Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2024

NHẬN DIỆN NHỮNG LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI VIỆT NAM

       Ý thức xã hội là một bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc. Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền những quan điểm sai trái về công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó chúng tấn công trực diện vào hạt nhân tư tưởng cốt lõi của ý thức xã hội mới

Luận điệu xuyên tạc nhằm phủ nhận tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Để phủ nhận tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - cơ sở lý luận của hệ tư tưởng chính trị Việt Nam - hệ tư tưởng XHCN, các thế lực thù địch đã tuyên truyền nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc. Chẳng hạn như: chủ nghĩa Mác chỉ là sản phẩm của nền công nghiệp cơ khí thế kỷ XIX, không thể áp dụng trong nền khoa học và công nghệ hiện đại với quy mô toàn cầu hiện nay; chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay; chủ nghĩa Mác là sản phẩm của nền công nghiệp phương Tây, không phù hợp với văn hóa phương Đông và Việt Nam; sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là minh chứng rõ nhất cho sự sai lầm và tính chất ảo tưởng của học thuyết Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng cơ sở, do vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không thể vận dụng vào Việt Nam...

Từ những luận điệu sai trái đó, các thế lực thù địch cho rằng, không thể lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - thứ học thuyết đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, XX, đặc biệt là chủ nghĩa Mác chỉ phù hợp với nền văn minh phương Tây... làm nền tảng cho hệ tư tưởng chính trị của Việt Nam - một quốc gia phương Đông trong thế kỷ XXI.

Luận điệu xuyên tạc về những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng CNXH

Bằng nhiều cách thức, các thế lực thù địch phủ nhận tính đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay. Chúng cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, “bảo thủ” duy trì con đường đi lên CNXH là “trái với quy luật”, “không phù hợp với thời đại mới”...

Lợi dụng những hiện tượng tiêu cực, những vấn đề bất ổn còn tiềm ẩn trong đời sống xã hội; tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ có sự đan xen, cùng tồn tại giữa cái cũ và cái mới, cái tốt và cái xấu; lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện tham ô, tham nhũng, quan liêu, xa dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên..., các thế lực thù địch đã phủ nhận toàn bộ thành quả to lớn chúng ta đạt được trong hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.

Trong khi cả hệ thống chính trị và nhân dân Việt Nam đang quyết liệt thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng thì chính các hoạt động này bị các thế lực thù địch xuyên tạc thành các hoạt động “thanh trừng phe nhóm”, “đấu đá nội bộ”... Nhiều quan điểm trong văn kiện của Đảng cũng bị bóp méo, xuyên tạc. Chúng xuyên tạc vấn đề “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là duy tâm chủ quan, trống rỗng, phi thực tế, phản khoa học...

      Những luận điệu chống phá ấy không chỉ nhằm bóp méo tính đúng đắn, khoa học, cách mạng trong lý luận của Đảng mà còn bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước; gây mất đoàn kết trong cộng đồng, các tầng lớp dân cư, bào mòn niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Thực trạng này đã được đánh giá khái quát: “Tính chất nguy hiểm của những phương thức, thủ đoạn này ở chỗ chúng tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, tạo tâm lý bức xúc, chống đối trong xã hội”. Điều đó ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam trên nhiều cấp độ, cả về ý thức lý luận cũng như ý thức xã hội thông thường.

PHÊ PHÁN NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC BẢN CHẤT MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

         Sau khi CNXH ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước theo chế độ XHCN còn lại vẫn tiếp tục kiên định con đường đã lựa chọn dưới sự lãnh đạo của đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước này đang là chủ thể chính và truyền cảm hứng lớn lao cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay, là lực lượng nòng cốt của phong trào để xây dựng CNXH theo cách riêng của mình và chung tay cùng các đảng cộng sản, công nhân, lực lượng xã hội tiến bộ thực hiện mục tiêu chung của thời đại. Bản thân các đảng cầm quyền hiện nay cũng luôn đoàn kết, phát huy mối quan hệ đặc biệt, hữu nghị, truyền thống để tương trợ, giúp đỡ, chia sẻ, hợp tác, thúc đẩy nhau cùng tiến bộ, vì lợi ích của mỗi quốc gia cũng như vì sự nghiệp chung. Những nỗ lực đó đang ngày càng mang lại những thành tựu to lớn cho mỗi nước trên con đường phát triển của mình. Điều này càng khiến cho các thế lực thù địch, với dã tâm muốn chia rẽ khối đoàn kết ấy, điên cuồng chống phá CNXH, xuyên xuyên tạc, bóp méo bản chất tốt đẹp của những mối quan hệ này, trong đó có mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Cuba.

Với Việt Nam, mối quan hệ với các nước theo định hướng XHCN là mối quan hệ đặc biệt, vừa là quan hệ truyền thống, đồng chí, cùng nhau kiên trì mục tiêu xây dựng thành công CNXH, cùng nhau đoàn kết vì sự nghiệp chung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong bối cảnh khó khăn và phức tạp hiện nay, vừa nằm trong quan hệ đối ngoại chung của môi trường hợp tác quốc tế đa dạng hóa, đa phương hóa.

Dù có những lúc thăng trầm, nhưng sự thống nhất về tư tưởng và hành động của các đảng cầm quyền (Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào...) luôn là dòng chảy chủ đạo. Sự thống nhất về tư tưởng được thể hiện ở chỗ, các đảng đều lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Về hành động, đó là sự tương trợ, giúp đỡ vật chất và tinh thần; trao đổi song phương và đa phương về lý luận và kinh nghiệm quản trị đất nước; cùng tham gia và tổ chức các diễn đàn, hội nghị đa phương giữa các đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các tổ chức tiến bộ hoạt động vì những mục tiêu phát triển của thời đại.

Đồng thời, quan hệ đối ngoại giữa các nước đều đang được nâng lên một tầm cao mới, không chỉ là hòa bình, hữu nghị, mà cùng nhau mở rộng hợp tác, phát triển trên mọi lĩnh vực.

Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước, đó không phải là sự “lệ thuộc”, hay “chọn bên”. Tại cuộc tiếp đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng đã nhấn mạnh: Trung Quốc cũng luôn coi trọng, mong muốn và sẵn sàng cùng với Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam tiếp tục quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện trong quá trình xây dựng CNXH, cùng nhau bước sang giai đoạn phát triển mới, với tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác thực chất hơn, nền tảng xây dựng vững chắc hơn.

