QUAN ĐIỂM VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM
XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Quan
điểm về bảo vệ Tổ quốc là bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống quan điểm
của Đảng. Đảng ta khẳng định trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, không được một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm này thể
hiện sự trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, kế
thừa, phát huy truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta.
Sau 10 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nhận thức rõ
hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; phát huy truyền thống
yêu nước, đoàn kết, chủ động nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn,
thách thức, nỗ lực phấn đấu và đạt được nhiều kết quả, thành tựu rất quan
trọng, toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị ổn định, trật tự an toàn
xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh tiếp tục được giữ vững và tăng cường;
quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi
bật. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được phát huy. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều
tiến bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp
và tư pháp tiếp tục được hoàn thiện. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ
rệt. Việt Nam đang ngày càng chứng tỏ uy tín và tiếng nói có trọng lượng của
mình trong cộng đồng chính trị quốc tế, thúc đẩy vị thế chiến lược mới của nước
ta trong khu vực và trên thế giới.
Tuy
nhiên, việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc có nội dung còn chậm. Kinh tế – xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng, lợi thế của đất nước. Việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức. Xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế – xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới.
Hiện nay, thế giới đang
trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự
báo. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm hình thành ngày càng rõ nét hơn;
cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện, thậm chí
đối đầu. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt diễn biến phức
tạp và gay gắt hơn. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong
và ngoài nước cấu kết, tăng cường chống phá công khai và trực diện, với
âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Trước bối cảnh đó, để tiếp tục thực hiện
tốt hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, Ban Chấp hành trung ương
(Khóa XIII) đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 44- NQ/TW ngày 24
/11/2023, Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Nghị quyết chỉ rõ, phải: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia
– dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
bảo vệ nền văn hoá và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh quốc
gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng; giữ vững an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội; triệt tiêu các nhân tố gây mất ổn định chính trị
từ bên trong, kiên quyết không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập ở
trong nước, dập tắt nguy cơ xung đột quân sự, chiến tranh; giữ vững, củng cố,
tăng cường môi trường hoà bình để xây dựng, phát triển đất nước; đóng góp tích
cực vào gìn giữ hoà bình khu vực, thế giới.
Để thực hiện tốt Nghị quyết của Trung ương, cấp ủy,
chính quyền các cấp, ngành cần tổ chức nghiêm túc việc nghiên cứu, quán triệt
và xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của từng địa phương, cơ quan, đơn vị; định kỳ kiểm tra, đánh giá kết
quả thực hiện Nghị quyết, đồng thời, chú trọng một số nội dung sau:
Một là, kiên định và vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội và đường lối đổi mới, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đẩy
mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện
các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hai là, nâng cao hiệu quả xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Nâng cao năng lực thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả. Phát huy tốt vai trò giám sát,
phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, tăng cường
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số,
xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Gắn kết hài hoà, hiệu quả thị
trường trong nước và ngoài nước.
Bốn là, xây dựng Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số
quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản
xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm
2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại; bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu
rộng, hiệu quả. Ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng có chung biên giới.
Tích cực tham gia củng cố, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương, luật pháp
quốc tế. Tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới
về bảo vệ Tổ quốc.
Cùng
với quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thắng lợi những chủ trương, quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, chúng ta cần nêu cao cảnh giác, đấu tranh làm thất bại những âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực
thù địch. Gắn kết chặt chẽ “ý Đảng” với “lòng dân”, phát huy truyền thống yêu
nước, lòng tự hào, tự tôn, tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam là con đường
duy nhất đúng đắn để bảo vệ vững chắc Tổ quốc và “xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” theo Di nguyện của Chủ tịch Hồ
Chí Minh./.
BÀI 16 CẢNH GIÁC VỚI ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN
ĐỘI
Như một thông lệ, cứ vào dịp kỷ
niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch, phản
động, phần tử cơ hội chính trị lại ra sức tung ra những điệp khúc xuyên tạc
quen thuộc, hòng chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội. Mới đây, trên trang
“Hung-viet” đã phát tán bài viết “Quân đội nhân dân Việt Nam: Hãy trở về đúng
tên gọi của mình” với những luận điệu xuyên tạc nhằm chia rẽ, phủ nhận sự lãnh
đạo của Đảng đối với Quân đội, thúc đẩy “phi chính trị hóa” quân đội. Bởi vậy,
cảnh giác, nhận rõ và chủ động đấu tranh, bác bỏ các luận điệu đó là vấn đề
quan trọng, cấp thiết.
Vẫn
luận điệu cũ, Nguyên Anh rêu rao rằng: “Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng
đang bảo vệ đảng cầm quyền, họ hoàn toàn không bảo vệ người dân, bởi vì toàn bộ
cấu trúc hệ thống đều do hệ thống đảng ủy chỉ đạo”. Đây là luận điểm vô căn cứ,
phản khoa học nhằm tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
hòng thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội.
Về bản chất, quân đội bao
giờ cũng là công cụ bạo lực của một giai cấp, nhà nước và do nhà nước, giai cấp
đó thành lập, nuôi dưỡng, sử dụng để tiến hành đấu tranh vũ trang, thực hiện
mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng nó. Ở một số
quốc gia, quân đội còn tuyên thệ trung thành với người đứng đầu nhà nước (đương
nhiên cũng là người đứng đầu đảng chính trị cầm quyền). Điều II, khoản 2 Hiến
pháp Mỹ ghi rõ: “Tổng thống là Tổng Tư lệnh các lực lượng Lục quân và Hải quân
Hoa Kỳ và lực lượng dự bị ở một số bang”[1]. Rõ ràng, không có và không
thể có bất kỳ một quân đội nào lại không gắn với một đảng chính trị cầm quyền,
không bảo vệ lợi ích của giai cấp nào trong một chế độ xã hội nhất định.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của
giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức,
lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành nguyên tắc
căn bản trong xây dựng quân đội, quyết định bản chất giai cấp, mục tiêu lý
tưởng chiến đấu, sự trưởng thành, lớn mạnh và chiến thắng của Quân đội ta trong
mọi thời kỳ cách mạng. Điều đó được khẳng định rõ tại Điều 25, Chương VI, Điều
lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an
nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và sự trung thành tuyệt đối của Quân
đội đối với Đảng là hai mặt thống nhất của một chủ thể; hai mặt đó có mối quan
hệ biện chứng, không tách rời, được thực tiễn kiểm nghiệm trong suốt quá trình
xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta. Mối quan hệ giữa Đảng với
Quân đội là mối quan hệ lãnh đạo và phục tùng, Đảng giữ vai trò lãnh đạo đối
với Quân đội bằng một cơ chế đặc thù, bảo đảm cho Đảng thường xuyên giữ vững sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.
Thực
tiễn gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội ta không chỉ là
công cụ, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước mà còn là của
nhân dân, của dân tộc, chiến đấu cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng
hoàn toàn và triệt để quần chúng nhân dân lao động, phấn đấu không mệt mỏi cho
mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dù công tác ở đâu, đi
đến đâu, làm những nhiệm vụ gì, trong điều kiện chiến tranh hay hòa bình, ở đất
liền hay trên biển đảo, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đều ra sức bảo vệ, giúp đỡ,
tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai,
phấn đấu vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đó là biểu hiện sự thống nhất giữa
trung thành với Đảng và trung hiếu với nhân dân với đất nước, dân tộc trong
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam, xứng đáng với lời
khen tặng của Bác Hồ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
Do đó,
luận điệu của Nguyên Anh chỉ là chiêu trò đánh lừa dư luận, hòng phủ nhận sự
độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam,
nhằm phá vỡ nền tảng chính trị của Quân đội, làm cho Quân đội mất phương hướng,
mục tiêu chiến đấu, không còn khả năng làm nòng cốt cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, chúng ta cần kiên quyết đấu
tranh bác bỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét