SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC - CƠ SỞ CỦA TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Tôn giáo du nhập, hình thành ở Việt
Nam từ rất sớm, được người dân đón nhận bởi những giá trị nhân văn mà tôn giáo
mang lại phù hợp với đạo lý, văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt. Trải
qua chiều dài lịch sử dân tộc, tôn giáo luôn gắn kết chặt chẽ, đồng hành cùng
dân tộc, biểu hiện rõ nét nhất là các giá trị đạo đức, văn hóa. Việt Nam đã
công bố Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”, minh bạch hóa
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam và thành tựu
bảo đảm quyền tự do tôn giáo ở nước ta trong thời gian qua. Như vậy, khẳng định
rằng, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là chủ trương,
chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam và được thể chế
hóa bằng Hiến pháp, pháp luật. Điều 24, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định: “(1). Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng
trước pháp luật; (2). Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; (3). Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cùng với Hiến pháp năm 2013, việc thông
qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và hai Nghị định thực thi Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc để bảo đảm tốt hơn
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân.
Thế nhưng, gần đây nhất, trên trang Doithoainoline.com Phạm Trần có bài viết
“Có tự do tôn giáo ở Việt Nam không?”…. Họ tự cho mình quyền được khuyến khích,
cổ vũ các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, không cần xin phép, đăng ký chính
quyền, thúc đẩy các hoạt động “tà đạo, đạo lạ” ở các vùng sâu, vùng xa, gia
tăng hoạt động mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, trái pháp luật, gây bức
xúc trong xã hội và nhân dân. Họ xuyên tạc rằng “cả Hiến pháp và Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đều có những quy định nhằm hạn chế quyền tự do
tôn giáo”. Họ cho rằng “Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam bao gồm: các
điều khoản mơ hồ cho phép tự do tôn giáo vì lợi ích an ninh quốc gia và đoàn
kết xã hội là “bước thụt lùi”, “bóp nghẹt tôn giáo” không phù hợp với công ước
quốc tế về quyền con người”. Họ lợi dụng triệt để quan điểm “quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật” để cho rằng “tự do tôn giáo của Việt
Nam chỉ là hình thức”.. Họ dựa vào việc các tổ chức đội lốt tôn giáo, có những
hoạt động vi phạm pháp luật, như: tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình (Tây
Bắc), Hà Mòn (Tây Nguyên), tịnh thất Bồng Lai (Long An),… bị chính quyền xử lý
để vu khống Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo, cấm đoán tôn giáo, đàn áp tôn
giáo”, v.v.
Sau gần
40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, công tác tôn giáo ở Việt Nam ngày càng tốt
hơn. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI về “Tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” và Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công
tác tôn giáo đã có những bước đổi mới có tính đột phá, thừa nhận “tôn giáo là
vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận Nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng
xã hội mới” và “tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội”. Đây là những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện
một cách rõ ràng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không chỉ khẳng định sự “tồn tại lâu dài”
của tôn giáo, mà còn phát triển lên mức cao hơn, làm rõ mối quan hệ giữa tôn
giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với quan điểm đó, công tác quản
lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng vừa quan tâm giải quyết hợp lý
nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh việc chống lợi dụng
tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Hòa
trong dòng chảy lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam, với sức mạnh được
hun đúc từ mạch nguồn văn hóa: lòng yêu nước nồng nàn, ý thức độc lập dân tộc,
tự chủ, tự cường, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “thương người như thể
thương thân”, các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp nhất định trong những mức
độ khác nhau vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Không chỉ đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tôn
giáo còn là một bộ phận cấu thành của văn hoá Việt Nam. Những giá trị văn hóa
tốt đẹp, tiến bộ của tôn giáo đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền
văn hóa dân tộc Việt Nam. Bằng những giáo lý nhân văn, bác ái của mình, các tôn
giáo ở Việt Nam đã phát huy, lan toả các giá trị văn hóa, đạo đức nhân văn, bác
ái ấy vào đời sống xã hội, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức, văn hóa,
ứng xử nhân văn, nhân ái của dân tộc ta, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất
nước, cụ thể hóa thành những hành động thiết thực, cứu người, giúp đời, chung
tay cùng đồng bào tôn giáo và đồng bào không có tôn giáo xây dựng đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết dân tộc, đồng
lòng đồng sức của toàn thể nhân dân Việt Nam, kiều bào ở nước ngoài, chúng ta
tin tưởng rằng, sự tương đồng trong mục tiêu phấn đấu vì con người, vì sự phồn
vinh của đất nước, tín đồ các tôn giáo, trước hết là con dân Việt, công dân
Việt, sẽ sống “tốt đời, đẹp đạo”, mãi tiếp bước trên con đường “đồng hành với
dân tộc”, vượt lên mọi thách thức và đập tan mọi âm mưu đen tối của các thế lực
thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Đưa đất nước
vững bước đi lên, thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét