Thứ Năm, 28 tháng 11, 2024

Kế thừa và phát triển các giá trị pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

 


Kế thừa và phát triển các giá trị pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổng kết hơn 35 năm đổi mới toàn diện đất nước và đề ra phương hướng cho giai đoạn tới, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”. Theo đó, cần phải tạo ra sự chuyển biến tích cực trên một số mặt sau đây:

Thứ nhất, nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc về bản chất và vai trò của Hiến pháp như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm trong xây dựng Hiến pháp năm 1946.

Trong mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực xô-viết với nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp, Hiến pháp cũng như pháp luật được quan niệm là của Nhà nước, do Nhà nước đặt ra, trước hết và chủ yếu là để quản lý xã hội, mà không phải là phương tiện trước hết và chủ yếu để tổ chức quyền lực nhà nước, quản lý bản thân Nhà nước và để giới hạn quyền lực nhà nước. Tuy đã có sự đổi mới một cách căn bản trong Hiến pháp năm 2013, nhưng những tư duy pháp lý này vẫn còn tồn tại trong thực tiễn lập pháp và thi hành pháp luật. Theo đó, Hiến pháp cũng như pháp luật hiện hành chưa thật sự được xem trước hết và chủ yếu là để tổ chức và quản lý bản thân Nhà nước, bảo đảm cho “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; không bị tha hóa sau khi nhân dân giao quyền và ủy quyền, đồng thời để bảo đảm và tạo điều kiện cho các quyền con người, quyền công dân được phát huy trong thực tiễn.

Những nhận thức chưa đầy đủ về Hiến pháp không những không phát huy được toàn vẹn vai trò của nó là phương tiện để nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình, thiết lập nên quyền lực nhà nước, mà còn thể hiện nhận thức chưa sâu sắc quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, nên nhân dân chưa được xem là chủ thể thực sự của quyền lập hiến, chủ thể phân công quyền lực nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm khi xây dựng Hiến pháp năm 1946. Vì thế, Hiến pháp chưa được coi là phương tiện để giới hạn quyền lực nhà nước, để ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Chừng nào chưa có nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc quyền lực nhà nước là của nhân dân, thì Nhà nước vẫn còn tìm cách làm lợi cho mình, mà trên thực tế là lợi ích của con người, của công dân vẫn còn bị vi phạm. Vì thế, phải thường xuyên nâng cao ý thức thượng tôn Hiến pháp như “thần linh pháp quyền” của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong đời sống Nhà nước và đời sống xã hội.

Thứ hai, cần nhận thức một cách đúng đắn việc phân công quyền lực.

Từ “tập quyền” sang “phân công quyền lực nhà nước” là một bước tiến mới về chất trong tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo trong tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta theo Hiến pháp năm 1946 và được Đảng và Nhà nước ta kế thừa và phát triển thành một nguyên tắc mới về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được ghi nhận trong Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và trong Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, cho đến nay nhận thức về nguyên tắc này chưa thật sự đầy đủ và sâu sắc, sức ỳ của nguyên tắc “tập quyền” và lợi ích cục bộ còn cản trở việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc “phân công quyền lực nhà nước”, việc phân cấp, phân quyền chưa rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động còn hạn chế.

Mặc dù, tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta đã theo nguyên tắc mới nói trên, nhưng nhiều người vẫn còn chịu ảnh hưởng của nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa trong mô hình nhà nước kế hoạch hóa, quan liêu, bao cấp, mà nội dung cốt lõi của nguyên tắc này là “tất cả quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất ở Quốc hội”. Theo đó, Quốc hội là cơ quan có toàn quyền, tổ chức quyền lực nhà nước không coi trọng việc phân công quyền lực giữa các quyền. Nếu có phân công thì cũng chỉ là sự phân công mang tính nội bộ do Quốc hội phân công cho Chính phủ và cho tòa án, nhằm mục đích thống nhất quyền lực nhà nước mà không phải phân công để đề cao trách nhiệm, để kiểm soát quyền lực nhà nước. Vì thế, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa không phù hợp với nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo tinh thần Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Thật ra, tính thống nhất của quyền lực nhà nước là một thuộc tính cơ bản của bất kỳ một nhà nước nào, dù đó là nhà nước tổ chức theo nguyên tắc tập quyền hay nguyên tắc phân quyền. Bởi, tập quyền hay phân quyền là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và không phải nhằm mục đích bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước. Thực tiễn chỉ ra rằng, dẫu phân quyền một cách cứng rắn như ở nước Mỹ, thì giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp chế ước và đối trọng nhau một cách quyết liệt, nhưng cuối cùng giữa các nhánh quyền lực cũng phải tìm cách thỏa hiệp để đi đến thống nhất. Quyền lực nhà nước không thống nhất thì xã hội rối loạn, Nhà nước sẽ sụp đổ, điều mà giai cấp cầm quyền cũng như xã hội không mong muốn. Phân công quyền lực nhà nước một cách hợp lý là cơ sở để kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm quyền con người, quyền công dân không bị xâm hại từ phía Nhà nước, do bị lợi dụng và lạm dụng quyền lực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

Hiện nay, ở nước ta (và hầu hết các nước dân chủ và pháp quyền) trên 90% dự án luật là do Chính phủ soạn thảo trình Quốc hội xem xét thông qua. Mặc dù, Hiến pháp năm 2013 đã xác định, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp nhưng vẫn còn quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Vì thế, nhiều người vẫn còn quan niệm Chính phủ được Quốc hội giao nhiệm vụ giúp Quốc hội soạn thảo dự án luật mà không phải xuất phát từ nhu cầu và đòi hỏi của bản thân quyền hành pháp là đề xuất, soạn thảo và đưa trình chính sách quốc gia của Nhà nước dưới dạng các dự án luật để Quốc hội với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, thay mặt nhân dân kiểm tra tính phù hợp và tính khả thi của các chính sách. Đồng thời, thông qua đó mà Quốc hội đánh giá trách nhiệm và năng lực của Chính phủ, kiểm soát hoạt động của Chính phủ, đặc biệt là kiểm soát các định hướng, chính sách của Chính phủ trong các dự án luật. Chính vì chưa nhận thức một cách sâu sắc, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, là nơi ra chính sách, mà chỉ nhấn mạnh một chiều tính chấp hành Quốc hội có thể làm cho Chính phủ dựa dẫm, ỷ lại Quốc hội, không coi trọng đúng mức một trong những quyền hạn và nhiệm vụ hàng đầu là soạn thảo dự án luật, dẫn đến chất lượng các dự án luật đưa trình Quốc hội không cao.

Đối với quyền tư pháp, mặc dù tại Điều 102, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Nhưng trong mối quan hệ với quyền lập pháp vẫn còn có những nhận thức không đầy đủ, vẫn còn chịu ảnh hưởng của nguyên tắc tập quyền nên tính “trội” vẫn thuộc về quyền lập pháp, chỉ Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao đối với quyền tư pháp mà ngược lại, tòa án không có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật của Quốc hội. Trong mối quan hệ với quyền hành pháp, tòa án mới chỉ có quyền xem xét và tài phán đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính mà chưa có quyền tài phán đối với các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ và các bộ ban hành. Vì vậy, cần sớm hình thành cơ chế tài phán tính hợp hiến của các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật.

Thứ ba, tiếp tục nâng cao nhận thức và tổ chức thực tiễn việc kiểm soát quyền lực nhà nước.

Mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã quy định thành nguyên tắc “kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, nhưng nhìn chung, những người thực thi quyền lực nhà nước chưa có nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc. Theo Hiến pháp năm 2013, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta bao gồm: giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 70); kiểm tra, thanh tra trong bộ máy hành chính (Điều 96); thanh tra, kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới (Điều 74, Điều 98 và Điều 112); giám đốc thẩm trong hoạt động xét xử của tòa án (Điều 104) và xét xử các quyết định hành chính và hành vi hành chính của các cấp tòa án; kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân đối với hoạt động tư pháp và giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9). Tuy nhiên, do nhận thức chưa thực sự đầy đủ nên các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước do Hiến pháp quy định nói trên chưa phát huy đầy đủ, hiệu lực và hiệu quả. Ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức theo nguyên tắc pháp quyền chưa như mong muốn. Một số người có chức, có quyền còn lo kiểm soát quyền lực nhà nước ảnh hưởng đến tính thống nhất, nên kiểm soát quyền lực nhà nước nửa vời, không làm quyết liệt, đến cùng. Ngược lại, kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa xuất phát từ quyền lực nhà nước là của nhân dân, kiểm soát quyền lực nhà nước là để bảo đảm quyền lực nhà nước không bị tha hóa, luôn luôn thuộc về nhân dân.

Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước trước  hết là những phương thức, những quy trình, quy định mà dựa vào đó, xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái với Hiến pháp và pháp luật của các thiết chế, các cá nhân có thẩm quyền, bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Vì thế, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải là một tổng thể bao gồm cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước thực hiện (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận, các phương tiện thông tin đại chúng, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và cá nhân công dân); cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong do các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tự kiểm soát mình và kiểm soát lẫn nhau. Đồng thời, phải hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách chuyên trách, độc lập do luật định (theo khoản 2, Điều 19, Hiến pháp năm 2013). Có như vậy, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình thì mới giải quyết được vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước một cách đầy đủ, trọn vẹn.

HAIVAN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét