức, lối sống. Với những "con sâu mọt" bất liêm, bất chính này, những gì mang lại lợi ích cho mình, phe nhóm mình là quan trọng nhất và trước hết chứ không phải là lợi ích chung của Đảng, của nhân dân. Thậm chí, họ không từ một thủ đoạn nào, kể cả vi phạm pháp luật và Điều lệ Đảng và Quy định về những điều đảng viên không được làm để trao đổi, mua bán, ban phát, trục lợi, chiếm đoạt tài sản, tiền bạc cho mình và phe nhóm mình, gây bức xúc trong nhân dân... Những thói hư, tật xấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ nói chung, người lãnh đạo, quản lý, đứng đầu các đơn vị nói riêng bị tha hóa và suy thoái này đã dẫn đến tình trạng cánh hẩu, phường hội cát cứ, phe nhóm lợi ích, địa phương chủ nghĩa theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối sách”, hành xử theo lối nói một đằng, làm một nẻo, nói không đi đôi với làm, nói hay, làm dở ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị. Những biểu hiện suy thoái của họ về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không chỉ xâm hại lợi ích chung mà còn gây tác động xấu, làm phân liệt ý chí và tan rã sức mạnh đoàn kết, thống nhất nội bộ; làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng, làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, trở thành một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn sự bất liêm, bất chính của một bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ có chức quyền cao lạm dụng, trục lợi từ quyền lực, Đảng đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống tham ô, tham nhũng trên tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” như Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định. Trong 6 tháng đầu năm 2019, các cơ quan điều tra “đã kết thúc xác minh, giải quyết 24 vụ việc; mở rộng điều tra, khởi tố mới 5 vụ án, phục hồi điều tra 4 vụ án, khởi tố thêm 26 bị can; kết thúc điều tra 3 vụ án/19 bị can, ban hành cáo trạng truy tố 6 vụ án/27 bị can. Đồng thời, các cơ quan đã xét xử sơ thẩm 9 vụ án/21 bị cáo, xét xử phúc thẩm 10 vụ án/149 bị cáo”. Trên tinh thần “làm nghiêm từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, pháp luật và kỷ luật của Đảng” và “kỷ luật một vài người để cứu muôn người”, trong 6 tháng cuối năm 2019, tiếp tục có thêm nhiều cán bộ cấp cao bị kỷ luật, thậm chí phải chịu trách nhiệm hình sự. Đó là, ông Hoàng Trung Hải, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, bị đề nghị kỷ luật vì có vi phạm, khuyết điểm trong thời gian giữ cương vị Phó thủ tướng đã cho một số ý kiến chỉ đạo đối với Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn II - Công ty Gang thép Thái Nguyên (Dự án TISCO II); là 2 cựu Bộ trưởng bộ Thông tin và truyền thông Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn trong vụ án MobiFone mua 95% cổ phần AVG. Cả hai ông đều bị cáo buộc đã vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng và “nhận hối lộ”. Cả hai phải hầu tòa sơ thẩm; trong đó, ông Son nhận hối lộ 3 triệu đô la (đã khắc phục) bị tuyên án chung thân, ông Tuấn nhận hối lộ 200 ngàn đô la (đã khắc phục) bị tuyên án 14 năm tù… Cũng trong năm 2019, Bộ Giao thông vận tải có 4 thứ trưởng và nguyên thứ trưởng bị kỷ luật vì có những vi phạm nghiêm trọng, thiếu trách nhiệm, buông lỏng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra việc cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại một số doanh nghiệp thuộc Bộ. Trong đó, Thứ trưởng Nguyễn Văn Công bị kỷ luật cảnh cáo; ông Nguyễn Ngọc Đông và Nguyễn Nhật cùng nhận hình thức kỷ luật khiển trách. Còn nguyên Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường bị Ban Bí thư kỷ luật bằng hình thức cách chức vụ trong Đảng và bị xóa tư cách nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải giai đoạn 2011-2015, 2016-2017. Ở Bộ Tài chính, Thứ trưởng Huỳnh Quang Hải bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật với mức cảnh cáo vì những vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống và các quy định của Đảng, về trách nhiệm nêu gương. Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang Triệu Tài Vinh - Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương bị đề nghị kỷ luật vì những vi phạm về Quy định trách nhiệm nêu gương khi để người thân tác động nâng điểm cho con trong kỳ thi tốt nghiệp THPT... Ngày 10/1/2020, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng trong phát biểu chỉ đạo hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng năm 2019, triển khai nhiệm vụ năm 2020 đã nhấn mạnh: Từ năm 2016 đến nay, đã thi hành kỷ luật 1.111 tổ chức Đảng, 18.265 cấp ủy viên các cấp và 54.573 đảng viên. Trong đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 8 tổ chức Đảng, 45 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 111 đảng viên. Trong số đảng viên bị kỷ luật, có 92 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, gồm: 2 ủy viên Bộ Chính trị, 21 ủy viên và nguyên ủy viên Trung ương Đảng, 38 sĩ quan trong lực lượng công an, quân đội (cấp tướng là 23 người)… Để khắc phục những hạn chế nêu trên và để xây dựng đội ngũ cán bộ tài đức vẹn toàn, liêm chính trong công tác và cuộc sống đời thường ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, nhất là để phục vụ tốt cho việc chuẩn bị nhân sự đại hội Đảng bộ các cấp và nhân sự Trung ương khóa XIII, tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau: Một là, trong chương trình, kế hoạch, nội dung công tác của cấp ủy, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, với việc thực hiện các Quy định về những điều đảng viên không được làm, về nêu gương… Chú trọng công tác cán bộ; nâng cao chất lượng quy hoạch cấp uỷ, bảo đảm nguồn cán bộ có đủ năng lực, trình độ, tiêu chuẩn, phẩm chất đạo đức, năng lực và kỹ năng lãnh đạo, điều hành, quản lý, xử lý hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra gắn với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu theo chương trình hằng năm và đột xuất tại mỗi tổ chức cơ sở Đảng để thông qua đó, một mặt, gột rửa khuyết điểm, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, “đầu cơ chính trị”, “lợi ích nhóm”, xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa,v.v..; mặt khác, nâng cao bản lĩnh chính trị, phòng và chống sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết không để lọt vào cấp uỷ khoá mới những người có tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, quan liêu, tham nhũng, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính...Vào cấp uỷ không phải để thăng tiến cho oai, cho sang, để vinh thân phì gia mà là để cống hiến, hy sinh, vì dân, vì nước. Hai là, xuất phát từ thực tiễn cơ sở để nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo và chỉ đạo (từ quán triệt đến đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống) gắn với nhiệm vụ chính trị trên tinh thần: Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, phải hết sức tránh. Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phát huy vai trò nêu gương, thống nhất xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện, giữa nói và làm; bám sát cơ sở, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa vào dân và thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ để củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Ba là, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đồng thời, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác giám sát, kiểm soát cán bộ, để “giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”[22]. Theo đó, mỗi người cán bộ phải nghiêm túc tiếp thu, sửa chữa kịp thời những phê bình, góp ý đúng đắn của nhân dân và khuyến khích nhân dân thực hiện vai trò giám sát của mình một cách tự nguyện, tự giác. Coi sự đánh giá của nhân dân là thước đo chính xác, là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của cấp ủy các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong mọi mặt công tác, nhất là trong quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ, để hạn chế được tiêu cực, phát huy đoàn kết thống nhất và lựa chọn được những người thật xứng đáng, chuẩn bị nhân sự không chỉ cho Trung ương mà còn ở tất cả các ngành, các cấp. Bốn là, mở rộng và đổi mới công tác truyền thông, tăng cường các chuyên trang, chuyên mục về xây dựng Đảng, về học và làm theo Bác, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông để đảm bảo sức mạnh của công luận và nhân dân, nhất là trong tuyên truyền các tấm gương người tốt, việc tốt, lấy cái tích cực chống cái tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu để nhân rộng những gương điển hình trong cộng đồng. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của cả hệ thống chính trị đối với đội ngũ cán bộ trên tinh thần thấu triệt nguyên tắc kỷ luật là tối thượng, pháp luật là thượng tôn; kịp thời phát hiện và đưa ra khỏi Đảng một cách công minh, kịp thời, bình đẳng những kẻ sâu mọt không còn liêm chính để làm trong sạch Đảng, để Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, góp phần củng cố niềm tin, sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng./.

LIÊM CHÍNH TẠO NÊN SỨC HẤP DẪN CỦA NGƯỜI CÁN BỘ

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”[1] và “trong xã hội, không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”[2], nên đội ngũ cán bộ/những người được nhân dân ủy thác phải luôn thấu triệt rằng: Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ, chức vụ/quyền hạn của người cán bộ là do nhân dân ủy nhiệm. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, mỗi người phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, nhất là phải thường xuyên rèn luyện, thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính” vì “thiếu một đức, thì không thành người”[3]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: LIÊM “là trong sạch, không tham lam”, là “không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình”[4]. Trái ngược với LIÊM, thì người “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM”[5], cho nên cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân. Người có đức Liêm là người liêm sỉ, biết phải trái, đúng sai và hổ thẹn khi làm điều xấu; đồng thời, biết tự răn mình để tránh điều xấu, để tâm trí luôn trong và sáng. Sự thanh liêm của họ sẽ tự tỏa sáng và hấp dẫn những người xung quanh. Vì, đức Liêm của người cán bộ sẽ tạo lòng tin của nhân dân, cho nên, nếu không có hoặc thiếu Liêm “mà muốn được lòng dân, thì cũng như bắc dây leo trời”[6], cho nên, cán bộ phải nhất thiết phải Liêm, phải thực hành chữ Liêm, “tuyệt đối không đem của công dùng vào việc tư, không động đến cái kim sợi chỉ của dân;... mua bán phải công bình, mượn cái gì phải trả tử tế, hỏng cái gì phải bồi thường”[7], nhất là “mỗi người phải nhận rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước với dân”[8]… Không chỉ có vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu cán bộ phải có trách nhiệm giáo dục đức liêm cho người khác, nếu không, dù họ trong sạch đến mấy vẫn chỉ là “Liêm một nửa”[9]. Đồng thời, với nâng cao trình độ dân trí của nhân dân, để “dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm, cũng phải hóa ra Liêm”[10] là việc pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề gì. Sự hòa quyện chặt chẽ giữa đức trị và pháp trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là Người không chỉ đề cao chữ Liêm; kiên trì giáo dục cán bộ thực hành đức Liêm: “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là Liêm, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp... Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người đều phải Liêm”[11], mà còn ban hành nhiều sắc lệnh và đạo luật để răn đe, ngăn chặn, trừng trị những kẻ bất liêm, như Quốc lệnh (ký ngày 26/1/1946) quy định hai vấn đề trọng yếu là thưởng và phạt, trong đó quy định tội trộm cắp của công phải bị tử hình. CHÍNH theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc của CHÍNH. Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”[12]. Đức Chính đòi hỏi con người phải có sự chính trực, dũng cảm đấu tranh với cái xấu để bảo vệ lẽ phải; chi phối mọi công việc, mọi con người trong xã hội, do đó, Chính là đức khó thực hiện nhất trong "tứ đức", là sự biểu hiện đầy đủ nhất của nhân cách con người. Với ý nghĩa đó, muốn là một cán bộ liêm chính (trong sạch, ngay thẳng: người liêm chính không có lòng tư túi[13]) trong công tác và cuộc sống đời thường để xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, thì mỗi người: 1) Đối với mình, phải “chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”[14], vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. 2) Đối với người, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”[15]. 3) Đối với việc, “phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm”[16]. Uy tín của Đảng cầm quyền nói chung, của người cán bộ nói riêng gắn liền với sự tu dưỡng và gương mẫu về đạo đức cách mạng, thực hành liêm chính cả trong suy nghĩ và hành động. Nếu người cán bộ không tu dưỡng đạo đức cách mạng, không gương mẫu thực hành liêm chính thì không thể hấp dẫn, quy tụ, lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Vì thế, thực hiện liêm chính, thường xuyên rèn luyện đức liêm chính không chỉ là yêu cầu cần thiết trong tu dưỡng đạo đức, rèn luyện “tứ đức” của người cán bộ mà còn là biện pháp quan trọng để xây dựng Đảng về đạo đức; không chỉ giúp người cán bộ tự soi, tự sửa, tự rèn mình mà còn tạo ra sức mạnh mềm và sức hấp dẫn của một tổ chức, của cả một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh và tiến bộ”. Sự tu dưỡng, rèn luyện đức liêm chính sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, gương mẫu về đạo đức cách mạng, giàu đức hy sinh, phụng sự Tổ quốc và nhân dân với tinh thần vfa quyết tâm: giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.

Bác bỏ luận điệu xuyên tạc bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đều cho thấy, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất rõ ràng và chặt chẽ; phản ánh đúng lý luận, thực tiễn và cả những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết. Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 -19/5/2021) và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 (23/5/2021), ngày 16/5/2021, GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam công bố bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Ngay sau đó, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cố tình lèo lái, cắt cúp, sử dụng ngôn ngữ vừa kích động vừa mị dân, dẫn dắt có chủ ý để không chỉ dừng lại ở sự xuyên tạc nội dung bài viết của Tổng Bí thư mà sâu xa hơn chính là âm mưu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, thổi phồng những hạn chế trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, những tồn tại trong công tác quản lý kinh tế... để gây hoang mang, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân; làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng, với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì thế, để tiếp tục kiên định con đường đã chọn, thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống, việc mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hiểu đúng bản chất vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, thấu triệt nguyên tắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và đó là sự thật không thể phủ nhận… trong bài viết của Tổng Bí thư là rất quan trọng, rất cần thiết. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ GÌ VÀ VÌ SAO PHẢI ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI? Trong bài viết của mình, Tổng Bí Thư nêu rõ: "Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ... Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay". Chủ nghĩa xã hội dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh, "nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động"(1); "là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom"(2); "chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt"(3)… Vì thế, "nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(4). Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(5). Vì thế, về bản chất, chủ nghĩa xã hội được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó chính là một chế độ xã hội do Đảng Cộng sản lãnh đạo; trong đó, nhân dân lao động làm chủ và mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; là xã hội luôn chăm lo đến lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của mỗi người dân. Đó là một xã hội kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể và lợi ích xã hội, giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ; đồng thời, cũng là một xã hội mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người,v.v.. Chủ nghĩa xã hội thực sự là một chế độ mới, khác biệt, ưu việt, đầy tính nhân văn so với các chế độ xã hội trước đó như công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa và đó là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, mà việc xây dựng, hoàn thiện nó là một quá trình lịch sử lâu dài, để từng bước đạt tới mục tiêu. Từ đó, có thể thấy, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội được Tổng Bí thư khẳng định trong bài viết: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới"… là hoàn toàn phù hợp lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là bởi rằng, trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(6). Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã lựa chọn và đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để xác định rằng: 1) Phải thành lập Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc; 2) Đảng phải lãnh đạo nhân dân tiến hành giải phóng dân tộc bằng một cuộc cách mạng vô sản và bước phát triển tiếp theo là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Luận cứ để độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có thể trở thành hiện thực sinh động ở Việt Nam chính là cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản; là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội và điều kiện trước hết chính là “muốn cách mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(7)… Vì thế, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa được chỉ rõ là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(8) - tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện chứng; trong đó: Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc lập dân tộc và đó là cơ sở; còn đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc, xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Dưới ngọn cờ độc lập, tự do có hướng đích chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa) - mục tiêu định hướng tương lai của dân tộc Việt Nam là sự lựa chọn chính xác, đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ thập niên 1930, đã góp phần khơi nguồn sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhận thức rõ, độc lập dân tộc - điều kiện đầu tiên để xây dựng và phát triển đất nước chỉ được bảo đảm vững chắc khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội và giành được độc lập dân tộc mà không đi lên chủ nghĩa xã hội thì chẳng những không bảo vệ được độc lập dân tộc mà còn không thể mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng ta, nhân dân ta đã luôn kiên định thực hiện; đồng thời, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng được tiếp tục bổ sung, phát triển, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam qua văn kiện các kỳ Đại hội Đảng. XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ĐƯỢC TIẾN HÀNH NHƯ THẾ NÀO? Xuyên suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội đều khẳng định nhất quán độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội II (1951), Đảng khẳng định, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và nước Việt Nam sẽ thành một nước xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ II, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) đã giành được thắng lợi. Với Hiệp định Giơnevơ (20/7/1954), miền Bắc được giải phóng đã từng bước khôi phục, cải tạo kinh tế, xã hội, văn hóa và đi lên chủ nghĩa xã hội; còn ở miền Nam, đồng bào ta tiếp tục thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng, thực hiện khát vọng thống nhất nước nhà. Đại hội Đảng lần thứ III (1960) - Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà đã xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Khi miền Bắc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ rằng: “Ở miền Bắc, chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta... Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc"(9). Đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh cách mạng ở miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ sau 21 năm gian nan, thử thách đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Miền Nam được giải phóng, hai miền Nam - Bắc đã sum họp một nhà. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, cả nước thống nhất, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vững bước trên hành trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta, nhân dân ta kiên định thực hiện, nhất là trong hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, bất chấp sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, bất chấp sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA? Trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh, Đảng ta, nhân dân ta không chỉ kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà còn xác định rõ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nội dung quan trọng này đã được khẳng định từ trong Chương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, trong văn kiện từ Đại hội II đến Đại hội VI và tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh 1991(Đại hội VII): "Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp"(10) và “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau”(11). Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xuất phát từ thực tiễn, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp đúng như Nghị quyết Đại hội VIII (1996) của Đảng nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”(12). Tại Đại hội IX (2001), Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(13) và "con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"(14). Cùng với đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội cũng khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn, với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời, nhấn mạnh bài học số một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng (Cương lĩnh 2011) đã nêu những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng cơ bản, 8 phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của con đường phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Như vậy, có thể thấy “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(15) và trong hơn 9 thập niên lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều khẳng định con đường duy nhất đúng để đất nước phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việc Đảng quyết định đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội và cả nước đồng thời thực hiện 2 chiến lược cách mạng ở hai miền; quyết định đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi nước nhà thống nhất; tiến hành sự nghiệp đổi mới và tiếp tục kiên định hành trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hơn 35 năm qua… chính là sự lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, kiên định và sáng tạo của Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế giới có thể đổi thay, song con đường đó là phù hợp quy luật, đúng như Đảng khẳng định tại Đại hội XII (2016): “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(16). Vì thế, từ lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư đã khẳng định trong bài viết của mình rằng, "lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa". Hơn nữa, thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội cho thấy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực của nhân dân. Việc phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc được chú trọng… chính là thành tựu về lý luận của Đảng, là kết quả sự tổng kết thực tiễn và tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những thành tựu của về văn hóa của nhân loại… Đồng thời, việc "đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng". Bởi, thực tiễn công cuộc đổi mới cho thấy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách, trong suốt quá trình phát triển và đó chính là/được coi là công cụ, phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng mô hình kinh tế tổng quát ở Việt Nam... Vì thế, những luận điểm của Tổng Bí thư nêu ra trong bài viết là khoa học, thuyết phục, không chủ quan, duy ý chí; là minh chứng sắc bén bác bỏ sự xuyên tạc, xảo trá của các đối tượng cơ hội, phản động, thù địch… Hơn nữa, trong bài viết của mình, Tổng Bí thư đã không chỉ trả lời rất rõ, lập luận sắc sảo về những nội dung đã nêu ra mà còn khẳng định rõ: Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp. Việc đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại, cho nên lại càng khó khăn, phức tạp; cho nên nhất thiết phải trải qua một thời kỳ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới… Đây chính là gắn lý luận với thực tiễn, không hề mơ hồ, càng không ảo tưởng như các luận điệu thù địch xuyên tạc. Tổng Bí thư xác định: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm"; "xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm"; "Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”… Đây chính là sự cụ thể hóa Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011, Nghị quyết các kỳ Đại hội; thể hiện rõ tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội; là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội; là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi, dù thế giới có đổi thay! Bên cạnh đó, trong bài viết, Tổng Bí thư khẳng định những thành tựu của chủ nghĩa tư bản là không thể phủ nhận: “Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ”… Tuy nhiên, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (chỉ bỏ qua những mặt hạn chế của chủ nghĩa tư bản như áp bức, bất công, bóc lột...), song không bỏ qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. Cuối bài viết, Tổng Bí thư cũng đã chỉ ra những hạn chế cần phải khắc phục như: Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững… Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp… Về xây dựng và chỉnh đốn Đảng: tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên... Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam… Vì thế, việc Tổng Bí thư khẳng định: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh"; đồng thời, kết luận rằng vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng; sự kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự đồng lòng, đoàn kết của nhân dân chính là nguồn sức mạnh sâu xa, cội nguồn của thắng lợi và sự phát triển… chắc chắn không phải là "sự hoang tưởng", lại càng không phải là "cái bánh vẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam" như các thế lực thù địch bôi nhọ, phủ nhận. Lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đều cho thấy, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất rõ ràng và chặt chẽ; phản ánh đúng lý luận, thực tiễn và cả những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết. Bài viết không chỉ thể hiện tầm nhìn xa, tư duy sắc sảo mà còn cho thấy bản lĩnh chính trị của người đứng đầu Đảng trước những đổi thay của tình hình trong nước và quốc tế, góp phần giúp mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân nhận thức sâu sắc hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - đi đến tương lai tươi sáng của dân tộc để không dao động, không ngả nghiêng trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời, nêu cao tinh thần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, kiên định và làm tròn trách nhiệm của mình cao hơn nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045 như Nghị quyết Đại hội XIII đã nêu ra./.

Quân khu 7 sẽ phun hóa chất khử trùng quận Gò Vấp

TP HCMNhiều khu vực có nguy cơ cao sẽ được quận Gò Vấp và phường Thạnh Lộc, quận 12 phối hợp Quân khu 7 phun hóa chất tiêu độc vào ngày mai. Dự kiến đoàn công tác gồm xe đặc chủng của Quân khu 7 bắt đầu phun từ công viên Gia Định đến các địa bàn phát hiện các ca bệnh như: đường Nguyễn Văn Công, khu vực phường 15, phường 3, công viên phần mềm Quang Trung... Theo bác sĩ Nguyễn Trung Hòa, Giám đốc Trung tâm Y tế quận Gò Vấp, những nơi có nguy cơ cao sẽ được phun khử trùng để phòng dịch. Tại phường Thạnh Lộc, quận 12, dự kiến phun tại 7 địa điểm, tuyến đường gồm: quốc lộ 1, Hà Huy Giáp, 3 khu vực có ca nhiễm và 2 khu vực trung tâm của phường. "Hóa chất được Quân khu 7 cung cấp dùng trong công tác phòng chống dịch, không gây hại cho sức khỏe của người dân", ông Hồ Tấn Thành, Chủ tịch phường Thạnh Lộc nói. Từ 0h 31/5, quận Gò Vấp và phường Thạnh Lộc áp dụng biện pháp phong tỏa 15 ngày theo Chỉ thị 16, với nguyên tắc "gia đình cách ly gia đình, khu phố cách ly khu phố, phường cách ly phường". Chính quyền quận Gò Vấp đã lập 10 chốt kiểm song đến trưa nay đã tạm thời cho xe chạy qua địa bàn do giao thông ùn tắc. TP HCM ghi nhận hai cụm dịch liên quan Hội thánh Truyền giáo Phục hưng và hai vợ chồng ở quận Tân Phú với 149 ca nhiễm sau 5 ngày. Hiện, thành phố cách ly tập trung 4.524 người, 5.945 trường hợp cách ly tại nhà, nơi lưu trú.

500 sinh viên y khoa TP HCM chi viện chống dịch

Sinh viên Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Y dược TP HCM và Nguyễn Tất Thành được huy động tổng cộng 500 người để hỗ trợ HCDC lấy mẫu xét nghiệm, điều tra dịch tễ. Tối 31/5, hơn 30 sinh viên Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch bắt đầu tham gia hỗ trợ phòng chống Covid-19 tại quận Gò Vấp, lấy mẫu xét nghiệm tại khu dân cư. Nhóm này được bổ sung cho hơn 120 sinh viên đã ra quân hai ngày trước - làm việc tại các điểm "nóng" dịch bệnh ở quận 12, Gò Vấp, Tân Phú. Việc tăng cường này diễn ra sau khi Chủ tịch UBND TP HCM Nguyễn Thành Phong đề nghị Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và Đại học Y dược TP HCM huy động sinh viên năm cuối tham gia lấy mẫu xét nghiệm. Với kế hoạch xét nghiệm trên diện rộng, công suất 50.000 mẫu mỗi ngày, lực lượng y tế thành phố phải huy động người từ các bệnh viện và sinh viên ngành y. Trước đó, 60 sinh viên Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch đã làm việc tại HCDC từ đầu tháng 5, hỗ trợ điều tra dịch tễ, nhập liệu và quản lý dữ liệu ca bệnh. Tính đến nay, trường này có hơn 210 sinh viên tham gia chống dịch. Ngoài ra, 180 sinh viên khác cũng tình nguyện đăng ký chi viện khi cần. Họ phần lớn là sinh viên năm cuối ngành Y khoa, Răng hàm mặt, Dược, Điều dưỡng, Kỹ thuật Y học, Y tế Công cộng. Tất cả đều được tập huấn kiến thức và kỹ năng điều tra dịch tễ, nhập liệu và quản lý dữ liệu ca bệnh, giám sát và kiểm soát nguy cơ lây nhiễm dịch trong doanh nghiệp, xét nghiệm. PGS Nguyễn Thanh Hiệp, Phó hiệu trưởng điều hành Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, cho rằng đây là cơ hội lớn để sinh viên ngành Y tác nghiệp trong môi trường thực tế với mức nguy cao. Việc này sẽ giúp sinh viên trưởng thành hơn về kỹ năng, nhận thức về trách nhiệm với cộng đồng và tích luỹ nhiều kinh nghiệm. Tại Đại học Y dược TP HCM, hơn 200 sinh viên Khoa Y tế công cộng đang phối hợp chống dịch cùng HCDC. Tất cả được tập huấn kỹ cách mặc trang phục bảo hộ, kỹ năng khai thác thông tin dịch tễ, lấy mẫu xét nghiệm. Sinh viên được chia thành nhiều nhóm với nhiều ca trực, nhiều nhiệm vụ khác nhau như: lấy mẫu xét nghiệm, truy vết, theo dõi chuỗi ca bệnh, hỗ trợ hiện trường, hỗ trợ công tác nhận mẫu, chuyển mẫu, theo dõi kết quả, báo cáo ngày. 91 sinh viên các ngành Y khoa, Y học dự phòng, Điều dưỡng Đại học Nguyễn Tất Thành cũng được hỗ trợ HCDC. Họ chia làm 3 nhóm với các nhiệm vụ tương tự như trường bạn. Nhiều sinh viên đội tình nguyện đã tham gia chống dịch ở những lần trước, trong suốt hai năm qua. Dù công việc vất vả với độ nguy hiểm cao, song tất cả đều nỗ lực bởi đây là cơ hội học nghề quý giá. Tương tự, ở phía Bắc, hàng nghìn giảng viên, sinh viên các đại học Y Hà Nội, Y dược Hải Phòng, Kỹ thuật Y tế Hải Dương, Y dược Thái Nguyên, Điều dưỡng Nam Định, Học viện Y dược học cổ truyền, Học viện Quân y chi viện Bắc Giang, Bắc Ninh để tăng cường lấy mẫu xét nghiệm.

Hà Nội giám sát người đến từ TP HCM

Những người từ TP HCM đến Hà Nội từ ngày 16/5 trở lại đây phải khai báo y tế, tự theo dõi sức khỏe và liên hệ ngay với cơ sở y tế nếu có triệu chứng Covid-19. Tại cuộc họp Ban Chỉ đạo phòng chống Covid-19 Hà Nội chiều 31/5, Phó chủ tịch UBND thành phố Chử Xuân Dũng yêu cầu các quận, huyện, thị xã kiểm soát chặt người đến, về Hà Nội. "Người dân từ tỉnh thành ngoài về thành phố phải chủ động theo dõi sức khỏe, tự cách ly y tế tại nhà. Với người về từ vùng dịch hay nơi phong tỏa thì phải khai báo cụ thể với tổ Covid cộng đồng, ngành y tế bố trí xét nghiệm ngay", ông Dũng yêu cầu. Các quận, huyện, xã, phường được yêu cầu giám sát chặt chẽ người ra vào địa bàn, nhất là vùng giáp ranh với các tỉnh thành có dịch. Theo Phó giám đốc Sở Y tế Hoàng Đức Hạnh, tình hình dịch bệnh tại TP HCM đang rất nóng, số ca mắc chủ yếu liên quan đến hoạt động tôn giáo của Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng. Từ ngày 27 đến 29/4 có chức sắc của Hội này ra Hà Nội. Ông Hạnh đề nghị các quận, huyện, thị xã giám sát chặt chẽ những người đến từ TP HCM từ ngày 16/5 đến nay. Sở đã yêu cầu CDC thống kê tờ khai y tế trên mạng, lập danh sách người từ TP HCM ra, từ Bắc Giang, Bắc Ninh về để đánh giá nguy cơ cũng như chuẩn bị sẵn dữ liệu nhằm khoanh vùng dập dịch. Cũng liên quan đến Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng, đại diện công an thành phố thông tin các lực lượng đã khẩn trương xác minh một số trường hợp liên quan, trong đó có những người tiếp cận với người trong TP HCM ra. Các trường hợp này đều đã được xét nghiệm và có kết quả ban đầu âm tính. Thống kê của Sở Y tế Hà Nội, từ ngày 29/4 đến nay thành phố ghi nhận 209 ca Covid-19 ngoài cộng đồng tại 22 quận huyện và khu cách ly tập trung ở Trường Quân sự Bộ Tư lệnh Thủ đô (thị xã Sơn Tây). TP HCM ghi nhận 157 ca Covid-19 trong cộng đồng, riêng 4 ngày qua số ca là 149. Có hai cụm dịch chưa rõ nguồn lây, trong đó cụm liên quan đến Hội thánh Truyền giáo Phục hưng lớn nhất từ trước đến nay với 142 ca nhiễm. Cụm lây nhiễm liên quan đến vợ chồng ở quận Tân Phú đến nay ghi nhận 7 ca. Theo đánh giá ban đầu, hai cụm này có thể liên quan đến nhau. TP HCM giãn cách xã hội toàn thành phố theo Chỉ thị 15, riêng quận Gò Vấp và phường Thạnh Lộc (quận 12) theo Chỉ thị 16, từ 0h ngày 31/5. Đây là lần thứ hai TP HCM giãn cách xã hội toàn thành phố. Trước đó đầu tháng 4/2020, cùng với 11 tỉnh thành "nguy cơ cao", thành phố trải qua 22 ngày áp dụng Chỉ thị 16 với cấp độ cao hơn.

Số ca Covid-19 liên quan hội truyền giáo lên hơn 200, lan 6 tỉnh thành

TP HCMCụm dịch liên quan Hội thánh Truyền giáo Phục hưng, đến tối 31/5 ghi nhận tổng cộng 202 ca nhiễm và nghi nhiễm, lan 6 tỉnh, thành. Theo Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP HCM (HCDC), chuỗi lây nhiễm liên quan Hội thánh Truyền giáo Phục hưng là cụm dịch lớn nhất thành phố, ghi nhận 191 ca, trong 5 ngày qua. Trong đó, 49 ca mới được ghi nhận tối 31/5, chưa được Bộ Y tế công bố, xem như ca nghi nhiễm. 5 tỉnh khác cũng ghi nhận 11 ca nhiễm, liên quan cụm dịch hội truyền giáo. Trong đó Long An ghi nhận 5 ca (6325, 6731, 6909, 7176, 7177), Bình Dương 3 ca (7305, 7306, 7309), Trà Vinh 1 ca (7302), Đăk Lăk 1 ca (7186), Bạc Liêu 1 ca (6572). Ngoài chuỗi lây nhiễm trên, TP HCM cũng đang ghi nhận cụm dịch liên quan hai vợ chồng Tân Phú, với 7 ca đã được Bộ Y tế công bố, 2 ca nghi nhiễm. Tây Ninh ghi nhận ca 6659, nam, 2 tuổi, là F1 "bệnh nhân 6447", đồng nghiệp của người vợ trong cụm dịch này. Tối 31/5, HCDC công bố điều tra dịch tễ, ghi nhận chuỗi lây nhiễm liên quan hai vợ chồng Tân Phú với cụm dịch Hội thánh Truyền giáo Phục hưng. Nếu tính chung cả hai cụm dịch trên, đến tối 31/5, ngành y tế ghi nhận tổng cộng 212 ca nhiễm và nghi nhiễm, ở 7 tỉnh, thành. Khử khuẩn khu vực liên quan ca nhiễm Hội thánh Truyền giáo Phục hưng tại TP HCM. Ảnh: Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP HCM. Khử khuẩn khu vực liên quan ca nhiễm Hội thánh Truyền giáo Phục hưng tại TP HCM. Ảnh: Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP HCM. Tại TP HCM, 40 người mắc Covid-19 là hội viên của hội truyền giáo (tổng số hội viên khai báo hiện nay là 55 người), 104 trường hợp tiếp xúc gần và 47 trường hợp tiếp xúc diện F2. Thành phố tiếp tục điều tra truy vết các trường hợp tiếp xúc, lấy mẫu xét nghiệm diện rộng các khu vực liên quan ca nhiễm để đánh giá nguy cơ. Về nơi lây nhiễm, 55% bệnh nhân lây nhiễm từ sinh hoạt tôn giáo, 25% lây nhiễm tại nơi làm việc, 15% lây nhiễm trong gia đình, và 5% lây nhiễm trong quan hệ bạn bè. Như vậy, ngoại trừ sự lây nhiễm từ sinh hoạt đặc biệt của một tổ chức thì nguy cơ lây nhiễm tại những nơi làm việc khá cao, nhất là trong các tòa nhà văn phòng, thường là môi trường kín, sử dụng máy lạnh trung tâm. Người đầu tiên có triệu chứng của chuỗi hội truyền giáo vào ngày 13/5 và có khả năng là nguồn lây của nhóm tham gia hội truyền giáo. Người này đã từng đi Hà Nội và trở về TP HCM vào ngày 29/4. Người đầu tiên của chuỗi vợ chồng Tân Phú có triệu chứng viêm đường hô hấp từ ngày 20/5. Kết quả giải mã gene virus của chuỗi lây nhiễm liên quan vợ chồng Tân Phú cùng biến chủng Ấn Độ với ổ dịch Hội thánh Truyền giáo Phục hưng. Biến chủng này được đánh giá khả năng, lây nhiễm nhanh hơn 1,7 lần so những chủng nCoV khác, có thể lây lan nhanh trong không khí ở môi trường kín. Cụm dịch hội truyền giáo lây lan nhanh còn do nhiều người sinh hoạt trong phòng nhỏ khoảng 50 m2, không đeo khẩu trang, môi trường sinh hoạt không đảm bảo các nguyên tắc phòng chống dịch. Theo HCDC, mầm bệnh có thể đã có trong cộng đồng, người dân cần nâng cao cảnh giác nhưng cũng không hoang mang. Người từng tham gia Hội thánh Truyền giáo Phục hưng cần chủ động liên hệ y tế địa phương để khai báo, kể cả khi không có dấu hiệu bệnh. Chủ tịch TP HCM quyết định giãn cách xã hội toàn thành phố theo Chỉ thị 15, riêng quận Gò Vấp và phường Thạnh Lộc (quận 12) theo Chỉ thị 16, từ 0h ngày 31/5. HCDC khuyến cáo khi có dấu hiệu sốt, ho, khó thở, mất vị giác, khứu giác... di chuyển bằng xe cá nhân đi khám bệnh ngay và khai báo trung thực khi đến cơ sở y tế.

Số ca Covid-19 liên quan hội truyền giáo lên hơn 200, lan 6 tỉnh thành

TP HCM Cụm dịch liên quan Hội thánh Truyền giáo Phục hưng, đến tối 31/5 ghi nhận tổng cộng 202 ca nhiễm và nghi nhiễm, lan 6 tỉnh, thành. Theo Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP HCM (HCDC), chuỗi lây nhiễm liên quan Hội thánh Truyền giáo Phục hưng là cụm dịch lớn nhất thành phố, ghi nhận 191 ca, trong 5 ngày qua. Trong đó, 49 ca mới được ghi nhận tối 31/5, chưa được Bộ Y tế công bố, xem như ca nghi nhiễm. 5 tỉnh khác cũng ghi nhận 11 ca nhiễm, liên quan cụm dịch hội truyền giáo. Trong đó Long An ghi nhận 5 ca (6325, 6731, 6909, 7176, 7177), Bình Dương 3 ca (7305, 7306, 7309), Trà Vinh 1 ca (7302), Đăk Lăk 1 ca (7186), Bạc Liêu 1 ca (6572). Ngoài chuỗi lây nhiễm trên, TP HCM cũng đang ghi nhận cụm dịch liên quan hai vợ chồng Tân Phú, với 7 ca đã được Bộ Y tế công bố, 2 ca nghi nhiễm. Tây Ninh ghi nhận ca 6659, nam, 2 tuổi, là F1 "bệnh nhân 6447", đồng nghiệp của người vợ trong cụm dịch này. Tối 31/5, HCDC công bố điều tra dịch tễ, ghi nhận chuỗi lây nhiễm liên quan hai vợ chồng Tân Phú với cụm dịch Hội thánh Truyền giáo Phục hưng. Nếu tính chung cả hai cụm dịch trên, đến tối 31/5, ngành y tế ghi nhận tổng cộng 212 ca nhiễm và nghi nhiễm, ở 7 tỉnh, thành. Khử khuẩn khu vực liên quan ca nhiễm Hội thánh Truyền giáo Phục hưng tại TP HCM. Ảnh: Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP HCM. Khử khuẩn khu vực liên quan ca nhiễm Hội thánh Truyền giáo Phục hưng tại TP HCM. Ảnh: Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP HCM. Tại TP HCM, 40 người mắc Covid-19 là hội viên của hội truyền giáo (tổng số hội viên khai báo hiện nay là 55 người), 104 trường hợp tiếp xúc gần và 47 trường hợp tiếp xúc diện F2. Thành phố tiếp tục điều tra truy vết các trường hợp tiếp xúc, lấy mẫu xét nghiệm diện rộng các khu vực liên quan ca nhiễm để đánh giá nguy cơ. Về nơi lây nhiễm, 55% bệnh nhân lây nhiễm từ sinh hoạt tôn giáo, 25% lây nhiễm tại nơi làm việc, 15% lây nhiễm trong gia đình, và 5% lây nhiễm trong quan hệ bạn bè. Như vậy, ngoại trừ sự lây nhiễm từ sinh hoạt đặc biệt của một tổ chức thì nguy cơ lây nhiễm tại những nơi làm việc khá cao, nhất là trong các tòa nhà văn phòng, thường là môi trường kín, sử dụng máy lạnh trung tâm. Người đầu tiên có triệu chứng của chuỗi hội truyền giáo vào ngày 13/5 và có khả năng là nguồn lây của nhóm tham gia hội truyền giáo. Người này đã từng đi Hà Nội và trở về TP HCM vào ngày 29/4. Người đầu tiên của chuỗi vợ chồng Tân Phú có triệu chứng viêm đường hô hấp từ ngày 20/5. Kết quả giải mã gene virus của chuỗi lây nhiễm liên quan vợ chồng Tân Phú cùng biến chủng Ấn Độ với ổ dịch Hội thánh Truyền giáo Phục hưng. Biến chủng này được đánh giá khả năng, lây nhiễm nhanh hơn 1,7 lần so những chủng nCoV khác, có thể lây lan nhanh trong không khí ở môi trường kín. Cụm dịch hội truyền giáo lây lan nhanh còn do nhiều người sinh hoạt trong phòng nhỏ khoảng 50 m2, không đeo khẩu trang, môi trường sinh hoạt không đảm bảo các nguyên tắc phòng chống dịch. Theo HCDC, mầm bệnh có thể đã có trong cộng đồng, người dân cần nâng cao cảnh giác nhưng cũng không hoang mang. Người từng tham gia Hội thánh Truyền giáo Phục hưng cần chủ động liên hệ y tế địa phương để khai báo, kể cả khi không có dấu hiệu bệnh. Chủ tịch TP HCM quyết định giãn cách xã hội toàn thành phố theo Chỉ thị 15, riêng quận Gò Vấp và phường Thạnh Lộc (quận 12) theo Chỉ thị 16, từ 0h ngày 31/5. HCDC khuyến cáo khi có dấu hiệu sốt, ho, khó thở, mất vị giác, khứu giác... di chuyển bằng xe cá nhân đi khám bệnh ngay và khai báo trung thực khi đến cơ sở y tế.

Những chính sách nổi bật có hiệu lực từ tháng 6

Nói tục tại lễ hội bị phạt 500.000 đồng; tổ chức cho khách nhảy múa thoát y bị phạt 40-50 triệu đồng... là chính sách có hiệu lực từ ngày 1/6. Thắp hương không đúng nơi quy định bị phạt 200.000-500.000 đồng Nghị định 38/2021 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo nêu rõ, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đến 500.000 đồng với một trong các hành vi thắp hương hoặc đốt vàng mã không đúng nơi quy định; nói tục, chửi thề, xúc phạm tâm linh gây ảnh hưởng đến không khí trang nghiêm của lễ hội; mặc trang phục không lịch sự hoặc không phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam. Các hành vi cung cấp dịch vụ vũ trường cho người chưa đủ 18 tuổi, kinh doanh dịch vụ karaoke ngoài thời gian từ 8h đến 24h mỗi ngày... sẽ bị phạt từ 10 đến 15 triệu đồng. Cơ quan chức năng sẽ phạt 40 đến 50 triệu đồng đối với hành vi tổ chức cho khách nhảy múa thoát y hoặc tổ chức hoạt động khác mang tính chất đồi trụy tại cơ sở kinh doanh dịch vụ vũ trường, cơ sở karaoke, lưu trú du lịch, nhà hàng ăn uống, giải khát hoặc nơi tổ chức hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng khác. Cơ sở vi phạm sẽ bị tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường từ 18 đến 24 tháng. Trúng đấu giá sim số đẹp phải sử dụng 6 tháng Quyết định 16/2021 của Thủ tướng nêu rõ, kho số viễn thông được đấu giá quyền sử dụng là các mã, số viễn thông có cấu trúc đặc biệt nằm trong quy hoạch kho số, chưa phân bổ cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Để tham gia đấu giá mã, số viễn thông, doanh nghiệp, tổ chức phải thành lập theo pháp luật Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu về tài chính, kỹ thuật phù hợp đối với từng loại mã, số viễn thông; cam kết đưa mã, số viễn thông vào khai thác, sử dụng tối thiểu 6 tháng sau khi trúng đấu giá; nộp đầy đủ khoản phí sử dụng kho số, tần số, nghĩa vụ công ích, phí quyền hoạt động viễn thông của doanh nghiệp, tổ chức trước khi tham gia đấu giá... Triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm Nghị định 43/2021 quy định từ 1/6 triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm tập hợp 9 nhóm với dữ liệu gốc là thông tin về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Người dân, cơ quan, tổ chức có thể tra cứu thông tin cơ bản của cá nhân, như họ tên khai sinh, số định danh cá nhân hoặc chứng minh nhân dân, dân tộc, quốc tịch, quê quán, thông tin của cha mẹ, vợ, chồng hoặc người đại diện hợp pháp; thông tin liên hệ của công dân; thông tin về hộ gia đình, gồm mã hộ gia đình, địa chỉ, danh sách thành viên trong hộ. Người dân cũng có thể tra cứu nhóm bảo hiểm xã hội mà người đó tham gia (phương thức đóng, quá trình đóng, hưởng BHXH, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mã số thuế); nhóm bảo hiểm y tế (như mã mức hưởng, nhóm tham gia, nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu, thời điểm hết hạn, quá trình đóng hưởng); bảo hiểm thất nghiệp (quá trình đóng, hưởng, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng trợ cấp)... Cơ quan, tổ chức, cá nhân muốn khai thác thông tin về bảo hiểm có thể tra cứu qua cổng dữ liệu quốc gia, cổng dịch vụ công quốc gia, cổng thông tin điện tử của BHXH Việt Nam. Nếu đã khai thác xong, cơ quan không được yêu cầu cá nhân cung cấp các giấy tờ liên quan. Người đại diện trung tâm dịch vụ việc làm phải có trình độ đại học trở lên Nghị định 23/2021 hướng dẫn thực hiện Luật Việc làm. Theo đó, điều kiện cấp giấy phép thành lập Trung tâm dịch vụ việc làm là phải có địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh để tổ chức hoạt động dịch vụ việc làm thuộc sở hữu của doanh nghiệp hoặc được doanh nghiệp thuê ổn định theo hợp đồng từ 3 năm (36 tháng) trở lên; doanh nghiệp đã thực hiện ký quỹ 300 triệu đồng. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp dịch vụ việc làm phải là người quản lý doanh nghiệp; không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù; có trình độ từ đại học trở lên hoặc đã có thời gian trực tiếp làm chuyên môn hoặc quản lý dịch vụ việc làm hoặc cung ứng lao động từ đủ 2 năm trở lên trong thời hạn 5 năm liền kề trước khi đề nghị cấp giấy phép.

Khám chữa bệnh không cần thẻ bảo hiểm y tế giấy từ 1/6

Người dân có thể dùng ảnh thẻ bảo hiểm y tế trên ứng dụng VssID thay cho thẻ giấy khi đi khám bệnh trên toàn quốc từ hôm nay. Chính sách áp dụng cho người dùng đã có tài khoản bảo hiểm xã hội số trên ứng dụng VssID, theo quyết định của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ngày 31/5. Cơ sở khám chữa bệnh dùng đầu đọc để quét mã QR Code hoặc ghi trực tiếp số thẻ bảo hiểm y tế trên ứng dụng nếu không có đầu đọc. Muốn áp dụng chính sách này, người dùng phải tạo tài khoản bằng cách tải ứng dụng VssID cài đặt trên điện thoại thông minh. Ứng dụng liên kết tài khoản giao dịch điện tử của người dùng với cơ quan bảo hiểm xã hội. Sau khi tạo tài khoản có ảnh chính chủ, người dùng có thể tra cứu thông tin về thẻ bảo hiểm y tế, khám tại cơ sở nào, quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, chế độ ốm đau, thai sản, bệnh nghề nghiệp. Song tiện ích này chỉ cung cấp lịch sử khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế của người tham gia từ năm 2017, thời điểm mà ngành bảo hiểm xã hội và ngành y tế liên thông dữ liệu với nhau, đến nay. Theo lãnh đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, chính sách phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào khám chữa bệnh. Người dân không phải lo lắng nếu mất hay quên thẻ giấy ở nhà, giảm thủ tục cho cả hai phía. Việc khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế giấy diễn ra bình thường với người dùng chưa có tài khoản trên VssID. Năm 2021, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đặt mục tiêu hơn 25 triệu người cài đặt và dùng ứng dụng. Năm ngoái, việc khám chữa bệnh bằng hình ảnh thẻ bảo hiểm y tế trên VssID được thí điểm tại 10 tỉnh miền Trung với khoảng 10.000 lượt thụ hưởng. Đó là các tỉnh chịu ảnh hưởng thiên tai nặng gồm Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Phú Yên, Quảng Ngãi, Kon Tum, Bình Định. Hai tháng trước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành mẫu thẻ bảo hiểm y tế mới bằng giấy ép plastic, dùng khám chữa bệnh trên toàn quốc từ 1/4. Mẫu thẻ mới vẫn để trống phần ảnh người dùng, có 10 số thay vì 15 chữ số như mẫu cũ, mặt sau hướng dẫn kiểm tra chi phí khám chữa bệnh.

Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh: 'Nếu mất biển Đông là có tội'

"Không lãnh đạo Việt Nam nào có ý định nhượng bộ Trung Quốc về chủ quyền. Nếu để mất Biển Đông, tất cả chiến sĩ quân đội, lãnh đạo đều có tội với dân", Thượng tướng, Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh khẳng định trong cuộc phỏng vấn với VnExpress. - Phụ trách đối ngoại quốc phòng hơn 10 năm, ông đối diện và ứng xử thế nào với định kiến về sự lép vế của một nước nhỏ với các nước lớn? - Với tôi, trong quan hệ quốc tế cần khiêm tốn, nhưng quan trọng hơn là tự tin. Điều gì có thể nhịn thì nhịn, nhưng nếu động vào điểm mấu chốt: độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thì không bao giờ tôi nhịn. Khi tiếp xúc với bạn bè thế giới, chưa bao giờ tôi có cảm giác tự ti Việt Nam là một nước nhỏ, chưa bao giờ tôi nghĩ chúng ta phải ngước lên nhìn ai cả. Và trong thực tế tôi cũng cảm nhận được sự tôn trọng của quốc tế với đất nước ta. Có nhiều lý do để tự hào, tự tin về đất nước mình, nhưng lý do quan trọng nhất là dân tộc ta có lịch sử hào hùng, phải trả bằng bao nhiêu xương máu của các thế hệ đi trước. Cơ đồ hôm nay được xây đắp trên quá khứ hào hùng ấy. Đừng bao giờ nghĩ rằng ngồi với người Mỹ thì không nên nhắc tới chiến tranh Việt Nam, không nhắc tới chiến thắng của dân tộc ta. Mỗi khi gặp mặt, tôi hay kể cho các tướng lĩnh Mỹ nghe về chiến tranh Việt Nam, về những người lãnh đạo, tướng lĩnh của Việt Nam, về những hy sinh của nhân dân, bộ đội Việt Nam. Họ yên lặng lắng nghe và nhiều lần đề nghị: "Ông hãy nói tiếp nữa đi - về những gì các ông đã trải qua, và nhờ những gì mà các ông thắng chúng tôi?". Trong tiếp xúc đối ngoại, những vấn đề của hôm nay luôn phải gắn với bài học lịch sử, đặc biệt là với những quốc gia đã có "duyên nợ" với Việt Nam trong quá khứ. Trong những lần nói chuyện như thế, tôi thấy rằng sức thuyết phục, lý lẽ của Việt Nam đều được thừa nhận, mặc dù trong thâm tâm họ có thể không hài lòng. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: "Trong quan hệ với Trung Quốc, chưa bao giờ ta né tránh nói về cuộc chiến tranh biên giới, hay những điểm đen trong lịch sử quan hệ hai nước". Ảnh: Giang Huy. "Đừng tưởng đóng cửa với Mỹ thì Trung Quốc sẽ nhẹ giọng" - Ông vừa nhắc đến các "quốc gia duyên nợ" với Việt Nam. Nguyên tắc ứng xử của ông với các quốc gia này là gì? Chúng ta đã trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt và đã giành những chiến thắng vĩ đại. Nhưng vĩ đại hơn nữa là cách chúng ta ứng xử sau chiến tranh. Điều ấy sẽ định vị hình ảnh một Việt Nam chiến thắng văn minh và yêu hòa bình. Người Mỹ thường hỏi tôi sao quan hệ Việt Nam - Cuba tốt đến như thế? Tôi trả lời: "Chúng tôi quan hệ máu thịt với Cuba. Ngoài tình cảm truyền thống giữa hai nước, Việt Nam còn muốn thế giới thấy chúng tôi không bao giờ bỏ bạn. Các ông có thể không thích, nhưng chắc các ông cũng mong có được những người bạn thủy chung như thế". Bạn biết đấy, đừng tưởng lờ Cuba đi mà người Mỹ sẽ tốt với chúng ta. Đừng tưởng căng với Trung Quốc sẽ lấy được lòng người Mỹ. Cũng đừng tưởng đóng cửa với Mỹ thì Trung Quốc sẽ nhẹ giọng với mình. Dùng chính những bài học lịch sử trong mối quan hệ với các quốc gia khác để làm Đối ngoại là cách mà Việt Nam lựa chọn. Có lần ông Thượng nghị sĩ Leahy, Chủ tịch Thượng viện Mỹ nói với tôi: "Trong quan hệ Việt Mỹ, khó nhất và nhạy cảm nhất là việc khắc phục hậu quả chiến tranh. Nhưng kỳ diệu thay, đến bây giờ lại trở thành một trong những lĩnh vực hiệu quả nhất và đem lại nhiều cảm hứng nhất để thúc đẩy quan hệ Việt Mỹ". Trong quan hệ với Trung Quốc cũng vậy, chưa bao giờ ta né tránh nói về cuộc chiến tranh biên giới, hay những điểm đen trong lịch sử quan hệ hai nước. Có điều là chúng ta nói để những điều đó đừng lặp lại, thì sẽ tốt cho cả hai phía. Và ngay vấn đề ngày hôm nay là Biển Đông, chúng ta cũng phải lấy bài học lịch sử ấy để xem xét mà xử lý. Mọi vấn đề dù khó khăn nhất, nếu chúng ta biết nhận thức đâu là lợi ích chính đáng, đích thực, thì cả hai phía sẽ tìm được con đường giải quyết mà không phải động binh đao. Thách thức trên Biển Đông và sự tự tin của Việt Nam - Dù là thời chiến hay thời bình, nhiệm vụ tối cao của người lính là bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền đất nước. Biên giới đất liền đã coi là tạm yên, nhưng bao giờ người Việt Nam có thể yên lòng khi nghĩ về Biển Đông? - Chúng ta luôn nhận thức đầy đủ thách thức về an ninh của mình trên Biển Đông. Nó có thể xâm hại chủ quyền lãnh thổ và dẫn đến xung đột. Đây là những nguy cơ lớn nhất và đang hiện hữu. Cho nên người Việt Nam từ trẻ đến già, ai cũng lo lắng về Biển Đông. Đó là điều dễ hiểu. Nhìn một cách hình thức, có thể thấy Trung Quốc rất mạnh và đã làm nhiều việc trên Biển Đông. Quyết tâm, tham vọng của họ ngày càng lớn. Chưa kể, họ vô cùng kiên trì để dần dần đạt được tham vọng chủ quyền của mình. Họ không e ngại dự luận nên khó có thể nói không lo lắng. Cả thế giới lo chứ không riêng chúng ta. Có hai việc cơ bản, quan trọng nhất, để hình thành cách ứng xử trên Biển Đông. Một là, chúng ta phải khẳng định chủ quyền. Không bao giờ chúng ta được mơ hồ về điều đó, không bao giờ được quên điều đó, không bao giờ được buông điều đó. Hai là, phải tin rằng chúng ta sẽ bảo vệ được chủ quyền đất nước. Trong đó quan trọng nhất là tự tin - tin vào lòng dân, tin vào đường lối, cách ứng xử của Đảng và nhà nước, trên cơ sở hội tụ ý chí của người dân. - Ngoài niềm tin, chúng ta phải làm gì để giữ được quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình trên Biển Đông? - Trong cuộc đấu tranh này, việc xác định đầy đủ phạm vi chủ quyền của mình là vô cùng quan trọng. Chúng ta phải pháp lý hóa những gì chúng ta tuyên bố, những đảo, đá nào chúng ta có chủ quyền, thềm lục địa của chúng ta đến đâu... Dựa trên cơ sở đó, chúng ta phải giữ cho bằng được 33 điểm đảo, 21 điểm đóng quân và các vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam tại Trường Sa. Chúng ta cũng kiên trì đấu tranh cho chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa, mặc dù đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép, nhưng Việt Nam không bao giờ từ bỏ, và không được phép từ bỏ. Chúng ta phải giữ bằng được quyền chủ quyền trên thềm lục địa 200 hải lý và làm cho tất cả các nước hiểu và tôn trọng quyết tâm sắt đá ấy. Chúng ta phải làm cho Trung Quốc và các nước khác tôn trọng, thực hiện luật pháp quốc tế khi hoạt động trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam. Duy trì và phát triển lao động hợp pháp của ngư dân, dầu khí, nghiên cứu biển, vận tải, du lịch... Nếu xác định rõ ràng và quyết tâm như thế, thì tôi có thể trả lời câu hỏi của bạn: Thách thức là có thật, nhưng chúng ta sẽ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền trên Biển Đông. Và trên thực tế, hiện nay chúng ta vẫn đang giữ toàn vẹn chủ quyền trên biển đó chứ. "Thách thức là có thật, nhưng chúng ta đang giữ giữ toàn vẹn chủ quyền trên biển đó chứ". Ảnh: Giang Huy. - Nhưng chiến thuật của Trung Quốc ở biển Đông là lấn từng bước mà không cần đến các biện pháp quân sự. Họ áp dụng cách này không chỉ một lần trong lịch sử, và thực tế là nó đã hiệu quả. Ông đánh giá thế nào về thực tế này? - Sự hiện diện của Trung Quốc ở Biển Đông có thể ngày càng nhiều, nhưng bạn có thấy lá cờ đỏ sao vàng cũng đang hiện diện ngày càng dày đặc, thường xuyên, đa dạng trên Biển Đông không? Các đảo ở Trường Sa của chúng ta ngày càng thêm xanh, thêm đông vui, thêm điện sáng suốt đêm như những ngọn hải đăng Việt Nam ở biển xa, với cuộc sống lao động ngày càng sôi động hơn. Các dàn khoan dầu khí, các hoạt động thăm dò, nghiên cứu, bảo vệ môi trường biển, các đoàn tàu du lịch, vận tải biển của thế giới bình yên đi qua Biển Đông. Các chuyến tàu dân sự, quân sự, khoa học của các nước tấp nập đến với Việt Nam... Các ngư trường đánh cá của chúng ta ngày càng xa, ngày càng nhiều. Tất cả đều hợp pháp, phù hợp luật pháp quốc tế. Chúng ta không tranh giành, xâm lấn thêm của ai cả. Hải quân Việt Nam cũng hiện diện rất chững chạc, tự tin, đàng hoàng và ngày càng nhiều hơn trên Biển Đông. Năm nay chúng ta diễn tập bắn đạn thật ở các đảo Trường Sa. Trong toàn bộ vùng biển Đông Nam Á, vùng biển Việt Nam là an toàn nhất, không có cướp biển, không có buôn người và đang được Cảnh sát Biển bảo vệ rất tốt. Đó là những cái mình làm mà chưa nói, bây giờ tôi nói. Lẽ nào đó không phải là lời khẳng định hùng hồn về chủ quyền của chúng ta. Vừa qua chúng ta bàn luận nhiều đến sự hiện diện của tàu dân quân biển Trung Quốc trên Biển Đông. Sự quan tâm đó là hợp lý, vì hàng trăm con "tàu lạ" cứ đứng lỳ ra đó mà không làm gì thì cũng thật khó coi. Nhưng đánh giá việc đó như thế nào, bực tức ra sao là một chuyện, còn xử lý như thế nào lại là việc khác. Bộ Ngoại giao ta đã tuyên bố mạnh mẽ, rõ ràng, hải quân, cảnh sát biển nắm chắc tình hình, hiện diện ngay tại đó để bảo đảm rằng luật pháp Việt Nam và quốc tế sẽ được tuân thủ - nếu anh vi phạm luật pháp, tôi sẽ xử lý theo luật. Trong khi đó, các hoạt động lao động của ta trên biển vẫn tiến hành bình thường. - Vậy nguyên tắc giải quyết của Việt Nam trong tình huống này là gì? - Kiên quyết, kiên trì nhưng không manh động, không khiêu khích - đó là cách chúng ta đã làm, đang làm và sẽ làm. Có lần tôi gặp Thượng tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Ông ta nói: "Cái quan trọng nhất của cả Việt Nam và Trung Quốc, là hai bên đừng hành động quá tay hay tuyên bố quá lời". Tôi trả lời: "Tôi rất đồng tình với đồng chí, vì chúng tôi chưa bao giờ nói và làm quá giới hạn chính đáng cả". Quan điểm các quốc gia có thể khác nhau, lợi ích cũng khác nhau và đôi khi mâu thuẫn. Năm 2011, sau vụ tàu Bình Minh bị cắt cáp, tôi sang gặp lãnh đạo Bộ Quốc phòng Trung Quốc, khi hai bên đang tranh luận, ông ta nói: "Nếu tôi nói Trường Sa, Hoàng Sa không phải của Trung Quốc thì tôi không còn là người Trung Quốc. Nhưng tôi hiểu nếu đồng chí nói Trường Sa, Hoàng Sa là của Trung Quốc thì đồng chí cũng không phải là người Việt Nam nữa. Chúng ta khác nhau và đó là lý do phải ngồi lại với nhau". Rõ ràng họ cũng thấy vấn đề, có điều mình phải kiên trì đấu tranh, thẳng thắn nhưng rất chân thành. Bên cạnh đó, phải luôn duy trì vấn đề này trên các diễn đàn quốc tế, không bao giờ để bất cứ ai bịt miệng. Ở Biển Đông, Việt Nam tự tin có cả chính nghĩa lẫn luật pháp. Đó là điểm mấu chốt, toàn cầu hóa, không phải quốc gia nào muốn làm gì thì làm, bất chấp cả đạo lý lẫn pháp lý được. "Nếu thêm cho tôi một dollar xuất khẩu nông sản thì sẽ bớt áp lực đi một dollar để bảo vệ chủ quyền biển Đông". Ảnh: Giang Huy. "Không để tham nhũng bào mòn sức mạnh quốc gia" - Có lo ngại rằng, một số lãnh đạo có tâm lý ngại Trung Quốc, muốn dĩ hòa vi quý với họ, ông nghĩ sao? - Thật ra khi có một kẻ đe dọa chủ quyền nước mình thì không ai có thể yên tâm và vui lòng được. Tâm lý nghi ngờ của nhiều người Việt Nam, tôi hiểu, nó rất bình thường. Nhưng điều tôi thấy không bình thường là nhiều người không phân biệt được giữa làm thế nào để giữ chủ quyền với làm gì cho bõ ghét. Việc chúng ta phải làm là giữ nhà, và quan hệ thuận hòa với láng giềng, chứ không phải làm mất mặt họ. Tôi khẳng định, không một ai ở đất nước này có suy nghĩ rời bỏ hoặc nhân nhượng về chủ quyền, đặc biệt là những nhà lãnh đạo. Để biển Đông bị xâm phạm, thì quân đội Việt Nam, các nhà lãnh đạo sẽ có tội với đất nước, và cũng sẽ không yên với dân được. Trong quân đội, từ trên xuống dưới, đều coi Biển Đông là sống còn. Chủ quyền lãnh thổ là điều chúng ta tuyệt đối không bao giờ buông tay. Người Việt Nam cần đặt lòng tin vào Đảng, Nhà nước trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Thêm vào đó, mỗi người chúng ta có thể có những hành động thiết thực hơn để giữ nhà mình, làm sao để đất nước phát triển, thật nhanh, thật vững chắc - đó chính là giải pháp quan trọng nhất để giữ chủ quyền. Tôi muốn chúng ta phải xử lý vấn đề với sự khôn ngoan và tỉnh táo tuyệt đối, đấu tranh giữ chủ quyền, nhưng đừng để mất hòa bình, đừng cản trở sự phát triển của đất nước. Tôi từng nói: "Nếu thêm cho tôi một dollar xuất khẩu nông sản thì sẽ bớt áp lực đi một dollar để bảo vệ chủ quyền biển Đông". Đất nước phát triển, biên cương càng vững chắc. Mà phát triển không phải là để đổ tiền mua vũ khí. Trái lại, Trường Sa phải giàu lên để đất nước ngày càng giàu mạnh. Đó chính là giữ nhà. Đừng để những vụ tham ô, tham nhũng bào mòn lòng tin và sức mạnh quốc gia, đó là giữ nhà. Đừng vì yêu ghét mà không nắm bắt, tận dụng cơ hội phát triển của Trung Quốc để Việt Nam cùng phát triển. Đó là giữ nhà. Mỗi người dân hãy cùng đóng góp phát triển, xây dựng kinh tế, để đất nước hùng mạnh. Đó chính là giữ nhà.