        Đồng thời, đó cũng không phải là sự “hạ thấp” trong quan hệ, mà đó là quá trình hiện thực hóa chủ trương đã được Đảng ta xác định: Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển; “Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng”, “ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại”. Đó là những mối quan hệ được xây dựng trên “tòa lâu đài” vững chắc của niềm tin và sự thủy chung son sắt của lịch sử, hiện tại và tương lai.

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2024

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGUYÊN TẮC ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUÂN ĐỘI

 Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là nguyên tắc, vấn đề có tính quy luật, nhân tố quyết định sự ra đời, trưởng thành, chiến thắng của quân đội. Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch luôn tìm cách thực hiện âm mưu tách sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Thực tiễn đó đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả chủ trương của Nghị quyết Đại hội XIII về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình mới.

Bài học từ thực tiễn lịch sử. Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng xác định sử dụng bạo lực cách mạng để đánh đổ bạo lực phản cách mạng. Trên cơ sở đó, Đảng đã sớm đề ra chủ trương tổ chức và lãnh đạo lực lượng vũ trang. Tại Đại hội I của Đảng (tháng 3-1935), trong Nghị quyết về “Đội tự vệ” - bước đi ban đầu trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng - Đảng xác định: “Công nông cách mạng Tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương, quân ủy của Đảng Cộng sản”(1). Khi mới thành lập (ngày 22-12-1944), thực hiện theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã thể hiện rõ sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh hệ thống chỉ huy có chi bộ đảng, bên cạnh người chỉ huy có chính trị viên. Từ khi thành lập đến nay, quân đội luôn được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo đó được thực hiện theo nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện”, “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, thống nhất về mọi mặt”, “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với quân đội. Tuy cách diễn đạt mỗi thời kỳ lịch sử có khác nhau, nhưng bản chất cốt lõi đều là một, đó là, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất thực hiện quyền lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo đó thể hiện ở những vấn đề bao trùm có tính toàn diện: xác định đường lối quân sự, quốc phòng, xây dựng tổ chức, biên chế, bảo đảm vũ khí, trang bị, hiện đại hóa quân đội; phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự; tổ chức nuôi dưỡng bộ đội; tiến hành công tác đảng, công tác chính trị,…

Một số giải pháp giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội

Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình mới, cần nắm vững và thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau:

Một là, quán triệt sâu sắc đường lối quốc phòng toàn dân của Đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị, địa phương cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng theo phạm vi, chức năng, nhiệm vụ.

Quán triệt, học tập Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và toàn dân nhận thức rõ về nguyên tắc, tính tất yếu, yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình mới.

Trong chiến lược phát triển đất nước, cần tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”. “Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc,… trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”(5).

Hai là, tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, đủ năng lực lãnh đạo toàn diện, có sức chiến đấu cao.

Đây là nhân tố giữ vai trò quyết định trực tiếp đến lãnh đạo xây dựng quân đội vững mạnh, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần quán triệt sâu sắc chỉ đạo của Tổng Bí thư, Bí thư Quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng khi dự và chỉ đạo Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Đảng bộ Quân đội phải thật sự là một đảng bộ mẫu mực, thật sự trong sạch, vững mạnh, có tính chiến đấu cao, đoàn kết chặt chẽ để lãnh đạo toàn quân tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc và của quân đội, mãi mãi xứng danh là “Bộ đội Cụ Hồ”, mãi mãi xứng danh là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng. Phải chăm lo xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống(6). Đảng đã quy định cụ thể về hệ thống tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị, tổ chức quần chúng các cấp trong quân đội, để luôn giữ vững được vai trò lãnh đạo đối với quân đội, không ngừng xây dựng và phát huy bản chất, truyền thống “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(2) của quân đội. Trong quá trình ra đời và phát triển, quân đội đã làm tốt vai trò là chỗ dựa vững chắc cho toàn dân khởi nghĩa đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, lập nên những chiến công hiển hách trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975), hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Ba là, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội theo hướng tổng hợp, phù hợp với yêu cầu mới. Tiến hành công tác đảng, công tác chính trị là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, là “linh hồn, mạch sống” của quân đội cách mạng do Đảng lãnh đạo, bảo đảm cho quân đội giữ vững bản chất cách mạng, tính nhân dân và dân tộc. Do vậy, công tác này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, vừa toàn diện, vừa trọng điểm theo phương châm “ở đâu có bộ đội và nhân dân, ở đâu có sự chống phá của kẻ thù, ở đâu có hoạt động quân sự, quốc phòng…, ở đó có hoạt động công tác đảng, công tác chính trị”. Phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, bảo đảm đồng bộ các mặt tư tưởng, tổ chức, cán bộ, chính sách, dân vận và tuyên truyền… Trong điều kiện mới, công tác đảng, công tác chính trị vừa chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân, tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vừa đặc biệt chú trọng xây dựng yếu tố tinh thần của cán bộ, chiến sĩ trong tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh…, bảo đảm cho quân đội “hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.

 

Thứ Ba, 30 tháng 1, 2024

Ngoại giao là kết tinh của trí tuệ

 

Chúng ta cần phải nâng tầm công tác ngoại giao hơn nữa, phải xác định việc lớn, hướng lớn, những khâu then chốt. Ngoại giao cần phát huy truyền thống lịch sử của mình, khi lực vật chất chưa mạnh thì lực tinh thần phải cao và ngoại giao chính là kết tinh của trí tuệ. Đó là những chia sẻ và mong muốn của nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, một nhà ngoại giao kỳ cựu về công tác đối ngoại, công tác ngoại giao trong mối quan hệ với các ngành, các lĩnh vực; phát huy thế mạnh của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay…

Nước ta đang đứng trước bước ngoặt, từ một nước có thu nhập thấp phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển, có thu nhập trung bình ở mức cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Do đó cần có cái nhìn toàn diện và có những biện pháp mạnh mẽ mới đạt được mục tiêu trên. Công tác đối ngoại có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong lịch sử, không nước nào có đến 4-5 hội nghị quốc tế về nước mình. Không nước nào công tác ngoại giao được đặt ở vị trí đặc biệt từ vị lãnh tụ cao nhất của đất nước là Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho đến Thủ tướng Phạm Văn Đồng và tiếp theo là những nhà lãnh đạo cao cấp như Nguyễn Duy Trinh, Xuân Thủy, Lê Đức Thọ… Điều đó cho thấy tầm quan trọng của công tác ngoại giao trong tiến trình lịch sử bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

Chúng ta cần phải nâng tầm công tác ngoại giao hơn nữa, phải xác định việc lớn, hướng lớn, những khâu then chốt. Ngoại giao cần phát huy truyền thống lịch sử của mình, khi lực vật chất chưa mạnh thì lực tinh thần phải cao và ngoại giao chính là kết tinh của trí tuệ.


 

Chủ Nhật, 28 tháng 1, 2024

Đổi mới các hình thức đấu tranh; kết hợp chặt chẽ đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng với đấu tranh kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao...

 


Đây là giải pháp quan trọng, thể hiện tính cách mạng, khoa học, sáng tạo, nhạy bén, phù hợp với thực tiễn góp phần trực tiếp nâng cao hiệu lực, hiệu quả đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị tư tưởng trong thời kỳ mới.

Đổi mới toàn diện hình thức đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng để phù hợp với sự phát triển của thực tiễn mới.

Tập trung vào một số hình thức phổ biến: báo chí, truyền thông, hội nghị, hội thảo, thảo luận trên các kênh chính thức và không chính thức; của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và tổ chức xã hội, nghề nghiệp... trong nhân dân

Nghiên cứu, vận dụng những hình thức đấu tranh quốc phòng mới như đấu tranh mạng, tác chiến điện tử... Đây là những hình thức đấu tranh quốc phòng phù hợp trong điều kiện phát triển của cách mạng khoa học công nghệ và chiến tranh công nghệ cao hiện nay và trong tương lai.

Nghiên cứu kỹ tính chất, nội dung từng hoạt động, từng nhiệm vụ để xác định phạm vi kết hợp các hình thức đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế, đấu tranh văn hóa, đấu tranh ngoại giao…

Xây dựng mô hình điểm về kết hợp chính trị, đấu tranh kinh tế, đấu tranh văn hóa, đấu tranh ngoại giao… trong những hoạt động trọng yếu, giải quyết các vụ việc phức tạp, nhạy cảm.

Thông qua thực tiễn ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại để đánh giá cụ thể hiệu quả kết hợp chính trị, đấu tranh kinh tế, đấu tranh văn hóa, đấu tranh ngoại giao… Điều chỉnh kịp thời những bất hợp lý trong các kế hoạch, phương án kết hợp giữa các hình thức đấu tranh.

Nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo kinh nghiệm, nghệ thuật của cha ông, của thế giới trong sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, tài chính, thương mại, ngoại giao, văn hóa, khoa học... để đấu tranh với các đối tượng của cách mạng nhằm bảo vệ đất nước, chế độ, lợi ích quốc gia, dân tộc.

Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo về biện pháp đấu tranh phi vũ trang của thế giới hiện nay vào đấu tranh quốc phòng của cách mạng nước ta.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm chủ của Nhân dân, phối hợp giữa các lực lượng trong đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng

 


Đây là giải pháp cơ bản, quan trọng thể hiện ý chí quyết tâm, sức mạnh đoàn kết, thống nhất, của các các lực lượng tham gia đấu tranh quốc phòng bảo vệ tổ quốc nói chung và trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng nói riêng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy dân chủ của nhân dân để tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi trong đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng

Giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng và quản lý Nhà nước đối với đấu tranh quốc phòng. Ban hành kịp thời các chủ trương, quan điểm, chính sách, pháp luật để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý chặt chẽ đấu tranh quốc phòng. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ về đấu tranh quốc phòng cho đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức đấu tranh quốc phòng đáp ứng cầu mới của thực tiễn hiện nay. Kiểm tra, thanh tra thường xuyên việc chấp hành các Nghị quyết, Chỉ thị, hướng dẫn của Đảng về đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong các tổ chức Đảng, đội ngũ cán bộ, Đảng viên.

 Có cơ chế, chính sách đồng bộ tạo hành lang pháp lý thuận lợi để huy động đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực, chủ động đấu tranh quốc phòng  trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng ngay tại địa phương, cơ sở. Thực hiện kế hoạch phối hợp cụ thể giữa các lực lượng trong đấu tranh quốc phòng. Đẩy mạnh sự phối hợp giữa quốc phòng - an ninh - đối ngoại tạo cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng đấu tranh quốc phòng.

Cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo tiến hành công tác tư tưởng, lý luận; nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục trong đấu tranh tư tưởng, lý luận. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng loại hình tổ chức đảng để xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong đấu tranh tư tưởng, lý luận; phải thường xuyên chăm lo lãnh đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, tin tưởng tuyệt đối vào đường lối, quan điểm của Đảng, phát huy bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của dân tộc.

Sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận phải thể hiện tập trung ở việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo và chương trình hành động thực hiện nghị quyết. Để chủ động tiến công toàn diện, thống nhất và đồng bộ làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận, cần quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Cụ thể hóa vào xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả nghị quyết về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở cấp mình. Phải xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy chế, quy định về trách nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng, tham gia nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn của cấp ủy, cán bộ chủ trì và của mọi cán bộ, đảng viên; bổ sung hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các chế độ công tác tư tưởng, quy chế dân chủ ở cơ sở, quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong tiến hành công tác tư tưởng, lý luận.

Cấp uỷ, cán bộ chủ trì, cơ quan tuyên giáo các cấp phải đề ra được những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện sát với đặc điểm, nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị mình trong từng thời kỳ; phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên, của mọi cấp, mọi ngành; thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp hoạt động, tạo ra được nhiều cách làm hay, hiệu quả; đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, sơ kết, rút kinh nghiệm, kịp thời khắc phục những khâu yếu, mặt yếu trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Các đồng chí cấp ủy phải nắm vững ngọn cờ tư tưởng, lý luận của Đảng, thường xuyên chỉ đạo và  trực tiếp tiến hành công tác tư tưởng, lý luận ở địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là trong những thời điểm có tính chất bước ngoặt của cách mạng, khi xử trí các tình huống nhạy cảm và phức tạp trong đấu tranh tư tưởng, lý luận. Cơ quan tuyên giáo phải phát huy vai trò là cơ quan tham mưu, đồng thời trực tiếp tổ chức tiến hành các hoạt động đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Tăng cường, nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của các Ban chỉ đạo 35; tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 35 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 14 của Ban Bí thư về thực hiện Nghị quyết số 35 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 105 của Ban Tuyên giáo Trung ương về công tác lý luận chính trị. Ban chỉ đạo 35 các cấp cần thường xuyên được củng cố, kiện toàn về tổ chức, nâng cao trách nhiệm của các thành viên; tăng cường công tác kiểm tra của Ban chỉ đạo, cấp ủy cấp trên đối với Ban chỉ đạo, cấp ủy cấp dưới về tổ chức thực hiện nhiệm vụ đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Ban chỉ đạo 35 của Trung ương cần chỉ đạo thường xuyên, tạo sự thống nhất giữa các bộ, ban, ngành và lực lượng tham gia đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận; định hướng kịp thời trước những vấn đề nảy sinh tác động đến dư luận, tâm trạng xã hội...       

Quan tâm xây dựng, củng cố, phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt; chú trọng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn; cán bộ hoạt động trên các lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật...; cần nghiên cứu xây dựng cơ chế hoạt động phù hợp.

          Thường xuyên quan tâm nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn, phóng viên, biên tập viên... Động viên, khích lệ họ tự giác, chủ động phát huy khả năng, sở trường. Tăng cường lực lượng thường trực tham gia đấu tranh trên Internet và các trang mạng xã hội. Lực lượng này phải được tổ chức có hệ thống, trang bị đầy đủ phương tiện và có kỹ thuật tác nghiệp cao.

Cấp ủy và chính quyền các cấp cần ban hành các quy định, quy chế phối hợp giữa các bộ, ban, ngành của Đảng, Nhà nước có liên quan, trực tiếp là các lực lượng làm công tác tư tưởng, lý luận, các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình, văn hoá, văn nghệ, xuất bản, đối ngoại, an ninh... ở cả Trung ương và địa phương trong nghiên cứu âm mưu, thủ đoạn phá hoại về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch; trao đổi thông tin, dự báo đánh giá tình hình, đào tạo bồi dưỡng cán bộ và tổ chức phối hợp đấu tranh.

Việc phối hợp đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận cần được cụ thể hóa thành các quy chế, chương trình, kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan làm công tác tư tưởng, lý luận với tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở.

Từng bước bổ sung và nâng cao chất lượng việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân Việt Nam.

Phổ biến, quán triệt để mọi người hiểu rõ, Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với quân đội. Luôn bảo đảm để hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội được tổ chức chặt chẽ từ Quân ủy Trung ương đến cơ sở.

Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng trong quân đội hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo chức trách, nhiệm vụ. Trên cơ sở giữ vững sự lãnh đạo vững chắc, toàn diện, xuyên suốt của các tổ chức đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên, tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội.

Tiếp tục thể chế hóa chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại... thành luật pháp, chính sách, Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định cụ thể. Hiện nay và những năm tiếp theo, tập trung bổ sung, hoàn thiện thể chế hóa việc đẩy mạnh xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén, trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và của nhân dân.

 Kịp thời ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, hướng dẫn, chính sách, luật pháp để định hướng và quản lý chặt chẽ hoạt động đấu tranh quốc phòng. Cụ thể hóa các Nghị quyết, Chỉ thị, hướng dẫn, chính sách, luật pháp thành các phương án, kế hoạch đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Nâng cao khả năng bám sát thực tiễn đối tượng, đối tác, xu thế khu vực, quốc tế, khả năng lực lượng, thế trận của ta trong kế hoạch, phương án đấu tranh với kẻ địch.

Đẩy mạnh việc xây dựng, triển khai nội dung chương trình chuyên sâu về đấu tranh quốc phòng để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ về đấu tranh quốc phòng cho đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức đấu tranh quốc phòng đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn hiện nay. Từng bước tiến tới chuẩn hóa và áp dụng rộng rãi các chương trình này đối với những đối tượng liên quan.

Đưa đội ngũ cán bộ, đảng viên vào rèn luyện trong nhiệm vụ đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Đặt ra các yêu cầu cao về tư duy, năng lực hoạt động thực tiễn về đấu tranh quốc phòng đối với đội ngũ cán bộ nói chung, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quân sự, chính trị cấp chiến lược trong lực lượng vũ trang và cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, thành phố. Tạo các điều kiện thuận lợi về cơ chế lãnh đạo, chỉ huy, điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện, lực lượng... để đội ngũ cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Thường xuyên kiểm tra việc chấp hành của các bộ, ngành, địa phương về nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn, chính sách, luật pháp của Đảng, Nhà nước về đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng; tình hình và kết quả triển khai cụ thể các kế hoạch, phương án đấu tranh quốc phòng để kịp thời phát hiện, bổ sung, giải quyết những bất cập, phổ biến kịp thời những nghiệm tốt và nhân rộng các đơn vị thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh quốc phòng. Kiên quyết xử lý nghiêm khắc với những hành vi vi phạm Nghị quyết, Chỉ thị, hướng dẫn, chính sách, luật pháp của Đảng, Nhà nước về đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

 Đánh giá lại hiệu quả các chính sách hiện hành về huy động, phát huy sức mạnh các tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh quốc phòng. Tiếp tục xây dựng mới, bổ sung, điều chỉnh kịp thời những bất cập trong các chính sách tạo hành lang pháp lý thuận lợi để huy động đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực, chủ động đấu tranh quốc phòng ngay tại địa phương, cơ sở. Phát hiện kịp thời và kiên quyết phắc phục những rào cản đối với việc phát huy dân chủ và tập hợp, phát huy nguồn lực to lớn của các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế tham gia xây dựng, đấu tranh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. 

Quán triệt sâu rộng các nguyên tắc phối hợp giữa các lực lượng trong đấu tranh quốc phòng đến các lực lượng tham gia. Bảo đảm mọi chủ trương, biện pháp, phương án, kế hoạch phối hợp hoạt động đấu tranh quốc phòng phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng cộng sản Việt Nam, sự điều hành của Nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Mọi hoạt động chỉ huy, chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất của từng lực lượng, dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng lực lượng. Bảo đảm đoàn kết, thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau thực hiện nhiệm vụ được giao. Tuyệt đối không được làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ riêng và công việc nội bộ của nhau, bảo đảm giữ gìn bí mật về lực lượng, phương tiện, biện pháp nghiệp vụ của mỗi lực lượng.

 Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của các lực lượng chuyên trách và các lực lượng tham gia đấu tranh giải quyết các tình huống về quốc phòng. Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế phối hợp hoạt động giữa các lực lượng trong đấu tranh quốc phòng. Chú trọng phân công rõ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong trao đổi và xác minh thông tin, vận động quần chúng, triển khai các phương án và kế hoạch cụ thể, bảo vệ chính trị nội bộ các lực lượng, huấn luyện đào tạo và diễn tập các kế hoạch, phương án đấu tranh quốc phòng cụ thể.

Trước mắt, tập trung hoàn thiện và thực hiện tốt giữa các lực lượng trong các phương án, kế hoạch đấu tranh làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta; trong phòng, chống bạo loạn vũ trang, hoạt động lật đổ; trong ứng phó với những xung đột trên biển, đảo và biên giới đất liền; trong ngăn chặn sớm, đẩy lùi từ xa, sẵn sàng ứng phó kịp thời, hiệu quả với mọi hình thái chiến tranh; trong phòng, chống các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.

Nâng cao hiệu quả đấu tranh quốc phòng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay


Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận, vì thế không chỉ là tất yếu, mà đã trở thành mặt trận nóng bỏng hàng đầu của công tác tư tưởng, lý luận, trực tiếp liên quan đến mục tiêu, lý tưởng, sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, Đảng yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. ...Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đưòng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(4). Theo đó, trên mặt trận tư tưởng, lý luận phải kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị, khắc phục những nhận thức lệch lạc; đồng thời, tích cực bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ và phát triển những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, chủ động định hướng giá trị đúng đắn đối với sự phát triển của con người và xã hội Việt Nam.

Phải quán triệt sâu sắc quan đểm: “Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Kết hợp giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài; nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị”(5). Phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện thụ động, bị động, hoặc chỉ hô hào chung chung, nhưng trên thực tế không đấu tranh.

Vì thế, công tác tư tưởng luôn phải được quan tâm đầy đủ, được tiến hành thường xuyên, mọi sự xem nhẹ công tác tư tưởng đều sẽ phải trả giá, thậm chí một cái giá rất đắt.

Công tác tư tưởng phải tạo được sự nhận thức đúng đắn, thống nhất về vị trí, vai trò của nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận; trên cơ sở đó, thấy rõ trách nhiệm của từng địa phương, cơ quan, đơn vị trong cuộc đấu tranh trên mặt trận nóng bỏng này. Làm cho các tổ chức, các lực lượng nắm vững nội dung và yêu cầu cốt lõi của đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận hiện nay là bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, nhằm củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong xã hội, tăng cường khả năng “miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đồng thời, “Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(6). 

Thứ Tư, 3 tháng 1, 2024

Chống phá Đảng và đường lối, chủ trương của Đảng của cac sthees lực thù địch

 Chống phá Đảng và đường lối, chủ trương của Đảng; phủ nhận những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử dưới sự lãnh đạo của đảng về mọi mặt: chính trị, kinh tế- hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại hợp tác QT….

Lập luận của chúng là không thể làm trái quy luật mà phải đi đúng quy luật, không được bỏ qua chế độ tư bản được mà là phải “phát triển chủ nghĩa tư bản dưới sự lãnh đạo của Đảng”, muốn giải quyết các vấn đề xã hội phải làm theo chủ nghĩa xã hội dân chủ. Chúng rêu rao rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường sai, không thể có chủ nghĩa xã hội. Không ít kẻ đã tuyên truyền, xuyên tạc rằng chủ nghĩa xã hội chính là bước quá độ từ nghèo nàn, lạc hậu tiến tới chủ nghĩa tư bản, những ước mơ của chủ nghĩa xã hội chính chủ nghĩa tư bản đã thực hiện rồi, rằng người ta có thể dễ dàng tìm thấy ở chủ nghĩa tư bản những lời giải đáp đầy đủ những vấn đề đặt ra trong cuộc sống loài người.

Chúng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Vu cáo Đảng Cộng sản chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “độc đoán, đảng trị”, thực hiện sự chuyên chính của một Đảng. Dựa vào một số “cải cách” ở các nước tư bản và nhất là dựa vào mô hình xã hội - dân chủ Thụy Điển, Phần Lan, chúng cho rằng từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải thông qua cách mạng xã hội mà để phát triển tự nhiên thông qua việc mở rộng dân chủ, đấu tranh nghị trưởng để nhân dân tự lựa chọn chế độ mới.

Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chúng cho rằng giai cấp công nhân là đội ngũ có học vấn thấp, đa phần lãnh tụ của giai cấp công nhân là những người được đào tạo không cao cho nên giỏi lắm cũng chỉ có thể lật đổ chế độ cũ, chứ không thể lãnh đạo toàn dân xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, nhất là trong thời đại khoa học phát triển. Chúng lập luận, nếu giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là người “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” xây dựng một xã hội mới thì tại sao ở các nước tư bản phát triển có công nhân đông, chất lượng cao thì lại không thực hiện vai trò lãnh đạo của mình? Đảng Cộng sản Việt Nam không thể là Đảng của giai cấp công nhân được vì nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến. Với những điều kiện như trên, Đảng Cộng sản Việt Nam không thể lãnh đạo, xây dựng được chủ nghĩa xã hội đích thực ở Việt Nam, 

Nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo, chúng còn cho rằng “Đảng đã hoàn thành nhiệm vụ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hiện nay phải để lực lượng khác lãnh đạo đất nước thì đất nước mới phát triển được, cứ để Đảng lãnh đạo, đất nước còn lạc hậu”.

Chúng còn đánh vào công tác đối ngoại của Việt Nam, xuyên tạc cho rằng Việt Nam “mơ hồ và không rõ ràng” đối với cuộc xung đột Nga – Ukraine chúng ta  đã bỏ phiếu trắng đối với Nghị quyết “Lên án Nga xâm lược Ukraine và yêu cầu Nga chấm dứt chiến tranh” do Đại Hội đồng bảo an Liên hợp quốc tổ chức vào ngày 02 tháng 3 năm 2022…..

Chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Trước hết là tập trung chống phá Chủ nghĩa Mác - Lênin.

 Ngoài việc phũ nhận những giá trị, bản chất khoa học của chủ nghĩa Mác chúng tập trung đánh vào tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” vì chúng biết đây chính là tác phẩm nền tảng cho cho chủ nghĩa Mác-lênin ra đời. Chúng cho rằng nội dung của tác phẩm này chỉ là ý tưởng hão huyền, ngông cuồng và hiện nay càng lạc lõng vì chủ nghĩa tư bản không chỉ tồn tại, phát triển mà còn bền vững hơn; rằng hiện nay trong xã hội tư bản không còn quan hệ chủ thợ; rằng giai cấp công nhân và những ông chủ tư sản ngày nay đã hòa hợp trở thành tiền đề cho nhau cùng phát triển; rằng Cách mạng tháng Mười là dích dắc của lịch sử, là cuộc bạo động phản dân chủ, đã hết tác dụng,… Cứ như vậy chúng mù quáng tung ra đủ thứ lý luận nhằm bác bỏ chủ nghĩa Cộng sản như: du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ mang đến tai họa vì Chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng ngoại lai không phù hợp với truyền thống dân tộc nên cần xóa bỏ, cứ lý thuyết nào đúng thì theo,…

Bên cạnh Chủ nghĩa Mác-lênin chúng còn điên cuồng chống phá,  phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng liên tục “đổi chiều, chuyển hướng”; một mặt chúng đề cao tuyệt đối giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh từ đó cho rằng Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh chứ không cần Chủ nghĩa Mác; đưa chủ nghĩa Mác vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử…. Mặt khác chúng lại phủ nhận nhiều giá trị quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh; xuyên tạc, bôi nhọ về đời tư của chủ tịch và cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa….

Nhận diện đúng để hành động mạnh mẽ, thiết thực, hiệu quả

 

Sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là quá trình diễn ra ở một bộ phận cán bộ, đảng viên do không chịu tu dưỡng, rèn luyện, bị chủ nghĩa cá nhân và những tham muốn vật chất cùng những tác động tiêu cực khác chi phối mà trở thành những người hư hỏng không còn giữ được phẩm chất cách mạng của người cộng sản. Sự tha hóa đó có tác động xấu đến việc giữ gìn, bồi đắp bản chất cách mạng của Đảng, đánh mất uy tín chính trị trước nhân dân và là thách thức lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.

Cần nhận diện rõ sự suy thoái dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Đó là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không tin vào con đường xã hội chủ nghĩa, không phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; hành động trái với Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, phụ họa, tiếp tay cho các thế lực thù địch chống lại Đảng, Nhà nước; mang nặng chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, vụ lợi, tham nhũng, lãng phí, tha hóa về lối sống, nhân cách; vô trách nhiệm, quan liêu, xa dân, vô cảm trước những khó khăn của nhân dân. Những biểu hiện đó biến những cán bộ lãnh đạo, quản lý thành những "quan cách mạng" mà Bác Hồ đã nghiêm khắc phê phán.


Để ngăn chặn, đầy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"

 Để ngăn chặn, đầy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã đề ra các giải pháp căn bản. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, tự phê bình, phê bình thường xuyên với hiệu quả thiết thực. Chú trọng cơ chế chính sách, chế tài tổ chức và quản lý cán bộ. Tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện nghiêm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nêu cao vai trò giám sát của nhân dân, của Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội.

Những giải pháp căn bản cần được cụ thể hóa thể hiện trong chính sách, thể chế để thực hiện tốt hơn cơ chế kiểm soát quyền lực. Các tổ chức đảng kiểm tra, kiểm soát quyền lực đối với từng cán bộ được giao trọng trách. Tăng cường kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan làm chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đề cao người đứng đầu cần được thực hiện nghiêm túc. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng phải gắn liền với sự tự tu dưỡng, rèn luyện của từng cán bộ, đảng viên.

Chú trọng thực hiện tốt Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cần coi trọng nêu gương những đảng viên, cán bộ tận tụy, có trách nhiệm, thật sự vì nước, vì dân. Trong Đảng và xã hội ta còn rất nhiều người giỏi và tốt, làm sao để cái tốt đẩy lùi cái xấu, cái tiêu cực. Cần cảnh giác với sự kích động, phá hoại của các thế lực thù địch.

Thứ Ba, 2 tháng 1, 2024

Các thế lực thù địch chia rẽ phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

 


Sức mạnh của Đảng sẽ mất, nếu tách khỏi cơ sở xã hội - chính trị là nhân dân. Đó chính là pháp lý được ghi trong Hiến pháp, trong vị thế “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của Nhân dân” và đạo lý sống được thừa nhận trong xã hội, với tư cách là “đứa con nòi của giai cấp lao động” của Đảng. Chúng âm mưu đánh sập đạo lý của Đảng chúng ta với nhân dân, phủ nhận sự chính danh, chính pháp giữa Đảng với Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các luận điệu đó, cốt chia rẽ, âm mưu kích động đối lập Đảng với nhân dân, tạo sự xa cách, oán thán, thù ghét, tẩy trừ cán bộ và đảng viên của Đảng, dưới mọi hình thức. Chúng cổ xúy cho bảo trợ và tham gia các tổ chức “xã hội dân sự” tự phát. Chúng ngụy tạo, tô vẽ, thổi phồng những biểu hiện riêng lẻ, những khuyết điểm để thổi phồng quy kết thành bản chất của một đảng cầm quyền và đã làm phân tâm không ít bộ phận dân cư. 

Các thế lực thù địch tăng cường bôi nhọ, xuyên tạc đường lối chính trị và công phá thể chế chính trị ở nước ta hiện nay

 


Đây là “tử huyệt” mà các luận điệu thù địch tập trung sức công phá, ở nhiều mức độ: nhẹ thì tung hỏa mù, đánh lạc hướng, gây nên tình trạng nghi ngờ, mất phương hướng hành động; nặng thì không từ mọi chiêu bài, thủ đoạn nhằm phủ nhận tính cách mạng, cơ sở khoa học và bôi nhọ thực tiễn lịch sử cách mạng nhằm xuyên tạc và phủ nhận đường lối chính trị của Đảng. Trong rất nhiều phương diện chung quanh vấn đề này, xin nhấn mạnh mấy loại luận điệu tập trung công kích trụ cột đường lối chính trị và thể chế chính trị Việt Nam: 1- Bài xích, phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 2- Cổ xúy đa nguyên chính trị, đòi “tam quyền phân lập”, vu khống chế độ toàn trị, dựng lên và thổi phồng “lỗi hệ thống”... nhằm xóa bỏ thể chế hiện tồn, 3- Tán dương và cái gọi là “khuyến nghị” thực thi phát triển “xã hội dân sự”; 4- Lợi dụng việc sửa đổi Hiến pháp và các luật nhằm làm sai lệch những vấn đề cơ bản nhất về chế độ sở hữu, về quyền con người, quyền dân tộc,... 
Chuyển hóa đường lối chính trị, thông qua việc chia rẽ, mua chuộc đội ngũ các nhà chính trị hoạch định đường lối, và là con đường ngắn nhất chuyển hóa chế độ. Lợi dụng “lợi ích nhóm” và các “nhóm lợi ích”, họ tán dương và dùng mọi giọng điệu để bôi nhọ, khoét sâu những vấn đề này nhằm phân hóa từ trong nội bộ Đảng, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, phá nát chiến lược cán bộ, tạo sự gây hấn, phân hóa giữa các loại cán bộ trong hệ thống chính trị của chúng ta. 

Vận dụng lý luận đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay

 

       

Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh.”.7 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp vẫn còn nguyên giá trị. Nhưng trước sự chống phá của các thế lực thù địch, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu cho thấu đáo, không được tuyệt đối hóa vai trò của đấu tranh giai cấp, nhưng cũng không được mơ hồ, xóa nhòa đi đấu tranh giai cấp. Việc nắm vững các lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin giúp chúng ta nhận diện được các luận điểm phản động, từ đó có những căn cứ và luận chứng sắc bén để đánh bại sự xuyên tạc của kẻ thù, qua đó bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững con đường mà đất nước ta đã lựa chọn.

Phủ nhận quan điểm: Sự vận dụng quan điểm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là không phù hợp.

 

Các thế lực thù địch, bọn cơ hội chính trị cho rằng do kết cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam khác với các nước khác, nên sự vận dụng  quan điểm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là không phù hợp. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lêninviệc nhận thức và giải quyết vấn đề đấu tranh giai cấp phải phù hợp với tình hình thực tiễn, điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc và phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong việc lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Khi phân tích, so sánh về đấu tranh giai cấp ở phương Đông và phương Tây, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ sự khác biệt do điều kiện kinh tế - xã hội quy định: “Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế không giống với các xã hội phương Tây thời trung cổ hay thời cận đại và đấu tranh ở đó không quyết liệt như ở đây” Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán quan điểm phiến diện, giáo điều về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”. Kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp thu, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Ðảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ vững lập trường cách mạng, trung thành với quan điểm về đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta luôn xác định rằng, hiện nay và trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta vẫn còn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đó là một thực tế khách quan. Song quan niệm đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện mới, nội dung và hình thức mới. Trong điều kiện mới hiện nay, không được hiểu sai về nội dung đấu tranh giai cấp, dẫn đến sự rụt rè, không dám đổi mới; đồng thời, không được coi nhẹ, xem thường đấu tranh giai cấp, dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác. Ở nước ta hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, đã hình thành kết cấu xã hội - giai cấp đa dạng, phức tạp gồm nhiều giai tầng. Thực chất đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chống lại các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền và lợi ích của nhân dân.

Phủ nhận quan điểm cho rằng: Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu chính là minh chứng cho sự sai lầm của học thuyết Mác - Lênin

 

      

Những kẻ chống đối chủ nghĩa Mác – Lênin còn cho rằng sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu chính là minh chứng cho sự sai lầm của học thuyết Mác - Lênin trong đó có lý luận về đấu tranh giai cấp. Sự tan rã của Liên Xô và Đông Âu nơi được coi là thành trì của chủ nghĩa xã hội hiện thực khiến nhiều người, nhất là giới học giả tư sản phương Tây đã lên tiếng quy chụp nguyên nhân của sự sụp đổ đó là do những sai lầm từ chủ nghĩa Mác. Từ đó, họ lên tiếng chống phá, bác bỏ chủ nghĩa Mác nói chung, bác bỏ quan điểm về giai cấp, đấu tranh giai cấp nói riêng. Các thế lực thù địch cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tất yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ “sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin”; và bởi “chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện được” Họ cũng cho rằng, chủ nghĩa khoa học mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã xây dựng chỉ là một học thuyết “viển vông”, “ảo tưởng” nên áp dụng vào thực tiễn chỉ có thể sinh ra những “quái thai của lịch sử”. Mục đích của sự xuyên tạc này là nhằm phủ nhận bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội nói chung và về đấu tranh giai cấp nói riêng. Trước tiên, chúng ta không thể phủ nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là một bước lùi lịch sử của của phong trào cộng sản và công nhân toàn thế giới. Sự sụp đổ đó cũng không phải là sự “cáo chung” của chủ nghĩa Mác, nó cũng không phải là do chủ nghĩa Mác đã lạc hậu, lỗi thời mà đó thực sự là do đã hiểu sai, vận dụng sai những quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô “bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo điều và xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”. Sự phát triển của các nước theo con đường chủ nghĩa xã hội hiện nay đã chứng minh những luận điệu trên là thiếu tính khoa học, là sự bịa đặt hoang đường. Thực tế cho thấy, các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đổi mới để tìm kiếm những mô hình phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của quốc gia - dân tộc mình. Trung Quốc với sự cải tổ của mình, ngày càng chứng tỏ được vị thế của họ trên thế giới; công cuộc đổi mới của Việt Nam, Lào, Cuba và một số trào lưu xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã minh chứng cho sức sống của chủ nghĩa Mác –Lênin.

Phủ nhận quan điểm cho rằng: Chủ nghĩa Mác - Lênin là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan”.


        Các thế lực thù địch, một số học giả tư sản đã cường điệu hóa quan điểm của C. Mác về đấu tranh giai cấp và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan”. Họ cho rằng Mác lúc nào cũng chỉ nói đến đấu tranh giai cấp, đến bạo lực cách mạng, như vậy là kích động chiến tranh, cổ vũ cho bạo lực trong xã hội. Cần phải khẳng định, trong nhiều tác phẩm, chủ nghĩa Mác – Lênin luôn cho rằng đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc bạo loạn, khủng bố, lật đổ, chỉ có ý nghĩa phá hoại gây chia rẽ, bè phái, gây rối loạn, làm tổn thất cho xã hội mà là một quá trình tất yếu, khách quan của xã hội có áp bức giai cấp, là những cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp thống trị. Nguyên nhân của cuộc đấu tranh giai cấp này bắt nguồn từ những mâu thuẫn về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế không thể điều hòa được giữa các giai cấp. Cuộc đấu tranh này có ý nghĩa cách mạng sâu sắc, nhằm xóa bỏ những cơ sở kinh tế của giai cấp thống trị, xóa bỏ chế độ xã hội cũ lỗi thời, xây dựng chế độ xã hội mới tiến bộ hơn. Do vậy, đấu tranh giai cấp là một động lực thúc đẩy xã hội phát triển, chứ không phải là sự gây rối, phá hoại, chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan”, đây là sự quy chụp vô căn cứ, không dựa trên bất cứ cơ sở khoa học nào.
        Chủ nghĩa Mác-Lênin tuyệt đối không sùng bái bạo lực mà coi bạo lực cách mạng là “bà đỡ” để đưa xã hội mới ra đời trong lòng xã hội cũ. Vấn đề xã hội mới trưởng thành, phát triển như thế nào thì chủ yếu là vấn đề xây dựng. Trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản, sở dĩ dùng bạo lực cách mạng là để chống lại bạo lực phản cách mạng.

Mục tiêu đấu tranh quốc phòng trong tình hình hiện nay

 


Mục tiêu đấu tranh quốc phòng nhằm phòng ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, đảo của Tổ quốc; ngăn chặn làm thất bại xung đột vũ trang và xâm nhập tiến công mạng, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh; làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; ngăn chặn các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, các bộ, ban, ngành, đoàn thể đã làm tham mưu và trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng tham gia đấu tranh đạt được nhiều kết quả quan trọng, làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tuy nhiên, nhận thức về đấu tranh quốc phòng của các cấp, các ngành và nhân dân một số nơi chưa đầy đủ, sâu sắc; việc phát huy vai trò đấu tranh của các lực lượng trên các lĩnh vực, kết hợp các hình thức đấu tranh tạo sức mạnh tổng hợp trong xử lý các tình huống phức tạp về quốc phòng, an ninh còn hạn chế, v.v.

Chủ Nhật, 24 tháng 12, 2023

Âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch không mới nhưng được đẩy mạnh và điều chỉnh

 


     Khái niệm “Diễn biến hòa bình” không mới và cũng không lạ đối với mọi người. Người ta biết đến cụm từ này từ thập niên 20 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc sử dụng “Diễn biến hòa bình” để chống phá các nước đối địch, nhất là nước Nga - Nhà nước Xô-viết công nông đầu tiên trên thế giới vừa ra đời từ sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.

     Và hiện nay, “Diễn biến hòa bình” có nhiều cách gọi khác nhau, đó là “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”,“cạnh tranh hoà bình”, “vượt trên hòa bình”, “chính sách giải phóng”, “chiến thắng không cần chiến tranh”, “chiến tranh không có tiếng súng”, “phương pháp phi vũ trang”… Có thể khẳng định “Diễn biến hòa bình” là cuộc chiến tranh - cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, thể chế chính trị. Chiến lược “diễn biến hòa bình” liên tục được điều chỉnh, bổ sung trở thành một chiến lược tổng hợp, dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu nhằm chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa.

     Chúng ta thấy ngay từ đầu “Diễn biến hòa bình” không phải do chủ nghĩa đế quốc phát kiến, nhưng hiện là “sản phẩm” của họ và trên cơ sở tiếp thu tư tưởng quân sự cổ đại của nhân loại, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng thời điểm, từng giai đoạn, nhằm giành thắng lợi quyết định trong “cuộc chiến” sống còn với các quốc gia khác hệ tư tưởng, đối địch.

     Mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” là nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu. Để đạt được mục đích đó, các thế lực thù địch đặt ra những mục tiêu cụ thể như: (1) Xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản; (2) Âm mưu thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” trong các nước xã hội chủ nghĩa; (3) Gây mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ thì lôi kéo, tiến hành bạo loạn chính trị; (4) Làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế trong các nước xã hội chủ nghĩa; (5) Chuyển hoá văn hoá, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo “giá trị Mỹ”, phương Tây; (6) Thực hiện âm mưu “phi chính trị hoá” để “vô hiệu hoá” quân đội trong các nước xã hội chủ nghĩa.

     Như vậy, có thể hiểu “Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đứng đầu là Mỹ tiến hành.

    Ở Việt Nam, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch đặc biệt coi trọng việc phá hoại tư tưởng, coi đó là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh các đặc trưng chủ yếu như: tuyên truyền xuyên tạc nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đẩy mạnh hoạt động xuyên tạc lịch sử; thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và công an…Đáng chú ý, thời gian gần đây, các thế lực thù địch tích cực đẩy mạnh thực hiện một số thủ đoạn chống phá mới, đó là: Tìm cách đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra những luận điệu lập lờ, lẫn lộn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đến đảng viên và nhân dân. Khuyến khích những quan điểm lệch lạc và những khuynh hướng xã hội “dân chủ” kiểu Mỹ và phương Tây hòng làm cho người dân thấy hoài nghi về “xã hội Việt Nam” và mơ tưởng về một “xã hội khác” được cổ xúy là tốt đẹp hơn.

     Các thế lực thù địch điều chỉnh thủ đoạn chống phá, bằng cách ngoài việc công kích trực diện vào nền tảng tư tưởng, chúng tuyên truyền kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ. Với mưu đồ gây chia rẽ nội bộ, làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, chúng ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng việc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc là thanh trừng nội bộ. Chúng còn thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây mất an ninh, trật tự... Chúng còn sử dụng nhiều cách thức tác động tinh vi, xảo quyệt đối với từng đối tượng cụ thể, trong đó đối với các tầng lớp nhân dân, chúng lợi dụng việc tiếp cận thông tin còn hạn chế, đưa những thông tin sai lệch, nhằm tạo khoảng trống trong tư tưởng nhân dân, làm cho nhân dân hoài nghi, mất niềm tin với chế độ, Đảng và nhà nước, từ đó chúng kích động các hoạt động gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Âm mưu, thủ đoạn của chúng còn xuyên tạc, bóp méo các sự kiện chính trị, các vụ việc phức tạp, nhạy cảm. Lợi dụng các sự kiện chính trị quan trọng liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác cứu trợ bão lụt, công tác phòng chống COVID-19 lợi dụng tung tin thất thiệt trên các trang mạng xã hội gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp.

Những biểu hiện trên đây tuy không hoàn toàn là những thủ đoạn mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhưng về cơ bản đó là những dấu hiệu đặc trưng, nổi bật nhất, thể hiện tính chất tinh vi, xảo quyệt và sự nguy hiểm, thâm độc của nó đã và đang không ngừng tăng lên. Hiện nay, các thế lực thù địch thường xuyên thay đổi các chiến lược. Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, bình tĩnh xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này.

Cuộc đấu tranh này được Đảng và nhà nước ta xác định là vẫn còn tiếp tục. Vì thế, chúng ta cần đề cao cảnh giác, chủ động tấn công, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng, phản bác một cách mạnh mẽ, quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ hình thức nào.

Điều quan trọng là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là với thế hệ trẻ để chính họ là những chủ thể mạnh mẽ, vững chắc làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch.