Thứ Năm, 4 tháng 7, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐẢNG TA LÀ ĐẠO ĐỨC!

     Đạo đức, theo ý nghĩa thông dụng là tập hợp những quan điểm, tư tưởng, tình cảm thể hiện ra ở hành vi của một giai cấp, tầng lớp, của một người, một tổ chức xã hội hay nghề nghiệp nhất định (đảng chính trị, cơ quan nhà nước, hội, đoàn...) đối với thế giới tự nhiên, xã hội, con người!

Có thể hiểu Đạo là quy luật xảy ra xung quanh ta, không phụ thuộc vào ý muốn của cá nhân; nó là những nhân tố khách quan quy định các mối quan hệ của con người với gia đình (cha mẹ, anh em, chồng vợ, con cháu...); với học đường (thày trò, bè bạn...); với xã hội (công dân với nhà nước, đảng viên với Đảng, với đồng chí, đồng bào, đồng loại, với quốc gia, quốc tế) và con người với giới tự nhiên (môi trường, môi sinh, tài nguyên...).

Đức là sự hiểu đạo, là sự nắm vững và vận dụng quy luật, là cái chủ quan của con người khi ứng xử với thế giới khách quan. Đức thể hiện trình độ nhận thức, trước tiên là ở lời nói, ở thái độ, nhưng cuối cùng là ở hành động. Trình độ cao thì Đức dầy (đạo cao, đức trọng). Đức đi liền với hạnh (hành). Đức hạnh chính là năng lực, là hành động của con người, của tổ chức trước thế giới khách quan.

Mỗi một hình thái kinh tế-xã hội hình thành trên đó những kiểu đạo đức đặc thù của nó và cùng trong một xã hội, mỗi giai cấp, tầng lớp... xuất phát từ lợi ích của nó lại có một quan niệm khác nhau về đạo đức. Những giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại, tiêu biểu cho xu hướng phát triển tiến lên của nhân loại thường có nhận thức và hành vi đạo đức tiến bộ, có sức cảm hoá và chi phối chung đối với đạo đức xã hội đương thời. Đó chính là một thứ đạo đức mới, đạo đức của một giai cấp đại diện cho sức phát triển tiên tiến và đang có sứ mệnh dẫn đầu cuộc cải biến cách mạng và kiến tạo xã hội mới-xã hội không có người bóc lột người.

Đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam là đạo đức của giai cấp công nhân kết hợp nhuần nhuyễn với tinh hoa đạo đức truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, nó là sự thể hiện bản chất, tư cách, sứ mệnh cao cả và bổn phận của Đảng đối với nhân dân, Tổ quốc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đảng ta là một đảng chân chính cách mạng “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(1). Người còn nói: Đảng cũng ở trong xã hội mà ra và Đảng là do mỗi một đảng viên, do nhiều đảng viên kết lại mà thành. Vì vậy, mỗi một đảng viên trước hết phải là một công dân có đạo đức (đạo đức làm người, đạo đức công dân) đồng thời phải thấm nhuần đạo đức cách mạng bởi theo logic của sự phát triển thì người ta ai cũng vậy, trước tiên là phải biết làm việc, có biết làm việc thì mới biết làm người và có biết làm một người chân chính thì mới biết làm một đảng viên, cán bộ tốt, tức là biết làm một chiến sĩ cách mạng, một đảng viên của một Đảng chân chính cách mạng.

Về đạo đức công dân, Hồ Chí Minh nói ngắn gọn: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”(2). Khái niệm bổn phận có quan hệ chặt chẽ với khái niệm thân phận. Con người biết rõ được thân phận (cái tôi) của mình nhờ có sự phát triển về sinh lý, tâm lý và quan hệ xã hội. Cái tôi chỉ xuất hiện trong quan hệ với người khác, với cộng đồng (gia đình, dòng tộc, dân tộc, quốc gia...). Khi người ta tự ý thức được mình là ai, là thế nào và phải làm gì trong quan hệ ấy tức là lúc nó ý thức được bổn phận của mình. Ở đây Hồ Chí Minh muốn mỗi người Việt Nam, sau khi đã có chính quyền thì phải hiểu rằng thân phận của mình đã thay đổi từ là người nô lệ, mất nước trở thành người làm chủ đất nước nên phải có thái độ đúng trong quan hệ với Nhà nước của chính mình tức là ý thức về cái tôi - công dân, của một nước Việt Nam mới, một nước dân chủ cộng hoà. Mỗi công dân đều được hưởng quyền lợi của mình thì đồng thời cũng phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Đó là đạo đức công dân. Khái niệm bổn phận ở đây là để nhấn mạnh đến khía cạnh nghĩa vụ như là sự tất yếu của “cái tôi”, của đạo đức làm người, đạo đức công dân - một tất yếu của người làm chủ nước nhà.

