Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là đặc biệt quan trọng. Chính quan điểm này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ và toàn thể nhân dân ta, phải làm thế nào để nông thôn tiến kịp thành thị, miền núi tiến kịp miền xuôi về mọi mặt, nền kinh tế phát triển bền vững, tự chủ, đồng bào ai cũng được ấm no, hạnh phúc. Đây là một trong những nét đặc sắc trong tư duy kinh tế Hồ Chí Minh.
Tiếp thu, vận dụng sáng tạo vào điều kiện
lịch sử và tình hình phát triển đất nước, có thể khẳng định, lý luận và thực tiễn
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự sáng tạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển tư tưởng của
Hồ Chí Minh về kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Mới đây, trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”. Điều này không chỉ tạo tiền đề xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam mà còn góp phần bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại mới.
Mô hình chủ nghĩa
xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là một xã hội, ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành, được tự do. Bác đặt vấn đề: “Chủ nghĩa xã hội là gì?
là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. Mình muốn ăn no, mặc ấm,
cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no, mặc ấm như thế mới đúng”, “Muốn
ăn no mặc ấm, mọi người phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đẩy
mạnh kinh tế nước nhà tiến lên”. “Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
Về phân phối dưới chủ nghĩa xã hội là thực hiện phân
phối theo lao động. Bác viết: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu
hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”
Đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa xã hội theo
Hồ Chí Minh: là xã hội có trình độ mọi
mặt cao hơn chủ nghĩa tư bản. Khi bàn về bản
chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh viết: “...xã hội không có chế độ
người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng lao động và có quyền
lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng”.
Người cũng quan tâm đặc biệt đến
công tác quản lý kinh tế. Người coi quản lý tốt là chìa khoá để phát triển kinh
tế quốc dân.
Về cách thức, bước đi trong quá
trình xây dựng CNXH theo tư tưởng của Người về kinh tế xã hội chủ nghĩa rất phù
hợp với đặc điểm tình hình đất nước và hoàn cảnh kinh tế Việt Nam. Thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ đặc điểm
của Việt Nam. Người cũng chỉ rõ: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng
muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn
mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức”.
Thứ hai, xây dựng
CNXH phải từ thấp đến cao. Bác Hồ nhận
thức rất đầy đủ quá trình phát triển của sự vật luôn tuân thủ đúng quy luật từ
thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Về đặc điểm, mục đích xây dựng nền kinh tế và tính chất
phức tạp, khó khăn của thời kỳ quá độ Bác khẳng
định rõ: “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa”. Người cũng xác định
rõ cần phải giải quyết tốt quan hệ giữa cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền
kinh tế mới.
Hai là, Bác luôn xác định thời kỳ quá độ
là quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, phải tiến dần từng bước lên chủ nghĩa
xã hội, nhưng có thể phấn đấu tiến nhanh, mạnh, vững chắc để rút ngắn quá trình
đó. Người viết: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xoá bỏ mọi chế độ người bóc
lột người ở nước ta, nhằm đưa lại đời sống no ấm cho toàn dân ta.
Ba là, Bác xác định rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước ta trong việc
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Người viết: “Tất cả những việc
Đảng và Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì mà
không đúng mục đích ấy là không đúng”.
Bốn là, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội còn nhiều lực lượng cản trở.
Người chỉ rõ “còn có kẻ địch chống lại cách mạng. Kẻ địch gồm có ba loại; Chủ
nghĩa tư bản và bọn đề quốc là kẻ thù rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống
lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ…Chủ nghĩa
cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta…Nó là bạn
đồng minh của hai kẻ địch kia”.
Về những nhiệm vụ kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ.
Người đã chỉ rõ cụ thể xác định những nhiệm vụ trước hết, trên hết, đây là nội
dung quan trọng trong việc định hướng hoạch định của Đảng và nhân dân ta trong
phát triển kinh tế thời kỳ quá độ lên CNXH mà trước hết là nhiệm vụ phát triển
lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, về xây dựng quan hệ sản xuất mới
và sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần . Người sớm nhận
thấy nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế:
Về sở hữu: Người xác đinh, “nước ta hiện
nay có những hính thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: Sở hữu của Nhà
nước tức là của toàn dân; Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân
dân lao động; Sở hữu của người lao động riêng lẻ; Một ít tư liệu sản xuất thuộc
sở hữu của nhà tư bản.
Về thành phần kinh tế: Ngươì viết: “Trong
chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân
dân). Các hợp tác xã. Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ. Tư bản tư nhân, Tư bản của Nhà nước.
Trong năm loại ấy, Kinh tế quốc doanh là kinh tế lãnh đạo và
phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã
hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản.
Về
tổ chức quản lý nền kinh tế. Theo Hồ Chí Minh nền kinh tế trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế kế hoạch hóa. Đặc biệt khi hoà bình lập lại, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc, lại càng cần phải tổ chức quản lý nền kinh tế có kế hoạch. Bác đã đặt
vấn đề phải xây dựng “Kế hoạch dài hạn” và “một kế hoạch chung thì phải đặt ra
với chung toàn quốc”.
Về
vấn đề phân phối.
Hồ Chí Minh xác định nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải
thực hiện phân phối theo lao động là chủ yếu. Người nói: “Tất cả mọi người phải
lao động. Có lao động thì mới có ăn. Không lao động thì không có ăn. Lao động
nhiều hưởng nhiều, lao động ít hưởng ít… Chính phủ không phát lương cho người
ngồi ăn không”.
Bác chú trọng tính công bằng trong phân
phối. “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng
ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được
Nhà nước giúp đỡ chăm nom”.
Bác
luôn nhắc nhở mọi người: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ
nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”.
Thứ ba, về
xây dựng phát triển nông nghiệp và xây dựng kinh tế tập thể trong nông thôn Việt
Nam. Nông nghiệp có vai trò
là cơ sở để phát triển các ngành kinh tế của đất nước. Bác khẳng định: “Nước ta
là một nước nông nghiệp…Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói
chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính” .
Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
đối ngoại.
Trong quan hệ đối ngoại Hồ Chí Minh luôn giữ nguyên tắc bảo vệ lợi ích quốc gia
đặt lên hàng đầu. Hồ Chí Minh có tầm nhìn chiến lược về kinh tế mở.
Thứ năm, tư
tưởng về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh. Trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc tư tưởng kết hợp
kinh tế với quốc phòng – an ninh là phải kiên quyết đấu tranh để giành cho được
độc lập dân tộc. Người nói “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của
tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
Sau
gần 40 năm đổi mới, nhờ sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với đặc điểm
tình hình đất nước, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng
ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh
mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là sự đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề lý luận, thực tiễn mới mẻ và hết sức phức
tạp, gắn bó giữa việc nhận thức quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Thấu
hiểu tình hình đất nước, với tư duy nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật và
quyết tâm đổi mới, tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta xác định: “Thời kỳ quá độ
ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn”.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái
niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình tổng
quát, là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc.
Về
mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đặc
trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở hữu về
tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể). Từ
khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên thực tế
có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu.
Đặc
trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân
là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Có
thể nói, trải qua gần 40 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản
và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ rõ quan điểm, xác định nhiệm vụ kinh tế của thời kỳ quá độ
lên CNXH. Đại hội XIII khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng
kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng
suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao,
sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Phát
triển khu vực kinh tế tư nhân để thực sự trở thành một động lực quan trọng của
nền kinh tế cũng là điểm nhấn trong văn kiện lần này. Văn kiện nêu rõ: “Xóa bỏ
mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư
nhân”.
Đại hội XIII nhấn mạnh: “Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước
ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện
đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước.”
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đất
nước của chúng ta phát triển thịnh vượng như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng:
“Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Trong bài viết:
"Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định:
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện;…
Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta
càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài,
vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.
Nói bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ
qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với
chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn
minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản.
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ
sang xã hội mới. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục tìm hiểu,
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một việc
làm rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay - khi mà toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta đang nỗ lực phát huy tiềm năng và sức mạnh của dân tộc để xây dựng nền
tảng kinh tế vững chắc, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần
của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước kiến tạo,
phát triển, liêm chính. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế; xây dựng nhà nước kiến tạo,
phát triển, liêm chính và hành động thông qua cân bằng quyền lực trong bộ máy
nhà nước và giải quyết quan hệ lợi ích phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường;
tôn trọng và bảo vệ sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; thực hiện phân cấp
quản lý với phân cấp ngân sách; tinh gọn và kiện toàn bộ máy.
Thứ hai, tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế
hợp lý, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước; đẩy mạnh phát triển ngành thương mại - dịch vụ, thúc đẩy hợp tác quốc
tế, đẩy mạnh xuất khẩu kết hợp xây dựng thương hiệu quốc gia về các sản phẩm chủ
lực của Việt Nam; đẩy mạnh phát triển kinh tế số và xã hội số theo Chiến lược
quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số...
Thứ ba, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thực thi các hiệp định thương mại tự
do (FTA), đặc biệt là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(EVFTA)...
Thứ tư, phát triển khu vực tư nhân, đổi
mới, năng động, sáng tạo; bảo đảm thể chế kinh doanh bình đẳng cho các doanh
nghiệp tư nhân; bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, tạo môi trường đầu tư
và cơ hội bỏ vốn; tăng cường hỗ trợ kỹ thuật nâng cao công nghệ và năng lực quản
trị; thực hiện liên kết với doanh nghiệp FDI.
Quân đội tham gia phát triển sản xuất,
xây dựng kinh tế đất nước là biểu hiện chức năng “đội quân lao động sản xuất”,
thể hiện bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt
Nam. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh việc Quân đội tham gia phát triển sản
xuất, xây dựng kinh tế đất nước là phù hợp tư tưởng Hồ Chí Minh và quy luật và
điều kiện Việt Nam. Đặc biệt trong thời kỳ mới, Quân đội ta tiếp tục vận dụng
sáng tạo ở mặt công tác này:
Thứ
nhất, các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các doanh nghiệp Quân đội cần
quán triệt sâu sắc, thực hiện đầy đủ quan điểm của Đảng về kết hợp kinh tế với
quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Trọng tâm là Nghị quyết số 820-NQ/QUTW ngày
17/12/2021 của Quân ủy Trung ương về “Lãnh đạo nhiệm vụ lao động sản xuất, xây
dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2030”.
Thứ
hai, tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh cơ chế bảo đảm thuận lợi cho các doanh
nghiệp Quân đội tham gia phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế đất nước. Đổi mới
cơ chế điều hành, đầu tư nâng cao hiệu quả xây dựng Khu kinh tế quốc phòng và
hoạt động của Đoàn kinh tế quốc phòng ở địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.
Thứ
ba, tiếp tục xây dựng, bổ sung hoàn thiện chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh
doanh, đầu tư phát triển sao cho phù hợp với đặc điểm, lĩnh vực sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp Quân đội, nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả.
Thứ
tư, quá trình tham gia phát triển kinh tế, các doanh nghiệp quốc phòng cần thường
xuyên tăng cường mối quan hệ gắn bó với chính quyền, nhân dân địa phương; giữ vững
ổn định chính trị; coi trọng bảo vệ tài nguyên, môi trường, thực hiện phát triển
bền vững vì lợi ích nhân dân và vì sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trên cơ sở đó, tiếp tục giữ vững hình ảnh tốt đẹp người “Bộ đội Cụ Hồ” trong
chiến đấu và trong lao động sản xuất; góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Bản thân trên cương
vị là học viên cần phải quán triệt sâu sắc những quan điểm chỉ thị nghị quyết của
cấp ủy về vấn đề phát triển kinh tế trong thười kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay; đồng thời có nhận thức và tuyên truyền đúng đắn trong đơn vị
về vai trò của Quân đội và mỗi quân nhân góp phần xây dựng kinh tế - xã hội,
hơn cả qua đó nâng cao ý thức thực hành tiết kiệm, giữ tốt, dùng bền, chống
lãng phí.
Hai là, thường xuyên tự giáo dục về việc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, về những quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ, xây dựng
kiến thức nền tảng để sau này định hướng đúng cho cán bộ chiến sĩ trong đơn vị,
qua đó vận dụng linh hoạt trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị.
Ba là, chủ động đấu tranh chống những biểu
hiện, mặt trái của nền kinh tế thị trường ở đơn vị như: lối sống thực dụng,
tham ô, sa vào tín dụng đen... Đồng thời, tích cực hoạt động trên mặt trận tư
tưởng lý luận, chống các quan điểm sai trái, xuyên tạc vấn đề phát triển kinh tế
ở Việt Nam hiện nay.
Đối với người chỉ huy cấp chiến thuật,
chiến dịch PK-KQ, xác định nhiệm vụ quản lý, bảo vệ bầu trời Tổ quốc đối với
Quân chủng PK-KQ đặt ra yêu cầu ngày càng cao, tính chất đa dạng, phức tạp, khẩn
trương, đòi hỏi phải đề ra những chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, chính
xác các tình huống tác chiến trên không, không để bị động, bất ngờ, lỡ thời cơ,
nhất là trên hướng biển, đảo.
Từ đó, thường xuyên nghiên cứu, nắm chắc
tình hình, âm mưu thủ đoạn của địch, nhất là đối tượng tác chiến phòng không để
có những phương án tác chiến chính xác, kịp thời, phù hợp với điều kiện của ta.
Bảo đảm chủ động trong mọi tình huống, kiên quyết không để bị động, bất ngờ, nhất
là trước khả năng địch tấn công từ trên không, trên biển; bảo vệ vững chắc Tổ
quốc từ sớm, từ xa.
Với lực lượng PPK, áp dụng những thành tựu
của cuộc cách mạng lần thứ 4, trên cơ sở vũ khí trang bị hiện có, tiếp tục đẩy
mạnh việc cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ lập trình như: 3D-SMAX, công
nghệ mô phỏng, xây dựng các mô hình, phần mềm phục vụ trong huấn luyện sát thực
tế chiến đấu. Góp phần nâng cao trình độ huấn luyện, khả năng SSCĐ và bảo vệ được tuổi thọ của những VKTB đã qua sử
dụng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét