Thứ Tư, 20 tháng 10, 2021

PHAN THANH GIẢN ĐẠI DIỆN CHO TRIỀU ĐÌNH NHÀ NGUYỄN ĐẦU HÀNG THỰC DÂN PHÁP-TỘI BÁN NƯỚC LƯU DANH MUÔN THUỞ!

 “Phan-thanh-Giản ba lần dụ Trương-Ðịnh bãi binh, bốn lần làm môi giới cho Pháp đưa thư của giặc cho Trương và khuyên nhân dân không nên “bội nghịch” với giặc, vậy chúng ta có thể tặng hai chữ yêu nước cho Phan cả về mặt khách quan lẫn chủ quan được không?”


BÀI CỦA VIỆN SĨ TRẦN HUY LIỆU TỔNG KẾT CUỘC THẢO LUẬN VỀ PHAN THANH GIẢN

Lời của Tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử: Cho đến hôm nay, chúng tôi vẫn kế tiếp nhận được những bài của các bạn đọc gửi đến phê phán về Phan-thanh-Giản, nhưng những tài liệu và ý kiến cũng không có gì khác với những bài đã đăng. Chúng tôi rất hoan nghênh các bạn đã sốt sắng tham gia cuộc khảo luận, đặc biệt là những ý kiến đều hầu như nhất trí cả. Vì vậy, chúng tôi đề nghị cuộc bình luận về Phan-thanh-Giản đến đây là kết thúc và chúng tôi đăng bài sau đây của đồng chí Trần-huy-Liệu có tính cách như một bài tổng kết.

Nhân vật lịch sử, qua Hồ-quý-Ly, Nguyễn-trường-Tộ, Lưu-vĩnh-Phúc cho đến Phan-thanh-Giản, không lần nào bằng lần này, những bạn tham gia cuộc thảo luận, mặc dầu có những khía cạnh khác nhau, nhưng về căn bản đều nhất trí ở chỗ kết án tội nhân của lịch sử. Trong những bài mà chúng tôi nhận được, có bài đăng nguyên văn, có bài trích đăng và một số bài xin miễn đăng, nhưng nhiều tác giả đã có những dẫn chứng giống nhau và hòa chung một thứ tiếng cáo giác người đã đóng vai “tích cực” trong việc làm mất ba tỉnh miền Ðông Nam-kỳ và sau đó là ba tỉnh miền Tây Nam-kỳ. Ðiều đáng chú ý là: trong quá trình thảo luận, hai bạn Chương-Thâu và Ðặng-huy-Vận, trong chỗ không ngờ, đã trở nên “đối tượng” cho một loạt súng bắn vào chỉ vì hai bạn còn có chỗ chưa “dứt khoát” về tình cảm với họ Phan! Một điều nữa cũng đáng chú ý là: trong số người gửi bài tới tham gia thảo luận lên án Phan-thanh-Giản có đông đủ cả các bạn miền Bắc và miền Nam. Thì ra, nếu chúng ta xuất phát từ một lập trường giống nhau thì chúng ta sẽ đi tới một kết luận giống nhau. Cuộc thảo luận này đã chứng minh như vậy. 

Là một người viết bài cuối cùng, tôi còn phải nói gì thêm nữa? Tôi không muốn nhắc lại những tài liệu mà các bạn đã dẫn ra và những ý kiến mà các bạn đã phát biểu; mà qua cuộc thảo luận, tôi muốn đề ra một vài nét lớn trong những điểm nhận định chung. 

Ðiều thứ nhất mà chúng tôi nhận thấy là: Trong khi bình luận một nhân vật lịch sử nào, chúng ta phải đặt người ấy vào hoàn cảnh lịch sử lúc ấy. Chúng ta không đòi hỏi những người sống xa thời đại chúng ta, không cùng một giai cấp với chúng ta, cũng phải có một lập trường tư tưởng như chúng ta. Nhưng để đánh giá họ, chúng ta chỉ cần xem tư tưởng và hành động của họ có phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của đông đảo nhân dân đương thời không? Có theo chiều hướng tiến lên của thời đại không? Ðối với Phan-thanh-Giản hồi ấy, chúng ta không đòi Phan phải thoát ly ý-thức-hệ của giai cấp phong kiến. Nhưng trong khi những nhân sĩ yêu nước trong giai cấp phong kiến và đông đảo nhân dân kiên quyết đánh Tây để giữ lấy nước, thà chết không làm nô lệ thì Phan trước sau vẫn theo chiều hướng đầu hàng, từ ký nhượng ba tỉnh miền Ðông đến ký nhượng ba tỉnh miền Tây. Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại nguyện vọng và quyền lợi tối cao của dân tộc, của nhân dân. Tuy vậy, trong số các bạn tham gia thảo luận, vẫn còn có bạn không phủ nhận tội lỗi của Phan, nhưng vẫn muốn “giảm nhẹ tội cho Phan một bậc” [1] . Trước tòa án lịch sử, vị “trạng sư bất đắc dĩ” ấy viện cớ rằng: chủ trương đầu hàng không phải riêng gì họ Phan, mà là cả giai cấp phong kiến nói chung, mà người đứng đầu là vua Tự-đức, cũng như Nam-kỳ và toàn bộ đất nước bị mất vào tay giặc Pháp còn vì nhiều duyên cớ khác, đâu phải chỉ vì mấy chữ ký của Phan-thanh-Giản. Vậy chúng ta có muốn kết án thì phải kết án giai cấp phong kiến mà thủ phạm phải là Tự-đức. Còn Phan-thanh-Giản chỉ là tòng phạm thôi. 

Lời bào chữa của vị “trạng sư” kể trên có lý không, có đứng vững được không? Chúng ta không phủ nhận giai cấp phong kiến nhà Nguyễn hồi ấy đã hết sứ mạng lịch sử và đương đi theo chiều hướng thỏa hiệp và đầu hàng. Nhưng một sự thực mà chúng ta không được phép chối cãi là: trên bước đường phân hóa, chính trong giai cấp phong kiến lúc ấy cũng còn có phái chủ chiến và phái chủ hòa (nghĩa là phái đầu hàng). Chưa nói đến sự cơ lúc ấy: giặc Pháp mới để chân đến Nam-kỳ, các tầng lớp nhân dân đương hăng hái đánh giặc cứu nước; mà ngay chính Tự-đức, một tên vua phải đứng “trước vành móng ngựa” về tội làm mất nước ta, cũng từ chỗ lưng chừng đến chỗ đầu hàng, chớ chưa phải đã can tâm dâng nước cho giặc ngay từ đầu. Nếu ngày nay, trước từng sự kiện lịch sử phải tìm ra trách nhiệm, cái gì cũng đổ chung cho giai cấp phong kiến theo lối “hầm bà là” cả, vậy thì thế nào để phân biệt những người yêu Tổ quốc, theo chính nghĩa, giết giặc cứu nước với những kẻ hàng giặc dâng nước cho giặc? Làm thế nào để phân biệt những người giữ thành chết theo thành như Nguyễn-tri-Phương, Hoàng-Diệu, Nguyễn-thúc-Nhận v.v... với những người dâng thành hiến đất cho giặc theo kiểu Phan-thanh-Giản? Không. Chưa nói đến bản án lịch sử muôn đời; dư luận nhân dân đương thời biểu hiện trong tám chữ đề cờ của dân quân Tân-an Gò-công mà thủ lĩnh là Trương-Ðịnh cũng đã rõ ràng lắm. Nó kết án giai cấp phong kiến mà triều đình Huế là đại diện đã “bỏ dân” và kẻ trực tiếp phụ trách là Phan-thanh-Giản, Lâm-duy-Hiệp đã ký nhượng đất nước cho giặc. Dư luận nhân dân rất sáng suốt cũng như bản án rất công minh. Nếu vị “trạng sư” nào còn muốn bào chữa cho một bị cáo đã bị bắt quả tang từ non một trăm năm trước thì chỉ là tốn công vô ích! 

Nói cùng mà nghe, ngay đến Tự-đức, một người đứng đầu trong hàng ghế bị cáo, đã có than: “Theo họ thì có nước như không, đã chịu nhục mà đời đời bị vạ...” và khi nghe tin Phan-thanh-Giản, Lâm-duy-Hiệp ký nhượng ba tỉnh miền Ðông, đã phải nói: “hai tên kia không những là tội nhân của bản triều, mà còn là tội nhân của thiên cổ”... Thì ra, trên bước đường đầu hàng của giai cấp phong kiến nói chung, Phan-thanh-Giản còn bước mau, bước trước hơn Tự-đức và trước dư luận phẫn khích của nhân dân, Tự-đức cũng không dám thốt ra những câu nói ngược lại ý chí của họ. Như vậy, trong giai đoạn đau thương của Tổ quốc, kẻ làm mất nước ta là bọn phong kiến đầu hàng mà đứng đầu là Tự-đức. Nhưng trước từng sự kiện lịch sử, mỗi người lại có trách nhiệm riêng tùy theo cương vị của mình. Vị trạng sư nào ngụy biện đến đâu cũng không thể lập luận hồ đồ, đem giai cấp phong kiến và Tự-đức làm cái “bung xung” để che giấu tội lỗi của Phan-thanh-Giản đã dâng toàn bộ lục tỉnh Nam-kỳ cho giặc được! 

Ðiều thứ hai mà chúng tôi nhận thấy là: trong khi quy định trách nhiệm của Phan-thanh-Giản trước lịch sử, chúng ta đã phân tích rõ ràng với những án từ phân minh. Tuy vậy, còn có người viện những đức tính liêm khiết của Phan ra để mong được “chiếu cố” và “thông cảm”. Cũng có người còn cho Phan là một nhà ái quốc và thức thời, chỉ vì thương dân, muốn tránh nạn binh đao nên đã chủ trương hòa hiếu với giặc. Ở đây, tôi không muốn nhắc lại điều kiện chủ quan và khách quan bấy giờ để chứng minh rằng: nếu vua tôi nhà Nguyễn biết dựa vào nhân dân để kiên quyết kháng chiến thì nước ta hồi ấy sẽ không bị mất; tôi chỉ nhấn mạnh vào cái quan niệm về đạo đức tư cách của con người thế nào cho đúng. Những người có lòng chiếu cố đến Phan-thanh-Giản chỉ mới nhìn vào tư đức của ông mà không nhìn vào công đức của ông. Ở vào thời thế nước ta hồi ấy, mỗi người công dân còn có cái đạo đức nào cao hơn là yêu nước thù giặc, hy sinh quên mình, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Trái lại, còn có cái gì xấu hơn là theo giặc, chống lại cách mạng, phản lại quyền lợi tối cao của Tổ quốc. Ðối với Phan-thanh-Giản, công đức như thế là đã bại hoại rồi; mà công đức đã bại hoại thì tư đức còn có gì đáng kể? Trong số các bạn tham gia thảo luận, có bạn còn viện những chứng cớ tỏ ra rằng ngay cả đến tư đức của ông cũng không có gì đảm bảo. Nói thế thôi. Ðiều này không quan trọng lắm. Chúng ta đánh giá con người của Phan không phải nhìn vào những đức tính thông thường, mà chính là nhìn vào tiêu chuẩn đối với dân, với nước của Phan. 

Ở đây còn một điểm phải trang trải nữa là Phan có yêu nước không? Những người thương Phan còn có cắt nghĩa rằng: Phan chủ trương sai lầm nhưng không phải không có lòng yêu nước. Thực ra, yêu nước không phải là một danh từ trừu tượng, mà phải biểu hiện một cách cụ thể. Trong lúc quân giặc bắt đầu dày xéo lên Tổ quốc, bao nhiêu văn thân nghĩa sĩ, hào lý cùng các tầng lớp nhân dân đều lao mình vào cuộc giết giặc cứu nước, bài phú “Giặc đến nhà đàn bà phải đánh” vang lên, vậy mà riêng Phan-thanh-Giản ba lần dụ Trương-Ðịnh bãi binh, bốn lần làm môi giới cho Pháp đưa thư của giặc cho Trương và khuyên nhân dân không nên “bội nghịch” với giặc, vậy chúng ta có thể tặng hai chữ yêu nước cho Phan cả về mặt khách quan lẫn chủ quan được không? Phạm vi “yêu nước” cũng rất rộng, nhưng danh từ ái quốc không thể chứa một nội dung phản quốc. Một người đã có “thành tích” như Phan, dù ai muốn nhìn theo cách nào chăng nữa, cũng không thể lạm dụng hai chữ ái quốc để gắn vào một cách dễ dàng, vì như thế chẳng những hồ đồ trong việc nhận thức Phan mà còn làm nhòa nhoẹt cả ý nghĩa yêu nước nữa.

Ðiểm thứ ba mà tôi muốn nhấn mạnh vào là cái chết của Phan. Thật ra, với những hành động kể trên, nếu Phan không kết thúc bằng một cái chết khá “đặc biệt” thì có lẽ dư luận đối với Phan cũng không có gì phức tạp lắm vì hành động của Phan đủ nói lên Phan là người như thế nào rồi. Theo tôi, chủ trương của Phan đã dẫn Phan đến chỗ bế tắc mà chỉ có thể kết cục bằng một cái chết. Nói một cách khác, cái chết của Phan là tất nhiên, là rất biện chứng trong chỗ bế tắc của Phan. Tuy vậy, có người vẫn ca tụng Phan là không tham sống sợ chết. Ở đây, tôi không muốn nhắc lại những cái “ngoắt ngoéo” trong giờ phút cuối của Phan mà nhiều bạn đã vạch ra để chứng tỏ là Phan không phải không tham sống sợ chết. Tôi chỉ đặt câu hỏi là: có những trang hào kiệt không tham sống sợ chết để làm nên một việc gì tốt đẹp thì cái tham sống sợ chết ấy mới có ý nghĩa; còn Phan-thanh-Giản nếu quả có không tham sống sợ chết chăng nữa thì để làm nên cái gì? Nói rằng Phan chết để giữ trọn tiết nghĩa chăng? Thì cái sống của Phan đối với dân, với nước đã mất hết tiết nghĩa rồi, còn nói gì đến chết. Nói rằng Phan là một tín đồ chăng? Thực ra, cái chết của Phan, khác với cái hy sinh của các bậc nghĩa liệt khác, không phải để giữ “đạo lành” cho đến chết, cũng chẳng phải liều chết để làm nên một điều “nhân” vì cái gọi là “đạo lành” là điều “nhân” lúc đó chính là giết giặc cứu nước, là theo nguyện vọng của nhân dân; trái lại là đạo dữ, là bất nhân, là phản bội. Thôi, chúng ta hãy làm một việc ngay thẳng là trả cái chết của Phan-thanh-Giản lại cho Phan-thanh-Giản, cái chết do chính “tác giả” tạo ra, qua một quá trình dài lâu dẫn đến chỗ không lối thoát. Dầu sao, cái chết của Phan cũng chỉ có thể chấm dứt con đường bế tắc của Phan, chớ không thể xóa được tội danh của Phan trước tòa án dư luận nhân dân và lịch sử. 

Ðiểm thứ tư mà chúng ta không thể bỏ qua được là: trong khi kết án Phan-thanh-Giản, chúng ta một mặt không để Phan trốn tránh trách nhiệm do Phan trực tiếp phụ trách; một mặt khác chúng ta không quên gắn liền Phan với triều đình Huế mà Phan là đại diện với giai cấp phong kiến mà Phan là tiêu biểu. Như mọi người đều biết, khi thực dân Pháp bắt đầu đánh chiếm nước ta thì cũng là lúc giai cấp thống trị tức giai cấp phong kiến nước ta đã hết nhựa sống, đương hãm vào thế bí. Do đó, trước nạn ngoại xâm, tư tưởng thỏa hiệp đầu hàng đã dần dần thấm vào tầng lớp trên của giai cấp phong kiến. Mặc dầu trong quá trình phân hóa còn có phái chủ chiến, nhưng tư tưởng đầu hàng vẫn ngày càng phát triển và trở nên tư tưởng chủ đạo của giai cấp phong kiến. Bị uy hiếp trước uy vũ của văn minh Tây phương, luận điệu cầu an của Phan-thanh-Giản nhắc lại chuyện cũ như “Hán Văn đế hòa với Hung-nô” hay “Tống Chân tôn hòa với Khiết-đan” đã nói lên tư tưởng của giai cấp thống trị bấy giờ một mặt thì tự kiêu, cho những nước bên ngoài đều là mọi rợ; trái lại, một mặt khác, lại tự ty sợ địch, dọn sẵn con đường đầu hàng. Thật thế, nếu triều đình Huế mà kiên quyết kháng chiến, Tự-đức không có những chỉ thị “nước đôi” thì Phan-thanh-Giản và Lâm-duy-Hiệp sẽ không dám tùy tiện dâng đứt ba tỉnh miền Ðông Nam-kỳ cho giặc. Chẳng những thế, sau khi Phan-thanh-Giản đã ký nhượng ba tỉnh miền Ðông, trước sự công phẫn của nhân dân, Tự-đức cũng đã phải kết án Phan, Lâm là “tội nhân của thiên cổ” nhưng rồi Phan vẫn là người tín nhiệm của triều đình Huế, được triều đình giao cho trọng trách, để rồi một lần nữa, dâng nốt ba tỉnh miền Tây cho giặc. Như thế Phan-thanh-Giản phải chịu trách nhiệm trực tiếp những việc mà ông đã làm, nhưng cũng quán triệt tinh thần và đường lối đầu hàng của triều đình Huế mà ông là đại diện. Ấy là chưa kể sau khi sáu tỉnh Nam-kỳ đã mất và Phan-thanh-Giản đã chết, triều đình Huế vẫn đi theo chiều hướng đầu hàng cho tới khi nước ta bị mất hoàn toàn về giặc Pháp. Như vậy, kết tội Phan-thanh-Giản phải gắn liền Phan với triều đình Huế và bản án Phan-thanh-Giản là nằm trong hồ sơ bản án hàng giặc bán nước của triều Nguyễn. 

Tóm lại, qua cuộc thảo luận, chúng ta đã thành công trong việc đánh giá Phan-thanh-Giản, một nhân vật có nhiều khía cạnh phức tạp. Xung quanh Phan-thanh-Giản còn “viền” nhiều sự việc khác của giai đoạn lịch sử chồng chất những sự biến phức tạp. Nếu chúng ta không nhằm vào khâu chính của sự vật, không dùng phương pháp khoa học để phân tích đặng nhận rõ người và việc thì không thể giải quyết được vấn đề. Sau khi đánh giá xong Phan-thanh-Giản, chúng ta sẽ chuyển sang một nhân vật lịch sử khác./.

8-1963

Giáo sư - Viện sĩ Trần Huy Liệu.

Yêu nước ST.


Ngoại giao pháo hạm!

 

Cho đến nay, trên thế giới đã xuất hiện nhiều mô hình về kết hợp đối ngoại với quốc phòng, an ninh.

Ngoại giao pháo hạm là một trong những mô hình kết hợp đối ngoại với quốc phòng, an ninh xuất hiện trong thời kỳ diễn ra các cuộc xâm chiếm thuộc địa trên thế giới  của các cường quốc Châu Âu (khoảng nửa sau thế kỷ 19). Trong thời kỳ này, các cường quốc Châu Âu thường cho tàu chiến neo đậu ngoài khơi các quốc gia mà họ muốn đe dọa và gây áp lực trong quá trình đàm phán các hiệp ước bất bình đẳng. Các quốc gia theo chủ trương này luôn lấy việc phô trương sức mạnh quân sự với mục đích đe dọa chiến tranh và thông qua đó nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách đối ngoại, như buộc quốc gia bị đe dọa phải nhượng bộ quyền lợi trong các vấn đề lãnh thổ hay thương mại./.

KML/Nh

Đối ngoại hòa hiếu của Việt Nam

 Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã đúc kết nên bài học kinh nghiệm quý báu về kết hợp đối ngoại với quốc phòng, an ninh tạo nên sức mạnh tổng hợp để giải phóng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Bài học quốc phú - binh cường - nội yên- ngoại tĩnh được thực hiện trong nhiều triều đại phong kiến. Đây được coi là là bốn trụ cột của "quốc thái dân an", "thái bình thịnh trị" của các triều đại phong kiến thịnh trị ở Việt Nam trải mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Lý Thường Kiệt đã khẳng định rằng, cùng với hoạt động quân sự thì đồng thời dùng "biện sỹ bàn hoà, không nhọc tướng ta, khỏi tốn máu mủ mà bảo an được tông miếu".

Trần Quốc Tuấn đã đúc kết: Hoà mục là một đạo rất hay cho việc trị nước, dùng binh; hoà ở trong nước thì ít dụng binh, hòa ở biên cương thì không sợ báo động.

Nguyễn Trãi coi trọng kết hợp giữa tác chiến với ngoại giao tâm công để đánh vào lòng địch. Những bức thư binh vận, địch vận của Nguyễn Trãi với những lý lẽ đầy sức thuyết phục là "vũ khí mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao", "có sức mạnh của 10 vạn quân".

Sau kết thúc thắng lợi những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, các triều đại phong kiến luôn chú trọng củng cố phên dậu, xây dựng binh cường, kết tình "giao hảo" khôn khéo, mềm dẻo để gìn giữ hoà bình, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, ngăn ngừa chiến tranh./.

KML/Nh

          

Tư tưởng của V.I.Lênin về nhận thức thời đại

 

V.I. Lê nin chĩ rõ rằng, chỉ khi nào các quốc gia, dân tộc thông qua, mở rộng không ngừng mặt trận đối ngoại, ngoại giao thì mới “xác định nội dung căn bản, phương hướng phát triển chính của thời đại ấy, những đặc điểm chủ yếu của bối cảnh lịch sử của thời đại ấy... thì mới có thể định ra đúng đắn sách lược” để đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và giải phóng nhân loại.

Như vậy, việc nhận thức đúng thời đại là quy luật chung trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Giai cấp vô sản hay bất cứ gia cấp nào đều phải tuân thủ quy luật này nếu họ muốn giành thắng lợi./.

KML.Nh


Ủy ban Thượng viện Mỹ thông qua dự luật về Biển Đông

 

Ủy ban Thượng viện Mỹ thông qua dự luật về Biển Đông

Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đã thông qua dự luật nhằm trừng phạt tổ chức, cá nhân của Trung Quốc tham gia các hoạt động liên quan tới tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.

Hãng tin Sputnik dẫn thông báo của Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Bob Menedez viết: “Trong cuộc họp hôm nay, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện đã thông qua dự luật trừng phạt về vấn đề Biển Đông và Biển Hoa Đông 2021. Tiếp theo, dự luật sẽ được trình lên Thượng viện”.

Trước đó, trang web của Thượng nghị sĩ Marco Rubio – Phó Chủ tịch Ủy ban Chọn lọc về Tình báo của Thượng viện, thành viên cấp cao của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện ngày 19/10 cho biết, dự luật trên sẽ trừng phạt các cá nhân, tổ chức của Trung Quốc tham gia các nỗ lực khẳng định các tuyên bố trái phép về chủ quyền đối với Biển Đông và Biển Hoa Đông.

Thượng nghị sĩ Rubio viết: “Bắc Kinh và Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc là mối đe doạ lớn đối với sự tự do và rộng mở của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Những rủi ro với lợi ích kinh tế và an ninh quốc gia của Mỹ trong khu vực là có thật. Mỹ cần có các công cụ bổ sung để ứng phó với Trung Quốc khi Bắc Kinh tiếp tục nỗ lực khẳng định quyền kiểm soát bất hợp pháp đối với lãnh hải ở Biển Đông và Biển Hoa Đông".   

Theo Thượng nghị sĩ Rubio, việc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện thông qua dự luật "là một bước quan trọng đầu tiên", ông kêu gọi toàn thể Thượng viện "nhanh chóng thông qua dự luật này ”.

Cùng lúc, Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ Ben Cardin - Chủ tịch Tiểu ban Đối ngoại Thượng viện nói: “Dự luật của chúng tôi gửi đi thông điệp lưỡng đảng mạnh mẽ rằng, Mỹ sẽ bảo vệ dòng chảy tự do hàng hải và thương mại, bảo vệ chủ quyền của các đồng minh và thúc đẩy giải pháp ngoại giao hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế".

 

Quốc hội tri ân, tôn vinh đồng bào, cán bộ, chiến sỹ các lực lượng tuyến đầu chống dịch

 

Quốc hội tri ân, tôn vinh đồng bào, cán bộ, chiến sỹ các lực lượng tuyến đầu chống dịch

Quốc hội tri ân, tôn vinh đồng bào, cán bộ, chiến sỹ (CBCS) các lực lượng nơi tuyến đầu chống dịch đã bất chấp hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh sức khỏe và tính mạng của bản thân, cống hiến hết mình, xung kích vào cả những địa bàn là tâm dịch rất nguy hiểm...

Sáng 20/10, Quốc hội khai mạc trọng thể Kỳ họp thứ 2 theo hình thức trực tuyến tại Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội đến 62 điểm cầu các địa phương.

Trước phiên khai mạc, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, các đại biểu Quốc hội tham dự Kỳ họp tại điểm cầu Nhà Quốc hội đã đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tham dự Phiên khai mạc có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; các đồng chí nguyên Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Thị Kim Ngân, Nguyễn Văn An, Nguyễn Sinh Hùng; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng, nguyên Thường vụ Bộ Chính trị Phạm Thế Duyệt; các đồng chí nguyên Thường trực Ban Bí thư: Phan Diễn, Trần Quốc Vượng; Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến.

Cùng dự có các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, MTTQ Việt Nam; lãnh đạo bộ, ban, ngành Trung ương; đại diện các đoàn ngoại giao, các vị khách quốc tế...

Quốc hội mặc niệm đồng bào, CBCS từ trần, hy sinh trong đại dịch

Mở đầu phiên khai mạc, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội đã dành một phút mặc niệm để tri ân, tưởng nhớ đồng bào, CBCS từ trần, hy sinh trong đại dịch.

Trong thời gian vừa qua, dịch bệnh COVID-19 đã và đang ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội, gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của nhân dân. Đại dịch đã làm hơn 21.000 đồng bào, CBCS từ trần, hy sinh, để lại niềm đau thương, mất mát to lớn. "Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội chia sẻ sâu sắc về những tổn thất, mất mát mà nhân dân đã phải gánh chịu, xin được ghi công, tôn vinh đồng bào, CBCS đã quên mình phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước", Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội nhấn mạnh.

Phát biểu khai mạc kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu rõ, Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV diễn ra sau khi Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII thành công tốt đẹp; các cấp ủy, chính quyền, MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cùng đồng bào, chiến sỹ cả nước đang nỗ lực triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các nghị quyết Kỳ họp lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV trong bối cảnh đất nước gặp những khó khăn, thách thức mới gay gắt hơn.

Nền kinh tế toàn cầu hồi phục nhưng đang chậm lại và có sự phân hóa rõ rệt giữa các quốc gia, khu vực, chủ yếu do khác biệt mức độ và quy mô bao phủ vaccine; sự đứt gãy của các mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu kéo dài hơn so với dự báo, sức ép lạm phát và rủi ro tài chính, tiền tệ gia tăng.

Ở trong nước, dịch COVID-19 bùng phát lần thứ tư với biến chủng mới, lây lan rất nhanh và nguy hiểm hơn, diễn biến rất phức tạp, khó lường, khó kiểm soát đã tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh, sinh kế và đời sống nhân dân. Tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu đề ra. Kinh tế quý III tăng trưởng âm 6,17% so với cùng kỳ, làm cho tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu năm chỉ đạt 1,42%, là mức thấp nhất từ năm 2000 đến nay; dự báo cả năm chỉ đạt khoảng 2,5% - 3%, thấp xa so với mục tiêu Quốc hội đã đề ra (khoảng 6%).

Kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro; các thị trường tài chính, bất động sản, chứng khoán thiếu ổn định, có thời điểm tăng nóng; nợ xấu ngân hàng tăng. Một số chuỗi cung ứng bị đứt gãy, gián đoạn; nhiều doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, giải thể, phá sản, nhất là trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, công nghiệp ở TP Hồ Chí Minh và các địa bàn kinh tế trọng điểm. Việc làm, đời sống người lao động bị ảnh hưởng rất nặng nề; công tác an sinh xã hội có lúc, có nơi còn bất cập cùng với việc giãn cách kéo dài đã làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về tâm lý, tâm trạng xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội...

Theo Chủ tịch Quốc hội, trước những thách thức và chồng chất khó khăn, phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, sự đồng lòng, vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị ở cơ sở; dưới sự lãnh đạo sát sao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự đồng hành, chủ động, linh hoạt của Quốc hội; sự điều hành quyết liệt của Chính phủ; sự nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, toàn quân, toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp; sự ủng hộ, tin tưởng của nhân dân và sự hỗ trợ của đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, dịch bệnh đã từng bước được kiểm soát trên phạm vi cả nước.

Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội tuy không đạt so với kế hoạch đề ra, nhưng kinh tế vĩ mô vẫn duy trì ổn định; nông nghiệp tăng trưởng khá và vẫn là trụ đỡ của nền kinh tế và ổn định xã hội; xuất khẩu hàng hóa tăng cao so với cùng kỳ, lạm phát được kiểm soát, thu ngân sách và các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được đảm bảo; an sinh, phúc lợi xã hội được chú trọng; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Chúng ta dần thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội.

Qua gian nan, truyền thống dân tộc càng phát huy cao độ

"Quốc hội biểu dương, đánh giá cao sự cố gắng, chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ; trân trọng, cảm ơn những nỗ lực, đóng góp to lớn, những nghĩa cử cao đẹp của đồng bào, CBCS và cộng đồng doanh nghiệp; cảm ơn sự ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả của đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế trong phòng, chống đại dịch COVID-19. Qua gian nan, thử thách, truyền thống đoàn kết, yêu nước, thương nòi, khí phách anh hùng, ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc ta, đất nước ta lại càng phát huy cao độ hơn bao giờ hết", Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.

Quốc hội chia sẻ sâu sắc với những tổn thất, mất mát nặng nề về người và của, những khó khăn mà nhân dân ta đã phải gánh chịu; tri ân, tôn vinh những đồng bào, CBCS, các lực lượng nơi tuyến đầu chống dịch, nhất là ngành y tế, các lực lượng vũ trang và cán bộ cơ sở đã bất chấp hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh sức khỏe và tính mạng của bản thân, cống hiến hết mình, xung kích vào cả những địa bàn là tâm dịch rất nguy hiểm vì mục tiêu cao nhất là bảo vệ sinh mệnh, sức khỏe, cuộc sống bình yên của Nhân dân và sự phát triển bền vững, trường tồn của đất nước. 

Chủ tịch Quốc hội khẳng định, Kỳ họp thứ 2 sẽ xem xét, cho ý kiến và quyết định nhiều nội dung quan trọng, đồng thời quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo trong bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV; triển khai có hiệu quả chương trình hành động của Đảng đoàn Quốc hội thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; với tinh thần liên tục đổi mới, quyết tâm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và phương châm chuẩn bị kỹ lưỡng, từ sớm, từ xa trên cả ba phương diện: Lập pháp, giám sát tối cao, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị các vị đại biểu Quốc hội trên cơ sở thực tiễn sinh động, phong phú của ngành, lĩnh vực và địa phương mình, đồng thời xuất phát từ lợi ích cao nhất của đất nước, quốc gia và dân tộc, tham gia đầy đủ các phiên họp toàn thể của Quốc hội, các cuộc họp của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, của các tổ và đoàn đại biểu Quốc hội để nghiên cứu kỹ lưỡng, phản ánh khách quan, thảo luận sôi nổi, hiến kế và đóng góp thật nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, chất lượng; chất vấn đúng và trúng các vấn đề trọng tâm, thời sự mà cử tri cả nước quan tâm và biểu quyết, quyết định các vấn đề rất quan trọng thuộc nội dung chương trình kỳ họp đã được Quốc hội thông qua, góp phần làm nên thành công của kỳ họp, đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân và cử tri cả nước. 

 

Chính phủ quyết tâm vừa phòng chống dịch hiệu quả vừa phát triển kinh tế - xã hội

 

Chính phủ quyết tâm vừa phòng chống dịch hiệu quả vừa phát triển kinh tế - xã hội

Phát biểu trước Quốc hội, Thủ tướng nêu rõ những giải pháp chủ yếu từ nay cho đến năm 2021 tiếp tục tập trung nỗ lực cao nhất cho phòng, chống dịch Covid-19...

Báo cáo trước Quốc hội, đồng bào và cử tri cả nước tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV sáng 20/10, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, năm 2021, trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức nhất là đợt dịch Covid-19 lần thứ 4 với biến chủng delta có tốc độ lây lan rất nhanh, nguy hiểm hơn nhiều so với chủng gốc trước đây, buộc chúng ta phải áp dụng nhiều biện pháp phòng, chống dịch, mạnh mẽ, quyết liệt, chưa có tiền lệ để thực hiện mục tiêu ưu tiên trước hết, trên hết là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự kịp thời ban hành những quyết sách đặc thù phục vụ phòng, chống dịch, phát triển KT-XH, bảo đảm an sinh xã hội và giám sát hiệu quả của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương và sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ trên các lĩnh vực.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, trong công tác phòng chống dịch covid-19, chúng ta đã nỗ lực hết sức mình trong điều kiện có thể vì nguồn lực, năng lực hệ thống y tế còn nhiều hạn chế, bất cập. Tuy nhiên như Trung ương đã đánh giá: “Các chủ trương, chính sách, biện pháp được triển khai trong thời gian qua là đúng đắn, kịp thời và chỉ đạo, tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết liệt, đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay dịch bệnh cơ bản được kiểm soát trên phạm vi toàn quốc và đang thực hiện lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh tại nhiều địa phương”.

Nổi bật là, trong những thời điểm khó khăn, thử thách gay gắt nhất của dịch bệnh, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy mạnh mẽ, đã xuất hiện rất nhiều tấm gương, nghĩa cử cao đẹp, lay động lòng người. Đảng, Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao và trân trọng cảm ơn những nỗ lực, hỗ trợ, đóng góp hiệu quả, những nghĩa cử cao đẹp, tận tâm, tận lực hết mình của đồng bào, đồng chí, chiến sỹ và cộng đồng doanh nghiệp, sự giúp đỡ quý báu của đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế trong phòng, chống dịch; đồng thời chia sẻ, cảm thông sâu sắc với những tổn thất, mất mát về người, vật chất và tinh thần mà Nhân dân ta phải gánh chịu do đại dịch Covid-19 gây ra.

Về tình hình phát triển kinh tế, xã hội, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, ước thực hiện cả năm 2021 dự kiến đạt và vượt 8/12 chỉ tiêu chủ yếu đề ra. Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 9 tháng chỉ tăng bình quân 1,82%, cả năm ước tăng dưới mức Quốc hội giao; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Thu NSNN 9 tháng đạt trên 80%, cả năm ước vượt dự toán, cơ bản bảo đảm nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác; bội chi NSNN trong phạm vi dự toán (4%GDP).

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, góp phần tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh. Chính phủ tập trung hơn cho công tác xây dựng thể chế; phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan của Quốc hội trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung kịp thời các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển KT-XH.

Thủ tướng cũng chỉ rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó. Trong đó nguyên nhân khách quan cơ bản là do dịch Covid-19 diễn biến nhanh, phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng và gây hậu quả nặng nề, khiến 23 địa phương phải thực hiện giãn cách, tăng cường giãn cách xã hội trong thời gian dài, trong đó có các trung tâm kinh tế lớn, vùng động lực tăng trưởng . Đồng thời, còn có các yếu tố từ bên ngoài. Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng cho biết, những giải pháp chủ yếu từ nay cho đến năm 2021. Theo đó, sẽ tiếp tục tập trung nỗ lực cao nhất cho phòng, chống dịch Covid-19.

“Tập trung nỗ lực cao nhất cho phòng, chống dịch Covid-19; khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án, kịch bản cụ thể, sát hợp với tình hình thực tế; quyết liệt hành động, triển khai thực hiện hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra theo phương châm nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo, bình tĩnh, kịp thời với mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân là trên hết, trước hết; thúc đẩy viện trợ, nhập khẩu vắc-xin, nghiên cứu chuyển giao công nghệ và sản xuất trong nước, đẩy nhanh tiến độ bao phủ tiêm vắc-xin, chuẩn bị thuốc điều trị cần thiết, nâng cao năng lực y tế, nhất là công tác điều trị và ở cơ sở; có lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, phấn đấu kiểm soát hiệu quả dịch bệnh trên phạm vi toàn quốc để tập trung khắc phục hậu quả của dịch bệnh và khôi phục, phát triển KT-XH", Thủ tướng nêu rõ.

Khẩn trương hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch và Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH. Rà soát, tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc về thể chế; giảm thiểu các thủ tục và chi phí sản xuất kinh doanh. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác để giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu; kiểm soát chặt chẽ giá cả, thị trường.

Tập trung ưu tiên triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp; nhanh chóng khôi phục thị trường lao động do bị tác động trực tiếp bởi dịch Covid-19; thúc đẩy phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh; bảo đảm cung ứng, lưu thông hàng hoá thông suốt. Khơi thông mọi nguồn lực cho phòng, chống dịch và phát triển KT-XH, bảo đảm an sinh xã hội. Sớm đưa học sinh trở lại trường học an toàn. Củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh; tiếp tục triển khai mạnh mẽ ngoại giao vắc-xin, ngoại giao kinh tế; đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, Thủ tướng nêu rõ quan điểm chỉ đạo, điều hành trong đó nhấn mạnh: “Bám sát quan điểm phát triển theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và hệ thống chính trị; nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào nội lực là chính, ngoại lực là cần thiết, quan trọng.  Đặt sức khỏe, tính mạng của người dân lên trên hết, trước hết; từng bước thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19. Phòng, chống dịch là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; tiêm chủng, xét nghiệm, cách ly, điều trị là đặc biệt quan trọng; đề cao ý thức, trách nhiệm, tính tự chủ của người dân, doanh nghiệp trong phòng, chống dịch. Vừa phòng, chống dịch hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển KTXH, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, khôi phục và ổn định thị trường lao động, nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân; bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán, thông suốt, trách nhiệm trong chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành, các địa phương”./.