Thứ Sáu, 2 tháng 7, 2021

Nguồn gốc tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở Việt Nam

 


Tục thờ Thành hoàng ở Trung Quốc đã có từ thời cổ đại và thần Thành hoàng được xem như vị thần bảo hộ thành trì, tức là bảo vệ bộ máy quan liêu và cư dân trong thành. Còn những thôn ấp ngoài thành thì có thần thổ địa bảo vệ và trong gia đình có thần thổ công.

Tín ngưỡng Thành hoàng ở nước ta có từ thời Bắc thuộc. Theo GS Nguyễn Duy Hinh: “Lý Nguyên Gia xây dựng La Thành năm 823, dựng đền thờ Tô Lịch làm Thành hoàng. Năm 866 Cao Biền lại phong Tô Lịch làm Đô phủ Thành hoàng Thần quân. Năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long lại phong Tô Lịch làm Quốc Đô Thăng Long Thành hoàng đại vương. Thi Trần phong thêm các mỹ tự Bảo Quốc, Hiền Linh, Định Bang cho Thành hoàng Tô Lịch”[1]. Việt điện u lỉnh cho biết có 2 vị Thành hoàng khác: Đằng Châu và Bạch Mã.

- Tín ngưỡng thờ Thành hoàng có nguồn gốc ban đầu là thần bảo hộ thành trì của vua quan, rồi sau đó được cải biến, mở rộng trong đời sống dân cư thành thần bảo hộ xóm làng.

Tín ngưỡng này trước hết xuất phát không phải vì lợi ích của “thứ dân”, mà nó chỉ làm cho thiêng liêng hơn, thần bí hơn vị thế, quyền uy của tầng lóp trên của xã hội. Từ ngày nước ta độc lập tự chủ, tín ngưỡng thờ Thành hoàng vẫn được các vua chúa Việt Nam duy trì. Dân ta tin rằng, đất có thổ công, sông có hà bá, cảnh thổ nào phải có thần hoàng ấy, do vậy phải thờ phụng để thần phù hộ, che chở cho dân, vì thế việc thờ cúng thần ngày càng phát triển.

Từ một thứ thần linh bảo hộ thành trì mang đậm nét Trung Hoa, ở xã thôn Việt Nam, tín ngưỡng thờ Thành hoàng đã trở thành một tín ngưỡng mang tính cộng đồng chung của làng xã người Việt, một thứ thần linh không chỉ có công hộ quốc mà còn ”bảo dân". Đến trước triều Nguyễn, tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở nước ta đã trở nên phổ biến cả ở ngoài Bắc và cả ở trong Nam. Song trên thực tế, tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở phía Bắc và phía Nam cũng có những dị biệt. Cư dân ở phía Bắc đã có quá trình định cư lâu đài, ổn định, vì vậy, số lượng thần được thờ nhiều hơn và phần nhiều đều có thần tích. Nhưng càng xuống phía Nam, Thành hoàng làng rất ít có “ngọc phả”, nên phần nhiều những nơi thờ tự chỉ đề một chữ “Thần”.

- Tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở Việt Nam có hai dòng rõ rệt

+ Một dòng mang đậm nét Trung Hoa, đó là những vị thần huyền bí, tối linh, hành trang mờ mịt.

+ Một dòng được Việt hóa thành Thành hoàng làng, với cả hai ý nghĩa: Bảo quốc và hộ dân. Thần Thành hoàng Việt Nam có gốc tích gn bó, gần gũi, phù hộ độ trì cho dân chúng, không còn nguyên vẹn là các thần linh chi bảo vệ thành trì của vua chúa, chống lại các cuộc nổi dậy của nông dân và nhằm tỏ rõ uy quyền của nhà vua.



[1] Nguyễn Duy Hinh: Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb.Khoa học xã hội, H.1998, tr.31.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét