Chủ Nhật, 4 tháng 4, 2021

Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Vậy thì vấn đề cơ bản của chính quyền là gì? là chính quyền đó thuộc về ai? phục vụ cho ai?

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chính quyền đó là của dân, phục vụ lợi ích của dân. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người nói: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”[1].


Sau khi chúng ta giành được độc lập tháng 8/1945, Người đã xác định: “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại: Quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân”[2].

Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân được biểu hiện:

* Nhà nước của dân:

- Là nhà nước đại diện chân chính cho các tầng lớp nhân dân, nhân dân lao động làm chủ nhà nước.

- Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.

- Nhà nước của dân thì phải hình thành được những thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân.

Nghĩa là: Nhà nước là do nhân dân lao động làm chủ, mọi quyền bính đều ở nơi dân, mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia đều do dân tự phúc quyết (Đây là hình thức thông qua trưng cầu ý dân) điều này đã có trong hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng ban biên soạn.

Điều 1 - Hiến pháp 1946 đã quy định: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Hoặc điều 32 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”. 

* Nhà nước do dân:

Nhà nước do dân, trước hết là Nhà nước do nhân dân lập nên thông qua bầu cử theo luật định, nhân dân tự mình lựa chọn “bầu ra”, “cử ra” những người vào cơ quan nhà nước. Nhà nước đó là nhà nước của dân.

- Nhân dân có trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước (dân phải ủng hộ, giúp đỡ, phải có nghĩa vụ trách nhiệm đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, duy trì hoạt động…).

- Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan và các thành viên trong bộ máy Nhà nước.

- Nhân dân có quyền bãi miễn các thành viên trong bộ máy Nhà nước khi không còn đủ độ tin cậy, tín nhiệm của nhân dân: “Nếu Chính phủ làm hại cho dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.

Trong thực tiễn Người luôn yêu cầu tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

Không phải đến bây giờ mới nảy sinh chủ nghĩa cá nhân ở một số cán bộ Nhà nước, mà điều này đã có từ lâu. Bác đã từng phê phán không ít những cán bộ Nhà nước đại diện cho nhân dân còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân, từ đó sinh ra cửa quyền, quan liêu hách dịch: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ rồi ngang tàng phong túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân chứ không phải để cậy thế với dân”[3].

Trong Báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ XI Quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (ngày 18/ 12/1959), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những vị đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”[4].

* Nhà nước vì dân:

Theo Hồ Chí Minh, chỉ có Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng, kiểm soát thì trên thực tế mới là Nhà nước vì dân được. Nhà nước không vì dân thì không phải là Nhà nước của dân, do dân. Nhà nước vì dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là:

- Nhà nước phải tất cả vì nhân dân, chăm lo cho dân, lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu hoạt động của mình.

- Một Nhà nước vì dân là đòi hỏi một Nhà nước phải thực sự trong sạch vững mạnh, loại bỏ được những tiêu cực trong bộ máy Nhà nước.

+ Điều đó có nghĩa là: Nhà nước đó phải thực sự trong sạch vững mạnh, phải thực sự cần kiệm liêm chính. Nhà nước đó chỉ thực sự phục vụ cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân chứ không có đặc quyền đặc lợi gì hết. Ngày 31/5/1946, trước khi sang Pháp, Hồ Chí Minh đã nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó, đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền uỷ thác cho tôi gánh vác việc chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó”[5].

+ Trong nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân, việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh.

Tháng 3/1961 khi nói chuyện với đồng bào các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, Hồ Chí Minh đã nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả cán bộ từ Trung ương đến khu đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào  - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”[6].

Xét về quan hệ giữa quan với dân. Trước kia dưới chế độ cũ thì các viên quan chức tự xưng là cha mẹ dân để đè đầu cưỡi cổ dân. Dưới chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh đã lật ngược mối quan hệ đó. Người cho rằng Dân là chủ thì cán bộ từ chủ tịch trở xuống làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải là quan cách mạng. 

Theo Hồ Chí Minh: Người cán bộ Nhà nước phải thực hiện tốt cả hai mặt - Lãnh đạo và đầy tớ. Đó là hai mặt trong nhân cách của cán bộ đảng viên. Là người đầy tớ thì phải trung thành tận tuỵ, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, minh mẫn, biết nhìn xa trông rộng.

Ngày 17/10/1945, trong thư gửi UBND các Kỳ, Tỉnh, Huyện, và Làng, Người chỉ rõ: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì không ai dẫn đường”[7].



[1] HCM: Toàn tập. Nxb. CTQG, H. 2000, tập. 2, tr. 270.

[2] HCM: Toàn tập. Nxb. CTQG, H. 2000, tập. 5, tr. 698.

[3]  HCM: Toàn tập. Nxb. CTQG, H. 2000, tập. 4, tr. 57.

[4] HCM: Toàn tập. Nxb. CTQG, H. 2000, tập. 9, tr. 591.

[5] HCM: Toàn tập. Nxb. CTQG, H. 2000, tập. 4, tr. 240.

[6] HCM: Toàn tập. Nxb. CTQG, H. 2000, tập. 10, tr. 323.

[7] HCM: Toàn tập. Nxb. CTQG, H. 2000, tập. 12, tr. 498.  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét