Nếu
“tự lực” có nghĩa
là dựa vào sức mình để sống và làm việc, tuyệt đối không trông chờ, ỷ lại vào
người khác thì “tự cường” có nghĩa là tự làm cho mình mạnh lên, không chịu thua kém
người khác, dân tộc khác. Tự lực, tự cường, tự chủ là những phẩm chất tốt đẹp
của mỗi con người, mỗi dân tộc vì chứa đựng trong đó lòng tự trọng, ý chí vươn
lên và khát vọng khẳng định bản thân. Là người tìm đường và dẫn đường cho dân
tộc, Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần tự lực, tự cường và nổi bật trong tư
tưởng đặc sắc đó của Người là một số nội dung chính sau đây.
Thứ nhất, Hồ
Chí Minh coi tự lực, tự cường là tiền đề của độc lập tự do và là điều kiện tiên
quyết để phát triển quan hệ, vị thế ngoại giao.
Thực
tế đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa đã giúp Hồ Chí Minh hiểu
rằng: Công cuộc giải phóng phải là công cuộc “tự giải phóng” chứ không thể
trông chờ vào thiện chí hay sự bố thí, rộng lượng của những kẻ cướp nước. Vì
thế, lên án chủ nghĩa thực dân bao nhiêu thì Người cũng quyết liệt bấy nhiêu
trong việc kêu gọi nhân dân các dân tộc bị áp bức tiến hành cuộc đấu tranh tự
giải phóng: “Vận dụng công thức của Các
Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Trở
về lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau 30 năm hoạt động quốc tế, Người luôn nhấn mạnh: Việc giải phóng của ta phải do ta tự làm lấy chứ không thể trông
mong vào lực lượng bên ngoài. Tranh thủ điều kiện quốc tế thuận
lợi vào tháng 8/năm 1945, Người đã kêu gọi
đồng bào “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Sức mạnh như “triều dâng, thác đổ” của tinh thần dân tự giải phóng đã mang lại nền độc lập
thiêng liêng cho Tổ quốc.
Từ
kinh nghiệm và bài học thực tế của Việt Nam và thế giới, Người đã rút ra kết
luận: “Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Sau khi đã giành được chính quyền, với vị thế của một nguyên thủ
Quốc gia, Hồ Chí Minh tìm mọi cách để
duy trì sự độc lập,
tự chủ của nhân dân Việt Nam. Người nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều
khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”, kể cả sự can thiệp của các đồng minh. Khi động viên
toàn dân tích cực tham gia và ủng hộ kháng chiến vì nền độc lập thiêng liêng
của Tổ quốc, Người nói rõ: “Mỗi một người dân phải hiểu: Có tự lập mới độc lập,
có tự cường, mới tự do”.
Là
một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc, Hồ Chí Minh luôn coi đoàn kết quốc tế là chiến lược
trọng yếu của Đảng nhưng Người hiểu rằng, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế thì trước hết phải tăng cường nội lực dân tộc, phát huy tinh thần tự lực cánh
sinh. Người nhấn mạnh: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng. Thực lực là cái chiêng
mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”. Ngược lại, nếu không có thực lực thì không thể nói gì
đến ngoại giao, càng không thể mong muốn sự bình đẳng, độc lập, tự chủ mà “chỉ
là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của
ta vậy”. Tóm lại, giữa tự chủ, tự lực, tự cường và sức mạnh, vị
thế dân tộc có mối quan hệ tỉ lệ thuận với nhau.
Thứ hai, Hồ Chí
Minh khẳng định phát huy tinh thần tự lực, tự cường là trách nhiệm của Đảng và
Nhà nước Việt Nam trong mọi chặng
đường lịch sử.
Là biểu hiện của ý chí và
tinh thần độc lập, tự chủ, ngay từ khi tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã hiểu rằng: Nếu biến lý
luận Mác - Lênin thành “kinh thánh” và “công thức sáo mòn” thì tức là đã gạt bỏ
nó ra khỏi cuộc sống. Vì thế, Người đã rất sáng tạo trong việc vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Người đã đặt câu hỏi:
“Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử
nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể
nhân loại”. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh không chỉ làm cho học thuyết Mác -
Lênin được “Việt hóa”, thích ứng với điều kiện Việt Nam mà còn giúp nhân dân
Việt Nam thoát khỏi tâm lý thụ động để phát huy truyền thống tự lực, tự cường
của dân tộc để đi đến những thắng lợi vĩ đại.
Với
sự trải nghiệm của một người đã từng đi “năm châu, bốn biển”, ngay sau Cách mạng Tháng Tám,
Hồ Chí Minh đã cho rằng nền văn hóa mới của Việt Nam phải góp phần tẩy bỏ tâm
lý nô lệ để xây dựng một tinh thần mới - “tinh thần độc lập tự cường”. Thực hiện nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
của Hồ Chí Minh, trong mọi chặng đường cách mạng, Đảng Cộng sản và Nhà nước
Việt Nam đều nỗ lực phát huy tinh thần “Tự lực cánh sinh”. Nếu Cách mạng Tháng
Tám diễn ra theo tinh thần “mang sức ta mà giải phóng cho ta” thì phương châm
cuộc kháng chiến chống Pháp là “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh
sinh”. Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam không
chỉ cần tự lực, tự cường trong công cuộc kháng chiến, giành độc lập mà còn phải
tự lực tự cường cả trong việc xây dựng chế độ mới, đưa miền Bắc Việt Nam vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Người yêu cầu: “Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao
tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng
phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà”. Người căn dặn, trong
mọi hoàn cảnh, luôn phải “lấy tự lực cánh sinh làm gốc để ứng phó với mọi phát
triển của tình hình; dù tình hình ấy thuận lợi hay gay go thì ta vẫn chủ động”(10) bởi sự chủ động sẽ mang đến cơ hội
thành công và mọi sự phụ thuộc, lệ thuộc đều dẫn đến việc đánh mất quyền độc
lập dân tộc.
Thứ ba, Hồ
Chí Minh cho rằng tinh thần tự lực tự cường của dân tộc phải được xây đắp bằng
ý chí tự lực tự cường, tự lực cánh sinh của mỗi cá nhân.
Tinh
thần dân tộc là sự kết tinh ý chí, sức mạnh của toàn dân nên việc phát huy tinh
lần tự lực, tự cường không chỉ là trách nhiệm của lực lượng lãnh đạo mà là của
muôn dân. Tính tự lực, tự cường không chỉ giúp mỗi con người thành công mà còn
giúp họ trở thành những người có lòng tự trọng, hiểu biết và có một cuộc đời
hữu ích. Do đó, mỗi người dân phải tự tìm việc làm, tự lên kế hoạch, tự vượt
qua khó khăn để đạt được kết quả tốt nhất trong công việc; mỗi khi gặp khó khăn
thì tinh thần tự lực, tự cường trong họ càng phải được trỗi dậy và phát huy cao
độ. Hồ Chí Minh còn cho rằng tự lực, tự chủ là phẩm chất, quyền lợi mang “tính
người” và
nếu con người không có quyền tự chủ thì không còn là con người nữa. Vì thế,
Người đã viết: “Thế thượng thiên tân hòa vạn khổ/ Mạc như thất khước tự do
quyền!/ Nhất ngôn, nhất động bất tự chủ/ Như ngưu, như mã, nhậm nhân khiên” (Trên đời ngàn vạn điều cay đắng/ Cay đắng chi bằng
mất tự do/ Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ/ Để cho người dắt tựa trâu bò). Được
tự chủ, làm chủ cuộc đời là hạnh phúc lớn nhất nên khi chế độ dân chủ ra đời,
Hồ Chí Minh đã căn dặn nhân dân: Dân chủ không có nghĩa là muốn ăn bao nhiêu
thì ăn, muốn làm bao nhiêu thì làm mà phải
có tinh thần chủ động khắc phục khó khăn.
Trong
hoàn cảnh đất nước còn nghèo, miền Nam chưa được giải phóng thì tinh thần tự
lực, tự cường càng cần phải phát huy. Hồ Chí Minh căn dặn: “Cứ chờ Đảng và chờ Chính phủ giúp đỡ, thì không đúng đâu.
Đảng và Chính phủ đề ra chính sách, phái cán bộ về hướng dẫn, thế là giúp đỡ.
Nhưng đó là phụ. Lực lượng nhân dân tổ chức
nhau lại là chính. Không nên ỷ lại, mà phải
tự lực cánh sinh”. Hồ Chí Minh yêu cầu tinh
thần này phải được lan tỏa và trở thành ý thức tự giác trong mọi tầng lớp nhân
dân. Bộ đội phải coi tăng gia sản xuất cũng
là một bộ phận trong chính sách tự lực cánh sinh; các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ mặc dù nhận được sự giúp
đỡ của nhân dân, sự ưu tiên của chính phủ, cũng “cần phải cố gắng tăng gia sản
xuất, tự lực cánh sinh, tùy theo khả năng mà tham gia các công tác trong xã,
chớ nên yêu cầu quá đáng, ra vẻ “công thần”.
Tự lực, tự cường là phẩm chất cao quý mà người có đạo đức, có lòng tự trọng
phải có nên trong nhà trường, ngoài việc giáo dục cho học trò lòng yêu nước
thương nòi thì “phải dạy cho họ có chí tự lập tự cường, quyết không chịu thua
kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”.
Trong
công cuộc giải phóng phụ nữ thì “chị em phụ
nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình mà tự
mình phải tự cường, phải đấu tranh” cho
quyền lợi của chính mình… Sức mạnh của dân
tộc được quy tụ bởi sức mạnh của mỗi con người nên phát huy tinh thần tự lực,
tự cường của mỗi cá nhân trong xã hội là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh
Thứ tư, Hồ
Chí Minh khẳng định việc phát huy tinh thần tự lực, tự cường hoàn toàn không
loại trừ việc tranh thủ sự giúp đỡ của thế giới trên nguyên tắc lấy nội lực làm
nhân tố quyết định.
Với tư duy biện chứng, Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ
giữa nội lực và ngoại lực và Người luôn khẳng định: Tăng cường sức mạnh nội lực
không có nghĩa là đóng kín, khước từ sự giúp đỡ ở bên ngoài mà là phải tìm mọi
cách gia tăng sự ủng hộ của thế giới để nhân lên sức mạnh của nội lực. Ngay
trong cuộc sống của mỗi con người, có nhiều việc nếu được người khác giúp đỡ
thì sẽ trở nên dễ dàng hơn. Dù vậy, nội lực luôn giữ vai trò quyết định, ngoại
lực chỉ gia tăng sức mạnh cho nội lực mà thôi. Hơn nữa, sự giúp đỡ bên ngoài
phải thông qua lực lượng bên trong mới phát huy được tác dụng. Vì thế, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Khi Việt Nam
đánh Mỹ và nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh
vẫn kiên trì nhắc nhở cán bộ và nhân dân: “Các nước bạn ta, trước hết là Liên
Xô và Trung Quốc ra sức giúp đỡ ta một cách vô tư, khẳng khái, để chúng ta có
thêm điều kiện tự lực cánh sinh” chứ không phải để ta sinh ra tật ỷ lại,
trông chờ vào người khác. Trên thực tế,
sức hậu thuận của thế giới thường tỷ lệ thuận với những thắng lợi của nhân dân
ta và điều đó đã nói lên vai trò quyết định của nội lực.
Nhìn
chung, tự lực, tự cường là truyền thống của văn hóa Việt Nam và nó đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh phát huy lên một tầm cao mới.
Mai Năm Mới (ST)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét