Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2024

Nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước

(Ảnh minh hoạ)

(Ảnh minh hoạ)

Trong mỗi giai đoạn lịch sử, chính sách dân tộc không ngừng được Đảng, Nhà nước ta quan tâm bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp tình hình thực tiễn và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đặc biệt trong những năm gần đây các nguyên tắc, vấn đề cơ bản về vấn đề dân tộc tiếp tục được khẳng định và bổ sung nhằm phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Vừa qua, lợi dụng sự việc một nhóm đối tượng gây mất an ninh trật tự ở Đắk Lắk, các tổ chức, cá nhân chống phá, thù địch, thiếu thiện chí với Việt Nam lập tức khai thác triệt để nhằm vu cáo chính quyền, xuyên tạc các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Đáng chú ý, chiêu bài vu cáo “Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền” tiếp tục được các đối tượng chống phá triệt để sử dụng như cho rằng nguyên nhân của vụ việc là do “người dân tộc không khuất phục, không quy thuận người Kinh”, “do căng thẳng sắc tộc, tôn giáo”. Có thể thấy, đây là một trong những chiêu trò quen thuộc của chúng nhằm cố tình xuyên tạc bản chất của vụ việc, hướng lái dư luận theo những ý đồ đen tối.

Trong khi đó, dựa trên những kết quả điều tra thực tế, cơ quan chức năng đã đánh giá đây là vụ khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của các đối tượng rất man rợ, mất nhân tính, thể hiện quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng.

Lực lượng công an đã có tài liệu, chứng cứ chứng minh vụ án xảy ra còn do có sự hậu thuẫn, chỉ đạo từ một số tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, thậm chí cử đối tượng từ nước ngoài xâm nhập trái phép về Việt Nam dàn dựng, chỉ đạo tấn công khủng bố. Hiện nay các cơ quan chức năng đang tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Thông tin về vụ việc đã được công bố kịp thời trên các phương tiện truyền thông đại chúng để người dân chủ động nắm bắt, hiểu rõ bản chất vấn đề, tuyệt đối không tin, nghe theo những luận điệu xuyên tạc của các đối tượng xấu.

Vụ việc nêu trên một lần nữa cho thấy các thế lực thù địch, phản động luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chính sách dân tộc ở Việt Nam.

Thực tế, nhiều năm qua, mỗi khi xảy ra vấn đề nào có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số thì các đối tượng này đều tìm cách triệt để lợi dụng với mục đích kích động mâu thuẫn, xung đột, làm căng thẳng tình hình, từ đó tìm cách mua chuộc, lôi kéo những người thiếu hiểu biết, bất mãn thực hiện các hành vi chống phá, gây rối theo sự điều hành, dẫn dắt của chúng. Bằng cách này chúng âm mưu tạo ra những mầm mống ly khai, chia rẽ nội bộ từ bên trong, gây bất ổn về chính trị, làm suy yếu chính quyền địa phương.

Thí dụ việc một số đồng bào dân tộc thiểu số do chưa nắm rõ thông tin nên chưa đồng tình với một vài chính sách ở các địa phương, đã được các đối tượng phản động lập tức xuyên tạc thành “chính quyền đàn áp người dân tộc thiểu số, vi phạm quyền tự do tôn giáo, nhân quyền của đồng bào du canh du cư”, nhằm kích động người dân bất hợp tác, chống đối cơ quan chức năng, hủy hoại tài sản của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn.

Bên cạnh đó các đối tượng chống phá thường xuyên khai thác sự chênh lệch về mức hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần giữa các vùng miền để khoét sâu những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, những nơi xảy ra thiên tai, dịch bệnh từ đó xuyên tạc rằng “Đảng, Nhà nước ta thiếu quan tâm”, “đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”...

Chưa kể, lợi dụng một số yếu kém, sai phạm trong công tác quản lý, điều hành ở một số địa phương, các đối tượng chống phá lập tức lu loa, biến thành vấn đề chính sách dân tộc của Việt Nam là thiếu bình đẳng, không công bằng. Mưu đồ sâu xa là từ việc gây ra những “đốm lửa nhỏ” như vậy các đối tượng chống phá hy vọng sẽ thổi bùng lên thành những “đám cháy” lớn để kích động lôi kéo, tập hợp lực lượng chống phá Đảng, Nhà nước, kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế nhằm “quốc tế hóa” các vấn đề nội bộ, từ đó lật đổ chế độ, cản trở sự phát triển của Việt Nam.

Cần khẳng định rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán về chủ trương, chính sách dân tộc, theo nguyên tắc đã được xác định trong Hiến pháp 2013 đó là: nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước (Điều 5).

Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước ta còn thường xuyên có những chủ trương, chính sách, văn bản chỉ đạo, định hướng đối với công tác dân tộc nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc đều bình đẳng, được tôn trọng như nhau, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Tiêu biểu có thể kể đến Nghị quyết số 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền núi.

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Đảng ta đã ban hành nghị quyết riêng về công tác dân tộc (Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 12/3/2003). Quốc hội đã ban hành các luật khung và luật chuyên ngành nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền cũng như chính sách hỗ trợ phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số. Thống kê sơ bộ cho thấy từ năm 2010 đến 2022 Chính phủ đã xây dựng, ban hành 118 văn bản chính sách; 54 đề án, chính sách dân tộc trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Trong đó có các nhóm chính sách: về giảm nghèo bền vững; giáo dục, đào tạo; y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số, miền núi và nhóm chính sách, cơ chế đặc thù về truyền thông và tuyên truyền vận động, phổ biến giáo dục pháp luật,...

Đáng chú ý, ngày 28/1/2022 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 10/NQ-CP về chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó tiếp tục nhấn mạnh quan điểm kiên trì và nhất quán thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân tộc. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển; phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào dân tộc trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, hướng tới mục tiêu vì một Việt Nam thịnh vượng.

Từ những chủ trương, chính sách đúng đắn, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao của Đảng, Nhà nước, những chính sách dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 30/10/2019 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới ghi nhận: công tác dân tộc có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước. Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp đã cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết phù hợp với điều kiện của địa phương, đơn vị.

Nhà nước đã ban hành chính sách, pháp luật, bố trí nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tăng cường vận động, tuyên truyền, động viên đồng bào dân tộc thiểu số tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, phát huy nội lực để phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao cuộc sống, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư, góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện rõ nét.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo và chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống được bảo tồn và phát huy. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản được bảo đảm; đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc, miền núi được tăng cường, đội ngũ cán bộ được kiện toàn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ. Quốc phòng, an ninh, chính trị được giữ vững, ổn định.

Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, Đảng ta khẳng định: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được triển khai mạnh mẽ, chuyển từ cách tiếp cận đơn chiều sang đa chiều, tập trung vào nhóm, hộ nghèo nhất.

Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, bình quân giai đoạn 2016-2020 giảm hơn 1,4%/năm. Kết cấu hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Trong suốt các chặng đường phát triển của đất nước, Đảng ta luôn đưa ra nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chú trọng chăm lo đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, động viên nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.

Tuy vậy trong quá trình thực hiện có lúc, có nơi vẫn còn một số hạn chế, bất cập, một vài chính sách dân tộc chưa thật sự phát huy hiệu quả, vẫn còn những mâu thuẫn, vướng mắc chưa được giải quyết dứt điểm. Từ đây đòi hỏi hệ thống chính quyền cơ sở, các cơ quan, ban, ngành liên quan tiếp tục nâng cao trách nhiệm, kịp thời khắc phục những yếu kém, khuyết điểm. Không phủ nhận những hạn chế, nhưng chúng ta cũng kiên quyết phản bác những luận điệu xuyên tạc thành tựu của Việt Nam đã đạt được trong thực hiện chính sách dân tộc.

Sự phát triển của đất nước về mọi mặt, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được cải thiện và nâng cao, niềm tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được củng cố... là minh chứng thuyết phục về sự đúng đắn trong những chủ trương chính sách của Đảng ta về công tác dân tộc, tạo nền tảng quan trọng để đất nước tiếp tục vững bước tiến về phía trước./. 

ST.

 

Đấu tranh đẩy lùi thái độ bàng quan, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, một bộ phận cán bộ, đảng viên tỏ ra thờ ơ, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị cần đấu tranh phê phán, loại bỏ.
Tư tưởng tiến bộ, nhân văn nhưng vẫn bị thờ ơ, nghi hoặc

Tư tưởng XHCN là một hệ thống những quan niệm phản ánh nhu cầu, ước mơ, nguyện vọng của các giai cấp lao động về một xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều bình đẳng và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; là những thành tựu của con người đạt được trong quá trình đấu tranh giải phóng giai cấp; là chế độ xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều được tự do, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn con đường XHCN và xây dựng đất nước theo định hướng XHCN để “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.
Tuy nhiên, sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, không ít người, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên tỏ ra hoài nghi về sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Đảng ta; thậm chí còn xuất hiện những tư tưởng cơ hội đòi xét lại Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận sự lựa chọn con đường cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là “căn bệnh” rất nguy hại, biểu hiện đa dạng như: Dửng dưng, làm ngơ, không quan tâm đến những sự kiện, sự việc diễn ra của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị cũng như trước khó khăn của đất nước, trong khi đó lại có những lời lẽ chê bai, phê phán sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và chính quyền các cấp.
Biểu hiện rõ nhất của việc thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN là những phát ngôn mơ hồ về CNXH. Giọng điệu của họ là ngợi ca chủ nghĩa tư bản như hình mẫu của sự phát triển hiện đại và xem cuộc khủng hoảng của CNXH thời gian qua là "bằng chứng khách quan" của một thử nghiệm thất bại. Một số thái độ dao động đáng lên án hơn là lên tiếng phê phán Đảng, Bác Hồ đã không lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa để Việt Nam sớm “hóa rồng”, “hóa hổ” như một số nước Đông Bắc Á. Họ cố tình lãng quên rằng, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các chí sĩ yêu nước Việt Nam đã từng thử nghiệm những con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước khác nhau, trong đó có con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng tất cả đều không thành công. Trước tình hình đó, đất nước và nhân dân đòi hỏi một con đường khác, con đường dẫn nhân dân Việt Nam đến độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khai mở từ mùa xuân năm 1930.
Một biểu hiện khác của thái độ thờ ơ, dao động đối với tư tưởng XHCN là phủ nhận giá trị bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới. Có người lập luận rằng, học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sáng lập là kết quả của việc tổng kết lịch sử châu Âu thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nên không còn sức sống trong thời đại mới. Học thuyết đó chỉ là sản phẩm của thời đại công nghiệp, không còn phù hợp trong thời đại toàn cầu hóa, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo... Thực chất đây là sự phủ nhận toàn bộ giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-một biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra.
“Quy luật tiến hóa của lịch sử” đang hiện diện sinh động ở Việt Nam
Điều kiện bảo đảm cách mạng thành công, xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta là trước hết phải có Đảng. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng và xây dựng CNXH ở nước ta; Đảng phải lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do đó, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng CNXH vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam.
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đến nay, đã có nhiều hội thảo bàn luận khá sôi nổi về khả năng và triển vọng của CNXH; trong đó, đáng tiếc là có một số ý kiến của cán bộ, đảng viên có biểu hiện hoài nghi về tương lai của chế độ XHCN. Vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, trước sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, với bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.
Về sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, Văn kiện Đại hội VII của Đảng (năm 1991) chỉ rõ: Đây là “sự lựa chọn của chính lịch sử”; gắn liền với tư duy sáng tạo, hợp logic và nhất quán của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Đến Đại hội XI của Đảng, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Việc xác định những đặc trưng cơ bản trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” đã phản ánh tổng quát, toàn diện quan niệm về CNXH của Đảng ta, là sự kiên định, hiện thực hóa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH trong điều kiện mới của đất nước
Phê phán, đẩy lùi thái độ thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN
Nhìn từ góc độ bản chất, niềm tin CNXH chính là niềm tin khoa học, phát triển trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, gắn bó chặt chẽ với hoạt động của những người cộng sản. Trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, những người cộng sản luôn phấn đấu vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại, nhân dân lao động, vì lợi ích của giai cấp và dân tộc. Do đó, xét đến cùng, niềm tin CNXH mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc, là sự thống nhất và biện chứng của tri thức-niềm tin-tình cảm-ý chí-hành động. Đặc trưng cơ bản nhất của niềm tin CNXH là sự nhận thức đúng đắn các quy luật phổ biến và quy luật đặc thù trong sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Có niềm tin về CNXH, cán bộ, đảng viên luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn
Hiện nay, vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động với nhiều vấn đề của xã hội, trong đó có thờ ơ, dao động với tư tưởng CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây chính là kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Bởi các thế lực thù địch luôn ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá những nước CNXH, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu sự nghiệp xây dựng CNXH của Việt Nam. Tính chất thâm độc của các thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong những năm gần đây là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng-sai lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nếu cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động sẽ dễ sa vào những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch.
Trước tình hình trên, việc làm rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là cơ sở phản bác thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng CNXH nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hiện nay, đa số cán bộ, đảng viên là những người có tri thức, được học tập, công tác, lao động trong điều kiện thuận lợi, do đó, cần hết sức tỉnh táo trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc về CNXH và con đường đi lên CNXH dưới những hình thức khác nhau, trên những diễn đàn khác nhau, nhất là internet và mạng xã hội. Khi thấy những thông tin trên mạng xã hội, cần tỉnh táo nhận diện nguồn tin, tránh bình luận, chia sẻ tùy tiện. Điều này vô tình tuyên truyền cho các luận điệu sai trái, thù địch. Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên cũng cần biết lợi dụng thế mạnh của internet, mạng xã hội để tuyên truyền, lan tỏa những thông tin tốt về tính ưu việt của CNXH, sự đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Đối với cán bộ, đảng viên có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cao, cần nêu cao tinh thần đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, thù địch thông qua việc viết bài trên các sách, báo, tạp chí hay tham gia những diễn đàn báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng xã hội... Những sản phẩm đấu tranh trực diện đó thường có tính lan tỏa mạnh mẽ đối với cán bộ, đảng viên, tác động trực tiếp đến tâm lý, tư tưởng và định hướng dư luận trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Thái độ thờ ơ, dao động của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là đáng phê phán và cần có những biện pháp để chấn chỉnh kịp thời, nếu không xử lý dứt điểm dễ dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc loại bỏ thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng CNXH là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN trong tình hình hiện nay./.

ST.

 

Đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về vai trò của công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

 Hiện nay, các thế lực chống đối và thù địch đang tăng cường sử dụng các phương tiện truyền thông, internet, blog, mạng xã hội, các đài phát thanh chương trình Việt ngữ, báo, tạp chí, nhà xuất bản tiếng Việt, các website; lập nên những “diễn đàn” (forum) hòng tập hợp những phần tử bất mãn, chống đối và cả những kẻ đã bị kỷ luật giờ quay lại chống phá… nhằm “tập hợp ý kiến”, nhân danh “đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực”, “phản biện xã hội”, “hiến kế cho Đảng”… Từ đó, trích dẫn, bình luận và  phát tán những thông tin xấu, độc nhằm chống phá, xuyên tạc về vai trò của công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam. Có thể nhận diện luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch qua các nhóm vấn đề sau:

Thứ nhất, các thế lực thù địch cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng công tác chính trị là nhằm mục đích biến quân đội thành “công cụ bạo lực tiêu diệt tất cả những ai chống lại Đảng”(!?). Họ sử dụng các kỹ thuật cắt xén, lắp ghép hình ảnh của các cuộc hành quân, tập trận, hình ảnh hỗ trợ lực lượng an ninh trong công tác phòng, chống bạo loạn, trấn áp tội phạm… để rồi dựng lên câu chuyện quân đội “được Đảng điều đi để dập tắt một cuộc biểu tình của nhân dân”(!?) và “sẵn sàng dùng lực lượng đó để đàn áp những tiếng nói bất đồng chính kiến”.

Lịch sử gần 80 năm với những chiến công mang tầm vóc thời đại của Quân đội nhân dân Việt Nam đã cho thấy: Một trong những yếu tố vô cùng quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của Quân đội ta đó chính là nhờ có công tác lý luận chính trị trong quân đội. Có thể khẳng định, ngay từ khi được thành lập, những chiến công, những thành quả các mạng mà quân đội Nhân dân Việt Nam có được thì ngoài về con người và vũ khí còn phải kể đến vai trò của công tác lý luận chính trị. Việc Đảng ta đã ban hành Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (1944) để từ đó hình thành nên Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 chiến sĩ (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay) đã cho thấy công tác lý luận chính trị “không chỉ có giá trị định hướng dẫn dắt mọi hoạt động của Đội mà nó còn đánh dấu bước hoàn chỉnh lý luận xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền ở Việt Nam”. Đây cũng là cơ sở đầu tiên dẫn đến hai chiến thắng liên tiếp là Phai Khắt và Nà Ngần vào ngày 24 và 25/12/1944. Chiến thắng này đã tác động mạnh mẽ, gây tâm lí hoang mang, lo sợ trong hàng ngũ quân địch, đồng thời cổ vũ tinh thần cách mạng của quân chúng nhân dân, gấp rút chuẩn bị mọi mặt để đón thời cơ vùng dậy đạp đổ xiềng xích của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Trải qua thời gian, từ Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (1944) cho đến các văn kiện ở các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc sau này đều đã khẳng định: Công tác chính trị với nền tảng là Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã giúp cho cán bộ và chiến sĩ trang bị thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn, niềm tin cộng sản; ngày càng nêu cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”... Từ đó, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Công tác này đã kịp thời định hướng tư tưởng cho bộ đội trước những vấn đề nhạy cảm, phức tạp; xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”; đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động.

Là đội quân từ “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ”, nếu trong thời chiến, những chiến thắng hiển hách của quân đội ta đều là những chiến thắng trước kẻ thù xâm lược và phá hoại (thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, Khơ-me Đỏ ở biên giới Tây Nam; Trung Quốc ở biên giới phía Bắc…) thì trong thời bình, đó là sự dũng cảm, mưu lược đầy trí tuệ và khoa học trước những nhiệm vụ mới. Đó là Dự báo và nắm chắc đúng tình hình liên quan đến quốc phòng - an ninh, trong quan hệ đối nội và đối ngoại; luôn chủ động để đất nước không bị động, bất ngờ về chiến lược, đồng thời không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá; luôn giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quan hệ tốt với các nước láng giềng; bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững; luôn là lực lượng xung kích đi đầu và thể hiện trách nhiệm cao trong việc giúp dân, giúp nước trong phòng chống đại dịch Covid-19, thiên tai, bão lũ... Đặc biệt, trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế với mục tiêu hòa bình, ổn định để cùng phát triển, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ cao cả, như: giúp nhân dân Campuchia, nhân dân Lào trong sự nghiệp đấu tranh chống quân xâm lược, giải phóng dân tộc; cử các đội tình nguyện thực thi các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi (thông qua các Bệnh viện dã chiến các cấp) và gần đây nhất là cử Đoàn cứu hộ, cứu nạn gồm 76 cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đã đến Thổ Nhĩ Kỳ làm nhiệm vụ hỗ trợ nước bạn khắc phục hậu quả thảm họa động đất... Những việc làm này đã góp phần khẳng định uy tín, vị thế, tinh thần trách nhiệm, năng lực tác chiến của Quân đội ta và khẳng định với thế giới: Quân đội Nhân dân Việt Nam là đội quân không chỉ bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ Nhân dân, bảo vệ Tổ quốc mà còn hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả. Do đó, cái gọi là “công cụ” để “tiêu diệt tất cả những ai chống lại Đảng” chỉ là những chiêu trò vu khống, xuyên tạc mà các thế lực thù địch đã và đang tiến hành.

Thứ hai, hoàn toàn ấu trĩ và sai lầm khi cho rằng: vì được trang bị công tác chính trị của Đảng nên quân đội Việt Nam đã mất đi vai trò “trung lập” cũng như mất đi sức mạnh, sức chiến đấu

Theo Từ điển Tiếng Việt, “trung lập” có nghĩa là một tổ chức, một tập thể hoặc cá nhân nào đó “đứng ở giữa hai bên đối lập, không theo hoặc không phụ thuộc vào bên nào”. Chiếu theo nghĩa này thì “quân đội trung lập” là khi “không theo hoặc không phụ thuộc” vào một trong “hai bên đối lập”, và quân đội của một quốc gia chỉ “trung lập” khi quốc gia đó đang có sự tồn tại của “các bên đối lập” tranh giành nhau về quyền lực, lợi ích, vị thế xã hội…

Xét trong bối cảnh tổng thể hiện nay, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một khối thống nhất về mặt dân tộc, lịch sử, kinh tế... Hệ thống chính trị của Việt Nam gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng chung mục đích xây dựng, phát triển đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội, do Đảng Cộng sản lãnh đạo: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”… Như vậy, ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn không có cái gọi là “hai bên đối lập”!

Ở Việt Nam, trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng: “Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng Quân đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp và chịu sự lãnh đạo của giai cấp đã tổ chức ra nó; đó là cơ sở để xác định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ của Quân đội. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, luôn mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tỉnh nhân dân sâu sắc, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân”… Như vậy, quân đội xét ở bất kỳ góc độ nào cũng không thể có cái gọi là “quân đội trung lập”! Điều này, đã từng được Lênin chỉ rõ: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị, đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ, giả nhân, giả nghĩa của giai cấp tư sản…”.

Rõ ràng là “Quân đội không thể và không nên trung lập”. Vậy thì, sức mạnh, sức chiến đấu của quân đội có phụ thuộc vào yếu tố “trung lập” hay là phụ thuộc vào các yếu tố khác? Khi bàn về sức mạnh, sức chiến đấu của quân đội, Ph.Ăngghen cho rằng: “Toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu của quân đội, và do đó thắng lợi hay thất bại rõ ràng là phụ thuộc vào các điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế”Như vậy, sức mạnh, sức chiến đấu cho quân đội được hình thành trước hết là do “điều kiện kinh tế” và sau đó là nhiều yếu tố khác gắn với từng hoàn cảnh lịch sử và từng quốc gia riêng biệt. Từ lý luận của Ăngghen, đối chiếu vào lịch sử và thực tiễn hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam, chúng ta thấy: Sức mạnh của quân đội cách mạng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: con người, vũ khí, trang bị, nghệ thuật, cách đánh, truyền thống dân tộc… trong đó, con người và vũ khí là yếu tố cơ bản nhất. Đặc biệt, yếu tố giữ vai trò quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội là yếu tố chính trị tinh thần: “Quân đội muốn nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ sẵn sàng chiến đấu; đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới thì phải lấy vững mạnh về chính trị và chuẩn mực “Bộ đội cụ Hồ” làm cơ sở”.

Thứ ba, chỉ là chiêu trò đánh tráo khái niệm khi cho rằng một số cán bộ, sĩ quan trong quân đội vi phạm kỷ luật là “sai phạm của cả hệ thống”, là “căn bệnh chung do quy trình đào tạo bổ nhiệm cán bộ tạo ra”.

Thời gian qua, đã có một số sĩ quan cấp tướng và nhiều cán bộ khác của quân đội được giao trọng trách nhưng đã mắc những vi phạm, khuyết điểm nghiêm trọng; làm thất thoát, lãng phí lớn ngân sách Nhà nước, ảnh hưởng đến kỷ luật, kỷ cương quân đội và gây bức xúc trong xã hội.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những sai phạm này, tuy nhiên, nguyên nhân cơ bản và sâu xa nhất đó là do ý định chủ quan của chính những người vi phạm. Cụ thể: Những người vi phạm này, hoặc là họ lợi dụng việc được nhà nước, quân đội giao nhiệm vụ để cấu kết, sai phạm; hoặc là mắc bệnh công thần, kiêu ngạo, đến chủ nghĩa cá nhân, xa rời tổ chức, coi thường kỷ luật Đảng, kỷ cương phép nước. Họ không ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của mình, đòi hỏi thái quá ở tổ chức, tự cao, tự đại nên đã nảy sinh tiêu cực. Những người này là những người suy thoái về tư tưởng chính trị, lối sống; thiếu bản lĩnh chính trị, thiếu thường xuyên rèn luyện đạo đức... và hoàn toàn không phải là đại diện cho cho quân đội, cho hệ thống chính trị Việt Nam!

Thực tế đã cho thấy: lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội và các cựu chiến binh, cựu quân nhân vẫn luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; luôn giữ gìn và phát huy truyền thống cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. Những trường hợp sai phạm như trên chỉ là cá biệt, là “con sâu làm rầu nồi canh” và đã phải nhận những hình thức kỷ luật đích đáng. Điều này đã cho thấy quan điểm nhất quán của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và rộng hơn là của Đảng và Nhà nước ta: Vừa kiên quyết xử lý sai phạm một cách công khai, nghiêm minh để giữ cho được lòng tin của nhân dân, giữ cho được bản chất trong sạch của chế độ, vừa giữ vững những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của quân đội.

Như vậy, việc một số cán bộ, sĩ quan trong quân đội vi phạm kỷ luật  hoàn toàn không phải là sai phạm của “cả hệ thống” mà chỉ là sai phạm của cá nhân. Việc đổ thừa cho quy trình đào tạo bổ nhiệm cán bộ mà Đảng, Quân ủy trung ương, thực chất chỉ là chiêu trò lèo lái dư luận, đánh tráo khái niệm nhằm chia rẽ và phá hoại của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, việc các thế lực thù địch, phản động lấy hình thức/nguyên cớ để quy chụp, phủ nhận còn cho thấy rằng, họ hoặc cố tình, hoặc rất kém hiểu biết về thực tiễn sinh động đang diễn ra. Bởi lẽ, trước hoặc cùng một sự vật sự việc nhưng lại mang một tư duy hẹp hòi, định kiến thì hẳn nhiên những người này sẽ không hoặc khó có thể nhìn thấy điểm tốt, điểm tích cực của sự vật, sự việc ấy.

*          *

*

Rõ ràng, các quan điểm sai trái, xuyên tạc về vai trò của công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam mà các thế lực thù địch đang tiến hành, về bản chất đó là sự chia rẽ và phá hoại nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội, vô hiệu hóa vai trò của quân đội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, để đập tan âm mưu phản động này, chúng ta cần làm tốt hơn nữa công tác chính trị trong quân đội: Kịp thời định hướng tư tưởng cho bộ đội trước những vấn đề nhạy cảm, phức tạp; xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”; đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động; giữ vững được bản lĩnh chính trị, giữ vững kỷ cương, kỷ luật một cách nghiêm minh… và hơn hết: “Bất luận trong hoàn cảnh nào cũng luôn kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân; tách rời sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta sẽ mất phương hướng chiến đấu, phân rã về chính trị, tư tưởng, tổ chức, không còn sức mạnh để chiến thắng quân thù. Bài học đắt giá về sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây vẫn còn nguyên giá trị”. Đây cũng chính là một trong những cơ sở quan trọng để góp phần vào việc xây dựng một nước Việt Nam “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” như mong muốn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Đặt trong bối cảnh lịch sử gần 80 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đặt trong mối quan hệ biện chứng “cá – nước” giữa Quân đội và Nhân dân Việt Nam, và xét trong mối quan hệ với thế giới, chúng ta hoàn toàn có cơ sở khẳng định rằng: Công tác lý luận chính trị trong Quân đội không phải là hoạt động giáo lý khiến cho người chiến sĩ u mê, chỉ biết có mỗi việc cầm vũ khí; cũng không phải là sự ràng buộc để làm cho quân nhân sợ sệt… như những luận điệu xuyên tạc và xảo trá của các thế lực thù địch, chống đối "nhai đi nhai lại"; mà ngược lại: “Bản chất công tác đảng, công tác chính trị là hoạt động lãnh đạo. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, ứng tác chính trị chính là giữ vững và phát huy sự lãnh đạo của tặng đối với các mặt hoạt động, các nhiệm vụ của Quân đội, góp phần xây dựng tổ chức, con người vững mạnh, thiết thực xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị”./.

ST.

Đập tan luận điệu “đổi mới ở Việt Nam đã cạn kiệt nguồn lực”

Tổng kết 35 năm đổi mới đất nước, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “...tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới". Thế nhưng, vẫn có những luận điệu cho rằng: “đổi mới ở Việt Nam đã cạn kiệt nguồn lực”, “đổi mới như vậy coi như đã xong, không cần đổi mới nữa”. Để phản bác tính chất sai trái của luận điệu này, chúng ta hãy xem xét các chiều cạnh của vấn đề.

Các đại biểu biểu quyết, thông qua Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Ảnh: Phạm Cường.

Các đại biểu biểu quyết, thông qua Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
 Ảnh: Phạm Cường.

ĐỔI MỚI VÀ NGUỒN LỰC CỦA ĐỔI MỚI

Theo Từ điển tiếng Việt, đổi mới là “điều thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước đây, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển”(2). Bản chất của đổi mới là sự phủ định biện chứng cái cũ, phát triển thành cái mới tốt hơn, tiến bộ hơn. Trong xã hội, đổi mới là một cuộc vận động mang tính cách mạng không ngừng để thay cái cũ bằng cái mới tốt đẹp, tiến bộ hơn. Đối với Việt Nam, đổi mới mang tầm vóc của một cuộc cách mạng mà đích hướng tới là phát triển con người, vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như vậy, đổi mới gắn liền với phát triển, là một phương thức của phát triển. Bên cạnh những nguồn lực, động lực thúc đẩy xã hội thì đổi mới cũng luôn gặp những lực cản, trở ngại của tư duy cũ, thể chế cũ, thói quen cũ.

Nguồn lực là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động nào nếu muốn có kết quả. Đổi mới sẽ không thể thành công nếu không có các nguồn lực bảo đảm. Nguồn lực của đổi mới là nguồn sức mạnh vật chất và tinh thần được huy động để tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Xét về phạm vi lãnh thổ, có nguồn lực trong nước và nguồn lực bên ngoài. Nguồn lực trong nước gồm: trữ lượng tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn lao động, tiềm lực về kinh tế, quốc phòng, an ninh,… thể chế chính trị, truyền thống lịch sử - văn hóa, sức sáng tạo của con người, hệ giá trị và chính sách của quốc gia. Nguồn lực từ bên ngoài gồm: vốn, thị trường, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh từ các nước khác. Xét về nguồn gốc hình thành, có nguồn lực tự nhiên, đó là điều kiện địa lý, tài nguyên đất đai, khoáng sản, nguồn nước, năng lượng mặt trời, năng lượng gió và các loại tài nguyên sinh vật và phi sinh vật khác trên mặt đất, trong lòng đất, dưới đại dương,… và nguồn lực phi tự nhiên là các loại nguồn lực chủ yếu được tạo ra bởi con người, như: thể chế quản lý, nhân lực, vốn, giá trị văn hóa, khát vọng phát triển, tư duy lãnh đạo, sở hữu trí tuệ. Trong hệ thống các nguồn lực thì nguồn lực trong nước có vai trò quyết định đến sự nghiệp đổi mới; nguồn lực bên ngoài là yếu tố quan trọng. Việc kết hợp đúng đắn, khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẽ quyết định đến sự thành công của đổi mới.

VẠCH TRẦN ẨN Ý THÂM ĐỘNG CỦA LUẬN ĐIỆU “ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM ĐÃ CẠN KIỆT NGUỒN LỰC”

Một cách chung nhất, “cạn kiệt” được hiểu là “cạn sạch, đến mức không còn tìm đâu, lấy đâu ra nữa”3. Theo đó, “cạn kiệt nguồn lực” là cạn sạch, không còn nguồn lực nữa. Có thể thấy rằng, luận điệu trên không đơn thuần là một bình luận, một nhận định hay một đánh giá, mà ẩn ý của nó là một sự phủ định sạch trơn về nguồn lực của đổi mới. Điều đó cũng đồng nghĩa với phủ định đổi mới. Bởi, khi không còn nguồn lực tiếp sức thì đổi mới tự nó cũng kết thúc. Ẩn ý là rõ ràng và rất tinh vi. Họ không trực tiếp phủ nhận đổi mới, mà phủ nhận đổi mới thông qua phủ định nguồn lực của nó. Từ đó họ “khuyên” ta không nên đổi mới nữa, vì “đổi mới đã xong”, nghĩa là “đổi mới đã chết”(!?). Không đổi mới đồng nghĩa với không phát triển theo mục tiêu, con đường đã xác định, đã lựa chọn; là dừng lại, thỏa hiệp, đầu hàng trước cái cũ, cái lỗi thời, lạc hậu.

 Thực tế, chúng ta đã từng trải qua những thời khắc lựa chọn nghiệt ngã của lịch sử: “đổi mới hay là chết”. Chúng ta đã lựa chọn “đổi mới” và có được những thành quả như hôm nay. 

Mặt khác, sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Điều này đã được Đảng ta, Nhân dân ta và cộng đồng quốc tế ghi nhận. Ấy vậy mà những người đưa ra luận điệu trên lại thấy thành quả đổi mới chỉ là làm “cạn kiệt nguồn lực” của đất nước (!?). Từ đây, một câu hỏi được đặt ra: sự “cạn kiệt nguồn lực” này là do đâu và ai sẽ phải chịu trách nhiệm trước hiện trạng này? Ai cũng biết rằng, công cuộc đổi mới là do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhân dân thực hiện, theo đó, một hệ luận rất sâu xa ngầm được rút ra mà ai cũng hiểu sự ám chỉ của nó. Cái tinh vi là họ không trực tiếp đổ lỗi, không quy cho một chủ thể nào một cách trực diện, võ đoán, nhưng đích mà họ nhắm đến là nhất quán, không thay đổi, đó là: phủ nhận đổi mới, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nham hiểm ở chỗ, chỉ với một luận điệu nêu ra, các thế lực thù địch đã nhằm hai đích: phủ nhận công cuộc đổi mới và vai trò lãnh đạo của Đảng ta.

ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM CHƯA BAO GIỜ VÀ SẼ KHÔNG BAO GIỜ CẠN KIỆT NGUỒN LỰC

Chúng ta có thể khẳng định rằng, đổi mới ở Việt Nam chưa bao giờ và sẽ không bao giờ cạn kiệt nguồn lực bởi các lẽ sau:

Thứ nhất, đổi mới ở Việt Nam là đổi mới sáng tạo và tự giác. Đó là một chương trình cải cách có mục tiêu, nguyên tắc, lộ trình và những bước đi thích hợp, do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo nhân dân thực hiện. Công cuộc đổi mới được hoạch định, trù liệu và được dẫn dắt bởi cương lĩnh, chiến lược, đường lối, quan điểm của Đảng. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm quan trọng, then chốt của đổi mới, Đảng ta đều có những quyết sách đúng đắn nhằm phát hiện đúng các nguồn lực, kích hoạt các nguồn lực đó thông qua các cơ chế, chính sách, giải pháp tác động vào con người, xã hội để khai thác, phát huy vai trò các nguồn lực phục vụ cho đổi mới và phát triển đất nước. Báo cáo tổng kết 30 năm đổi mới của Đảng đã chỉ rõ: “Cần đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế, các cơ chế, chính sách, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để khơi dậy những tiềm năng, nguồn lực của đất nước, tạo ra động lực mới cho quá trình đổi mới”(4).

Thứ hai, đổi mới ở Việt Nam vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, do đó đã phát huy được mọi nguồn lực to lớn trong nhân dân. Mục tiêu đó không chỉ có tác dụng định hướng công cuộc đổi mới mà còn đóng vai trò nguồn lực thúc đẩy đổi mới các lĩnh vực khác. Việc thực hiện hiệu quả các mục tiêu này cho phép phát huy được các nguồn lực rất to lớn trong nhân dân, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm nhân lực, tài lực và vật lực. Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn tạo cơ chế, chính sách hợp lý, môi trường thuận lợi; phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội; hoàn thiện thể chế, chính sách,... để thu hút, phát huy tối đa các nguồn lực cho phát triển đất nước. Đại hội XII của Đảng đã đề ra chủ trương thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân,… qua đó đẩy mạnh đồng bộ công cuộc đổi mới.

Thứ ba, sự kết hợp giữa “ý Đảng với lòng dân và kỷ cương phép nước” đã tạo ra nguồn lực to lớn, có tính quyết định của đổi mới. Đổi mới ở Việt Nam là sự kết hợp, bắt gặp, đồng thuận giữa đổi mới từ cơ sở, từ phía người dân với đổi mới từ các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Đó là sự đồng thuận giữa “ý Đảng và lòng dân”, làm cho sự nghiệp đổi mới của Việt Nam trở thành sự nghiệp chung của toàn dân, do Đảng lãnh đạo. Điều này cho thấy nguồn lực của đổi mới là nguồn lực to lớn của nhân dân; sức mạnh của đổi mới là sức mạnh của nhân dân, của dân chủ, đoàn kết, gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn lấy “đoàn kết” làm giá trị cốt lõi và “đại đoàn kết toàn dân tộc” làm đường lối chiến lược trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng, là nguồn lực và động lực chủ yếu của dân tộc Việt Nam. Đây là nguồn lực mang tính quyết định đối với sự nghiệp đổi mới. Do đổi mới là sự đồng thuận giữa “ý Đảng và lòng dân”, nên khi Đảng ta phát động đổi mới thì lập tức được nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo hiệu ứng mạnh mẽ: “Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, trở thành nguồn lực to lớn cho sự nghiệp đổi mới đất nước.

Thứ tư, bản thân đổi mới là một nguồn lực quan trọng nhất để duy trì lợi thế phát triển. Đổi mới không chỉ là phương thức, mà còn là một nguồn lực của phát triển. Đó là nguồn lực được sinh ra trong quá trình đổi mới, là kết quả của đổi mới, do chính những thành tựu của đổi mới tạo ra. Nguồn lực tự sinh này bắt nguồn từ tầm vóc lịch sử, quyết sách chiến lược của đổi mới; triết lý giải phóng - sáng tạo - phát triển của đổi mới; đặc điểm, tính chất của đổi mới, v.v. Nguồn lực này tiếp thêm sức mạnh cho đổi mới, tạo thế và lực mới cho đất nước ta. Tất cả các nguồn lực khác, nếu không có đổi mới thì sẽ được quản lý, khai thác, phân bổ theo cách thức, tư duy cũ sẽ không phát huy tối đa hiệu quả. Nhờ đổi mới, các nguồn lực cũng sẽ được phân bổ hợp lý hơn, nuôi dưỡng và tái tạo để không bị suy giảm trong quá trình khai thác, sử dụng. Cũng nhờ đó, mà tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc được khơi dậy mạnh mẽ, trở thành nguồn lực vô tận của đổi mới và phát triển.

Nguồn lực của đổi mới không phải là một, là duy nhất mà là một hệ thống, bao gồm nhiều nguồn lực, cả vật chất và tinh thần, trong kinh tế, chính trị và văn hóa, trong các giá trị truyền thống đã kết tinh thành di sản, trong các giá trị mới được sinh ra từ đổi mới và phát triển. Thời gian qua, bên cạnh những thành công trong khai thác, phát huy các nguồn lực thì những hạn chế, yếu kém trong quản lý cùng với những tiêu cực, lãng phí đã làm thất thoát rất lớn các nguồn lực của đất nước. Điều này đã làm không ít người hiểu sai bản chất của đổi mới, bản chất của Đảng ta, để một số phần tử cơ hội chính trị lợi dụng reo rắc những luận điệu sai trái, thù địch nhằm kích động, gây phân tâm trong một bộ phận nhân dân, cán bộ, đảng viên. Việc vạch trần các thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc và phản bác các luận điệu sai trái của các phần tử cơ hội này là hết sức cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Qua đó, giúp chúng ta ngày càng hiểu đúng và vững tin hơn vào con đường mà Đảng và Nhân dân ta đã chọn để thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

ST.