Đạo đức công dân, theo Hồ Chí Minh, bao gồm:
    - Tuân theo pháp luật Nhà nước.
    - Tuân theo kỷ luật lao động.
    - Giữ gìn trật tự chung.
    - Đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số lượng để xây dựng lợi ích chung.
    - Hăng hái tham gia công việc chung.
    - Bảo vệ tài sản công cộng.
    - Bảo vệ Tổ quốc (3).

Mỗi đảng viên trước hết phải là người có đạo đức công dân, gương mẫu làm tròn bổn phận công dân, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.

Đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam là đạo đức cách mạng.

Đạo đức cách mạng là hệ thống các mối quan hệ cơ bản và nội dung của các mối quan hệ đó mà người đảng viên phải nhận thức và rèn luyện để ứng xử với bản thân, với tổ chức, với nhà nước, với nhân dân và với đồng chí, đồng bào. Tất cả mọi cán bộ, đảng viên dù làm công tác đảng hay công tác chính quyền, dù ở bất cứ cương vị nào đều do yêu cầu của cách mạng mà tổ chức phân công. Theo Hồ Chí Minh, dù là chủ tịch nước, uỷ viên các cấp bộ Đảng hay bộ trưởng cho đến nhân viên lái xe, quét rác... tất cả đều phải rèn luyện đạo đức cách mạng, đều phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân.

Hồ Chí Minh không bàn về đạo đức một cách hàn lâm như các nhà đạo đức học. Những phạm trù đạo đức cách mạng mà Người sử dụng đều chứa đựng một nội dung cách mạng và khoa học trên cơ sở những giá trị truyền thống, đồng thời tiếp thu, phát triển những giá trị đạo đức cao đẹp của nhân loại. Với ý thức thực hiện một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức, tự mình nêu gương và đòi hỏi những ai đứng trong hàng ngũ cách mạng đều phải lấy đạo đức làm gốc, Hồ Chí Minh đã xây dựng một hệ thống quan điểm đạo đức mới mà Người gọi là đạo đức cách mạng. Có thể khẳng định rằng, toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển một ngành đạo đức mới - đạo đức cách mạng Việt Nam - mà Người vừa là tác giả sáng tạo lý thuyết, vừa là nhà thực hành mẫu mực. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, đồng thời Người là biểu tượng cao đẹp nhất về đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Về phạm trù “đạo đức”, Hồ Chí Minh đã rất chú trọng xác định nội hàm phổ biến của nó thể hiện ở cách dùng các từ có nghĩa tương đồng với nhau để diễn đạt sao cho dung dị, dễ hiểu, gắn liền với từng đối tượng cụ thể. Lúc đầu Người dùng khái niệm “tư cách”. Năm 1925, khi viết cuốn “Đường kách mệnh” (xuất bản năm1927), cuốn sách mở lòng cho các cán bộ lớp đầu tiên của Đảng, Người dành hẳn một chương viết về “Tư cách một người cách mệnh”. Đến năm 1947, khi viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người dùng cả hai khái niệm "Tư cách" và ‘"Đạo đức” với nội dung cơ bản giống nhau. Có khi Người lại nói “đạo đức cách mạng” là những” tính tốt” bao gồm: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư hoặc nhân, nghĩa, trí dũng, liêm... Khi khuyên dạy các đối tượng như du kích, bộ đội, công an... Người thường dùng khái niệm tư cách như “tư cách đội viên du kích”, “tư cách người công an cách mạng”. Lại có khi Người dùng khái niệm “nhân cách” cũng với ý nghĩa như “tư cách” hoặc “đạo đức”. Ví dụ “Muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hoá thì phải luôn luôn thực hành bốn chữ…: cần kiệm, liêm chính”(4). Đến tháng 12-1958, Người cho in một chuyên luận trên Tạp chí Học tập (bút danh: Trần Lực) với tựa đề: “Đạo đức cách mạng”. Có thể nói, ở tác phẩm này, Hồ Chí Minh đã nêu ra một cách đầy đủ, hoàn chỉnh, chính xác nhất về quan điểm đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò, ý nghĩa và biểu hiện của đạo đức cách mạng
- “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”(5).

 - “Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá. Đó cũng là những biểu hiện của đạo đức cách mạng”(6).

Về hệ thống các phạm trù đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh không chú trọng lập ngôn, hầu như Người dùng lại tất cả những khái niệm, phạm trù đã có trong học thuyết Đức trị của Nho giáo như: trung, hiếu, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nhân, nghĩa, tín, trí, dũng... Nhưng cái đặc sắc của Hồ Chí Minh là ở chỗ không những Người biết tiếp thu một cách chọn lọc những tinh hoa văn hoá, đạo đức Nho giáo mà Người còn loại bỏ những nội dung hẹp hòi, lỗi thời và đưa vào những phạm trù nói trên các nội dung hoàn toàn mới, phù hợp với thời đại mới. Có thể thấy rõ Hồ Chí Minh đã làm một cuộc cách mạng về đạo đức, Người đã biến đổi, phát triển, thay thế tư tưởng đạo đức Nho giáo truyền thống thành đạo đức cách mạng.

Trong hệ thống các phạm trù đạo đức cách mạng thì phạm trù xuất phát là Trung thành. Xưa là trung với vua, trung thành nhiều khi mù quáng. Một thứ ngu trung mang nặng ý thức hệ phong kiến, coi sơn hà, xã tắc là của vua nên trung quân được coi là ái quốc. Với Hồ Chí Minh thì lòng trung thành tuyệt đối là trung với nước, với Tổ quốc và nhân dân. Lòng trung thành với Đảng cũng chính bởi Đảng đặt lợi ích của nhân dân, Tổ quốc lên trên hết, trung thành với Đảng là bởi vì Đảng trung thành với nhân dân. Trung thành đi kèm với xây dựng, bảo vệ chính quyền nhân dân, lấy nhân dân làm mục tiêu quyết định, chi phối mọi hành động. Lòng trung thành được thử thách rõ ràng nhất khi Tổ quốc bị xâm lăng thì dám hy sinh chiến đấu đánh đuổi bọn cướp nước và bọn tay sai bán nước để giành và giữ vững chủ quyền quốc gia. Lòng trung thành còn phải thể hiện ở tinh thần lao động sáng tạo xây dựng đất nước giàu mạnh và còn ở sự dũng cảm đấu tranh chống lại mọi bất công, tàn bạo, các biểu hiện quan liêu, tham nhũng trong bộ máy chính quyền.

Theo Hồ Chí Minh, lòng trung thành - với nội hàm như trên - phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống quan điểm đạo đức cách mạng. Ví dụ, khi nói về phạm trù “liêm” Người đã phân tích như sau:

“Liêm là trong sạch, không tham lam. Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan, không đục khoét dân gọi là liêm, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp…

Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hoà, chữ liêm có nghĩa rộng hơn, là mọi người đều phải liêm... Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm. Cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có kiệm mới liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam.

Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm”(7).

Theo Hồ Chí Minh những biểu hiện dưới đây đều là bất liêm:
“Người cán bộ cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút hoặc trộm của công làm của tư.

Người buôn bán, mua 1 bán 10, hoặc mua gian, bán lậu, chợ đen, chợ đỏ, tích trữ đầu cơ.

Người có tiền, cho vay cắt cổ, bóp hầu, bóp họng đồng bào.

Người cày ruộng, không ra công đào mương mà lấy cắp nước ruộng của láng giềng.

Người làm nghề (bất cứ nghề gì) nhân lúc khó khăn mà bắt chẹt đồng bào.

Người cờ bạc chỉ mong xoay của người làm của mình.

Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).

Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc, nguy hiểm không dám làm là tham vật uý lao (tham vật chất, sợ lao động, ngại khó - TĐH chú thích).

Gặp giặc mà rút ra, không giám đánh là tham sinh uý tử (tham sống sợ chết; hèn, TĐH chú thích)(8).

Hồ Chí Minh đã kết luận như sau: “Do bất liêm mà đi đến tội trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp... Cụ Khổng Tử nói: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”. Để thực hiện chữ liêm cần có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống, từ dưới lên trên.

Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vị tư”.

Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”(9).

Khi phân tích về chữ liêm, Hồ Chí Minh bao giờ cũng lưu ý đến ba điều cốt yếu sau đây: Một là, vai trò của nhân dân và trình độ của nhân dân trong việc làm cho bộ máy lãnh đạo, quản lý thật liêm khiết. “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót thì “quan dù không liêm cũng phải hoá ra liêm. Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm"(10). Hai là, vai trò của luật pháp. “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì"(11). Ba là, liêm luôn đi cùng với xỉ (xấu hổ). Xấu hổ là một đặc điểm thuộc bản tính người. Người biết xấu hổ thì là người có lòng tự trọng cao, là người có sức mạnh nội tâm để giữ cho bản thân tránh tham lam, tội lỗi: “Mỗi người phải nhận rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, có tội với dân"(12). Muốn có đạo đức cách mạng thì, như Hồ Chí Minh đã căn dặn, mọi người từ cán bộ đảng viên cấp cao xuống đến cơ sở đều phải kiên quyết chống kẻ thù bên trong là chủ nghĩa cá nhân, đồng thời phải nghiêm khắc với bản thân mà suốt đời tu dưỡng rèn luyện để xứng đáng với tư cách là đảng viên của một đảng chân chính cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng được nhân dân tin yêu, quý trọng không chỉ vì những thành tựu vĩ đại chưa từng có trong lịch sử Đảng đã mang lai cho dân tộc, mà còn vì Đảng, tiêu biểu nhất là Hồ Chí Minh, đã là một biểu tượng cao đẹp nhất của một kiểu đạo đức mới-đạo đức vì dân, trung với nước, hiếu với dân. Chúng ta, có thể mượn câu nói bất hủ sau đây của Nguyễn Ái Quốc khi Người nói về Lênin để hiểu rõ về một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm nên uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhân dân ta: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thày, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”(13). Đảng Cộng sản Việt Nam được suy tôn là Đảng của nhân dân các dân tộc Việt Nam vì, trước hết, Đảng ta là đạo đức./.
---------------------
(1, 7, 8, 9, 10, 11, 12) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2020, T 5, Tr 249, 240, 241.
(2, 3, 4) sđd, tập 7, tr.452, 347.
(5, 6) sđd, tập 9, tr.284.
(13) sđd, tập 1, tr.295.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐẢNG TA LÀ VĂN MINH!

         Nhiều nhà khoa học đã có những định nghĩa khác nhau về văn minh. Chúng tôi xin dẫn ra dưới đây một số định nghĩa đã được ghi trong Từ điển để chúng ta tham khảo giúp cho việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh khi nói: Đảng là văn minh!

Từ điển Chính trị do Nxb Tiến bộ (M) và Nxb Sự thật (H) đồng ấn hành năm 1988 ghi: Văn minh có 3 cách hiểu như sau:
- Đồng nghĩa với văn hoá;
- Trình độ, giai đoạn phát triển của nền văn hoá vật chất và tinh thần (văn minh cổ đại, văn minh hiện đại).
- Giai đoạn phát triển xã hội sau thời đại dã man.

Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của GS. Nguyễn Lân do Nxb Văn học, H. ấn hành năm 2007 cũng ghi 3 cách hiểu:

- Trình độ phát triển khá cao của nền văn hoá về tinh thần và vật chất trong xã hội loài người: “Văn hoá súc tích, tiên tiến tới một mức nào đó mới thành văn minh” (Trường Chinh).

- Cuộc sống cao đẹp đã xa thời dã man, mông muội: Trên đất nước ta đang diễn ra cuộc chiến đấu quyết liệt giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa văn minh và bạo tàn (Hồ Chí Minh).

- Có trình độ văn hoá cao: Chúng ta sẽ xây lên một cuộc đời hoàn toàn mới, một xã hội phồn vinh, văn minh, hiện đại (Lê Duẩn).

Từ “văn minh”(civilization) xuất hiện đầu tiên ở Pháp vào thế kỷ 18 nói lên niềm tin và khát vọng của con người vào tiến bộ xã hội. Sau đó dùng để chỉ những loại hình xã hội khác nhau kể từ khi con người ra khỏi thời tiền sử, đặc biệt để chỉ những nền văn minh cổ đại (Hy Lạp, Lưỡng Hà, Trung Hoa...). Từ văn minh cũng được đế quốc, thực dân dùng làm vũ khí chính trị che dấu mục đích xâm lược các thuộc địa dưới chiêu bài đi “khai hoá văn minh” cho các nước thuộc địa. Văn minh là một khái niệm động, nhiều nhà nghiên cứu đã ví văn minh như một cơ thể sống. Về đại thể, người ta cho rằng loài người đã trải qua ba giại đoạn văn minh chủ yếu: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Gần đây nhiều nhà khoa học cho rằng giai đoạn văn minh nào cũng bao hàm ba yếu tố: tự nhiên, kỹ thuật, con người nhưng mỗi giai đoạn văn minh lấy một trong ba yếu tố làm gốc, làm trục chính.

Sự bàn luận vẫn đang còn tiếp tục. Theo chúng tôi, trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, khi Người nói Đảng ta là văn minh thì không nên quá sa đà vào việc tranh luận có tính chất ngữ nghĩa mà cách tốt nhất là nên tôn trọng sự tồn tại các định nghĩa của khái niệm văn minh, nhưng quan trọng là xác đỉnh rõ nội hàm của nó và dụng ý của tác giả trong những văn cảnh khác nhau.

Chúng tôi nghĩ rằng câu nói của Hồ Chí Minh “Đảng ta là văn minh” có thể bao gồm một số nội dung sau đây:
- Đảng ta là văn minh bởi vì ở thời điểm khó khăn, đen tối, bế tắc nhất của xã hội Việt Nam (đầu thế kỷ 20), Đảng đã ra đời với tư cách là tổ chức chính trị tiền tiến có tính vượt trội (văn minh) so với mọi tổ chức chính trị đã xuất hiện trong cùng thời kỳ đó. Nó là con đẻ của sự vận động lịch sử và sự xuất hiện của bản thân nó chính là để đáp ứng yêu cầu khách quan, tất yếu của lịch sử dân tộc, gánh vác sứ mệnh dẫn dắt nhân dân đoàn kết đứng lên đấu tranh tự giải phóng cho mình khỏi cuộc đời nô lệ, khỏi mọi ách áp bức, bất công và tàn bạo, giành lấy chủ quyền. Đảng tự nguyện nhận làm bộ tham mưu tối cao và đội tiền phong dũng cảm trong cuộc đấu tranh ấy của nhân dân.

- Đảng ta là văn minh bởi vì nó là một tổ chức chính trị chân chính, trung thực, trung thành, quang minh chính đại, chung thuỷ, trước sau như một đều nhất quán một tinh thần yêu chuộng hoà bình, tôn trọng công lý và chính nghĩa, vì độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình và có quan hệ chân thành, bình đẳng, hữu nghị, hợp tác cùng có lợi với các dân tộc và tất cả các quốc gia trên thế giới. Đảng văn minh là bởi Đảng kiên quyết cự tuyệt thói cơ hội, mị dân, giáo điều, bảo thủ, dối trá, lừa gạt, thất tín, tiền hậu bất nhất, nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo...

- Đảng ta là văn minh là bởi vì Đảng là một tổ chức cách mạng, kiên trì cải tạo xã hội cũ, phá bỏ mọi cái lạc hậu; kiên trì chống lại cuộc sống mất nhân tính; nó nhân danh chính nghĩa và vì chính nghĩa mà chống phi nghĩa, tức là đấu tranh chống mọi biểu hiện của cái ác. Vì vậy, bản thân Đảng là một lực lượng tiên tiến, là bộ phận tinh hoa của xã hội, là một tập thể đại diện cho văn minh và nhân danh văn minh để chống dã man, tàn bạo.

- Đảng ta là văn minh là bởi vì bản chất của Đảng, mục tiêu lý tưởng của Đảng không phải chỉ nhằm đập tan, phá bỏ cái cũ xấu xa, lạc hậu mà chủ yếu là kiến tạo và dựng xây một xã hội mới tốt đẹp, nhân đạo hoàn bị tiến tới một nền văn minh mới - văn minh cộng sản chủ nghĩa - với ba yếu tố đảm bảo:

Tự nhiên được bảo vệ và tái tạo hoà hợp với con người, tự nhiên nhờ có con người mà nhân đôi mình lên và cùng với con người là chủ thể của cái đẹp;

Một xã hội mà nền khoa học và công nghệ phát triển cao (nền kinh tế tri thức), sản phẩm được làm ra bởi trí tuệ con người hướng tới mức của cải ngày càng thoả mãn cho mọi nhu cầu của toàn xã hội;

Nhân dân hoàn toàn làm chủ xã hội; con người được tự do phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực và nhân cách, con người thực sự được làm chủ vận mệnh của mình trong một xã hội “người yêu người sống để yêu nhau”.

Như vậy là toàn bộ hoạt động của Đảng thực chất là đều hướng vào làm cho “văn hoá súc tích, tiên tiến tới mức đã trở thành văn minh”.

- Đảng ta là văn minh là bởi vì Đảng bao gồm những phần tử ưu tú của xã hội kết thành một tổ chức có năng lực trí tuệ cao, có trình độ văn hoá tiêu biểu của thế giới đương đại, có trình độ lý luận tiên phong đủ sức làm một đảng tiên phong dẫn đường cho quần chúng trong các giai đoạn phát triển của lịch sử, tức là trong những bước ngoặt của phong trào cách mạng Đảng phải đủ sức đưa ra những kiến giải đúng đắn, hợp tình, hợp lý về những vấn đề mà thực tiễn đang đòi hỏi phải giải quyết. Nói cách khác, Đảng là văn minh có nghĩa là Đảng như người thuyền trưởng và các thủy thủ thông tuệ, đủ trí khôn và lòng dũng cảm chèo lái con thuyền cách mạng qua mọi thác ghềnh để hoà vào dòng chảy chung của nhân loại, đưa dân tộc phát triển bền vững, sánh vai cùng các cường quốc 5 châu. Một đảng như thế tức là bản thân nó phải là một tập thể bao gồm hầu hết những đảng viên hồng thắm, chuyên sâu, vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, tài đức vẹn toàn, gương mẫu cho quần chúng, dẫn dắt quần chúng, “lo trước thiên hạ, vui sau mọi người”.

Đảng văn minh chính vì Đảng không ngừng phấn đấu để luôn xứng đáng là người dẫn đường cho quần chúng đồng thời “là người con hiếu thảo của nhân dân”.

- Đảng ta là văn minh là bởi vì trong tổ chức và hoạt động, Đảng phải không ngừng rèn luyện cho mình cách ứng xử văn minh.

Trước khi qua đời Hồ Chí Minh đã dự báo về thời gian giải phóng hoàn toàn miền Nam và Người đã để lại một bản Di chúc với những căn dặn sâu sắc, toàn diện có giá trị như là linh hồn và đề cương thu gọn của bản Cương lĩnh xây dựng đất nước sau ngày thống nhất. Hai vấn đề quan trọng bậc nhất của một Đảng cầm quyền được viết rõ trong Di chúc của Hồ Chí Minh đều thuộc về cách ứng xử văn minh của Đảng: “Trước hết nói về Đảng” và “Đầu tiên là công việc đối với con người”.

Biểu hiện quan trọng nhất của văn minh là cách con người ứng xử với nhau như thế nào. Dưới đây xin điểm lại mấy nét cơ bản trong cách ứng xử của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
* Ứng xử nội bộ
“Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triến sự đoàn kết và thống nhất của Đảng...”(1). Đó là nguyên tắc ứng xử quan trọng nhất trong nội bộ Đảng, làm nên bộ mặt văn minh tinh thần của Đảng và là mấu chốt của công tác xây dựng đảng.

“Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(2). Đây là cách ứng xử văn minh giữa những người đồng chí, những người chiến sỹ cùng có lý tưởng cao đẹp, cùng nguyện chiến đấu hy sinh suốt đời vì một nghĩa lớn là độc lập cho Tổ quốc và hạnh phúc cho đồng bào, do đó phải sống với nhau sao cho có tình, có nghĩa bởi như Hồ Chí Minh đã từng nói nếu đọc bao nhiêu sách Mác-Lênin mà sống với nhau không có tình, có nghĩa thì không thể coi là người đảng viên của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin được. Có tình đồng chí thương yêu là phải giúp nhau cùng tiến bộ, là phê bình chân thành, là đòi hỏi đồng chí mình sửa chữa khuyết điểm. Thành kiến, trù dập, tranh giành địa vị, bổng lộc, tư túng, bè cánh, yêu nên tốt, ghét nên xấu... là những hành vi không văn minh, là trái với tư cách của một Đảng chân chính cách mạng. Tất cả những gì trái với đạo đức cách mạng đều trái với văn minh, đối lập với văn minh và là sự phá hoại văn minh. Vì vậy có thể nói Đảng ta là văn minh là bởi vì Đảng ta có đạo đức cách mạng. Những ai vô đạo thì cũng là kẻ vô văn, là kẻ thù của cách mạng như Hồ Chí Minh từng chỉ rõ.

* Ứng xử với xã hội:
Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Đây là giai đoạn khác về cơ bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng: Đảng lãnh đạo Nhà nước, Nhà nước thể chế hoá các chủ trương đường lối của Đảng bằng hệ thống các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Do vậy trình độ văn minh của Đảng ở giai đoạn này thể hiện ở việc lãnh đạo xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không bao biện làm thay Nhà nước, không đứng trên Nhà nước mà Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Một vấn đề lớn nhất của lãnh đạo là quan tâm đến con người, là thu hút nhân tâm, là an sinh xã hội, là chăm lo cho mọi lớp người, đến từng đồng bào một. Thái độ và chính sách đối với con người là thước đo trình độ văn minh của Đảng cầm quyền. Điều này chúng ta đã thấy rất rõ trong suốt quá trình trực tiếp lãnh đạo cơ quan cao nhất của Đảng đồng thời là người đứng đầu Nhà nước của Hồ Chí Minh. Chúng ta còn được Hồ Chí Minh dặn lại rất tỷ mỉ trong phần viết về con người của bản Di chúc. Không được phép quên bất cứ ai từ anh chị em thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, đến những chiến sĩ trẻ tuổi, các cháu thiếu niên và nhi đồng, chị em phụ nữ và đồng bào nông dân miền xuôi cũng như miền ngược… Văn minh và nhân đạo hơn nữa là “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”(3).

- Đảng ta là văn minh và sẽ mãi mãi "Đảng là đạo đức, là văn minh”, bởi vì Đảng luôn ý thức được rằng: Điều kiện để đảm bảo cho tính tất yếu lịch sử của vai trò cầm quyền và lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là luôn luôn đổi mới và chỉnh đốn Đảng.

Đảng lãnh đạo là tất yếu
Thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng là tất yếu.

Cả hai đều tất yếu như nhau!

Để thể hiện quyết tâm phấn đấu theo tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Đảng ta ngày càng xứng đáng là đạo đức, là văn minh, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi: “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”(4)./.
--------------------
(1,2,3) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 12, tr.510.
(4) Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, NXBCTQG, H 2006, tr.279).
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: “ĐẢNG TA LÀ... THỐNG NHẤT, ĐỘC LẬP, LÀ HÒA BÌNH, ẤM NO”!

         Trong diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1930 - 3-2-1960) Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói:
“....Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình, ấm no”.

Trong hai bài trước chúng tôi đã trình bày một số nhận thức của mình về: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Ở bài này chúng tôi xin trình bày mấy suy nghĩ về “Đảng ta... là thống nhất, độc lập, là hoà bình, ấm no”.

Nói Đảng là đạo đức là muốn nói rõ tư cách, bản chất chân chính cách mạng, lòng trung thành với Tổ quốc và nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói Đảng là văn minh là muốn nói trình độ cao về văn hoá, năng lực trí tuệ, tính tiền phong về lý luận, sự trong sạch về tổ chức và khả năng của Đảng Cộng sản Việt Nam đấu tranh chống lại bạo tàn, chống lại cuộc sống mất nhân tính. Từ trước Đảng đã như thế, ngày nay Đảng lại càng phải rèn luyện để tiếp tục được như thế. Nói Đảng là đạo đức và văn minh nghĩa là Đảng phải thể hiện ra hành động, ở những bước tiến trên thực tiễn để hiện thực hoá cương lĩnh chính trị mà Đảng đã đề ra. Còn nói: “Đảng...: là thống nhất, độc lập, là hoà bình, ấm no” là chỉ rõ mục tiêu lý tưởng và nhiệm vụ mà Đảng phải hy sinh, chiến đấu để thực hiện.

Tư tưởng thống nhất, độc lập, hoà bình của Hồ Chí Minh là nhất quán. Trước hết phải thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động trong nội bộ Đảng. Để chuẩn bị cho sự nghiệp lớn của Đảng và dân tộc, Hồ Chí Minh đã mở lớp huấn luyện, giảng dạy về lý luận và phương pháp cách mạng cho lớp cán bộ đầu tiên vào những năm 20 của thế kỷ trước. Những bài giảng đó có tên chung là Đường cách mệnh. Theo Người, trước hết Đảng phải có lý luận tiền phong để làm tròn nhiệm vụ của Đảng tiên phong. Đảng phải có chủ nghĩa. Trong Đảng ai cũng phải hiểu và tin theo chủ nghĩa ấy. Một vấn đề cơ bản nhất là Đảng phải thống nhất trên cơ sở cùng nhận thức được chân lý, cùng tin theo một học thuyết cách mạng và khoa học. Nhận thức lý luận là tự giác. Chân lý khoa học là khách quan. Không thể có sự áp đặt chân lý. Không thể chỉ có “nhiệt tình xông lên” mà lại thiếu hiểu biết, thiếu lý luận soi đường ví như người đi đêm không có ánh đuốc chiếu sáng. Nhưng làm cách mạng tất nhiên là phải có trái tim, có nhiệt tình sôi nổi được dẫn dắt bởi một lý trí sáng suốt. Thống nhất về lý tưởng, cùng tin theo một chủ nghĩa khoa học là điều căn cốt nhất của Đảng chân chính cách mạng. Thống nhất giữa lý trí sáng suốt và tình cảm sôi nổi là bản lĩnh cần có của mỗi đảng viên. Hồ Chí Minh từng nói những người cộng sản Việt Nam phải có 3 chữ “đồng” là: “đồng chí” (cùng chí hướng), “đồng tâm” (một lòng, hiệp lực, chung lòng cứu nước) và “đồng tình” (cùng giống nhau ở tình cảm yêu nước, yêu đồng bào và ghét bất công tàn bạo). Theo Hồ Chí Minh, lý luận phải gắn kết với thực tiễn, soi sáng cho thực tiễn và từ thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức lý luận của mình. Dưới ánh sáng của chân lý khoa học và phép biện chứng duy vật mà nhận định về tình hình đất nước trong bối cảnh quốc tế ở từng giai đoạn cụ thể. Đây là vấn đề rất khó, thường có sự nhận thức khác nhau, có đúng, có sai, tuỳ nhãn quan chính trị, sự hiểu biết, năng lực trí tuệ và trải nghiệm của mỗi người. Do vậy dễ phát sinh mâu thuẫn, dễ có những nhận định, đánh giá tình hình đi tới việc đề xuất các chủ trương, nhiệm vụ, các quyết sách khác nhau. Đây là khâu không dễ dàng để có ngay sự thống nhất cao trong toàn Đảng. Hồ Chí Minh đã có nhiều chỉ dẫn quan trọng thông qua cách ứng xử của bản thân Người trong mối quan hệ với các đồng chí khác khi giải quyết các công việc của Đảng. Đó là dân chủ thảo luận, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, thật thà trên tinh thần đồng chí, là sự lắng nghe lẫn nhau, tôn trọng ý kiến của nhau và chờ đợi nhau. Hồ Chí Minh là mẫu mực tuyệt vời về tôn trọng ý kiến tập thể nhưng biết bảo lưu những ý kiến mà mình cho là đúng đắn, biết giúp đỡ đồng chí nâng cao trình độ lý luận và thâm nhập thực tế, lấy thực tiễn để kiểm tra chân lý, từ đó mà cảm hoá, thuyết phục nhau đi tới sự nhất trí cao trong Đảng về đường lối chiến lược cũng như sách lược cách mạng. Các văn bản vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo đã được Hội nghị thành lập Đảng (3-2-1930) nhất trí thông qua chính là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta (theo tôi nên gọi các văn bản đó là Cương lĩnh tháng 2 để phân biệt với các Cương lĩnh sau này). Trên thực tế, tinh thần chung của Cương lĩnh đó đã phải trải qua thử thách khắc nghiệt của cuộc đấu tranh anh dũng và hy sinh của nhiều đồng chí, đồng bào cho mãi đến năm 1941 tại Hội nghị TƯ lần thứ 8 do tình hình trong nước và thế giới biến đổi to lớn, thuận lợi nên mới tạo ra được sự nhất trí cao trong toàn Đảng và được toàn dân hưởng ứng đưa tới bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước nhà. Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiếp theo là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm suốt 30 năm đưa tới kết thúc hoàn toàn thắng lợi đã chứng minh hùng hồn sự thống nhất trong toàn Đảng cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Sự thống nhất ấy cũng chứng tỏ đường lối của Đảng ta luôn giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ và chỉ có độc lập, tự chủ chúng ta mới có sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức để đoàn kết đấu tranh giành thắng lợi. Bài học về sự thống nhất, độc lập, tự chủ về đường lối, về chủ trương chiến lược là bài học có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta. Thống nhất, độc lập, tự chủ của Đảng là nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc làm cho nước nhà độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Và chỉ có mục tiêu ấy mới làm cho Đảng cùng dân tộc thống nhất ý chí và hành động. Chất keo kết dính tất cả mọi người Việt Nam trong Đảng cũng như ngoài Đảng, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, là ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ là mục tiêu lý tưởng, là khát vọng của Đảng và cùa nhân dân ta. Đó là cơ sở để đoàn kết thống nhất trong Đảng, là cái tạo nên sức mạnh của ý chí độc lập tự chủ, tự quyết định về dường lối để “dù ai nói ngả, nói nghiêng”, dù ai “nói ngon, nói ngọt” hay trước mọi áp lực khách quan Đảng ta vẫn vững vàng chủ động chèo lái con thuyền cách mạng nước nhà trước những bước ngoặt quan trọng của lịch sử. Và chính sự thống nhất, độc lập trong Đảng mới đưa cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ vì đọc lập, thống nhất đất nước đến toàn thắng. Chính vì vậy Đảng ta là biểu tượng chân chính của ngọn cờ thống nhất, độc lập của nhân dân ta trong suốt hơn 94 năm qua. Thời thế đã đổi thay nhưng tư tưởng về thống nhất, độc lập, tự chủ vẫn còn nguyên giá trị, nó vẫn đang có ý nghĩa soi sáng cho các quyết sách chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thống nhất trong Đảng về ý chí, chủ trương và hành động; độc lập, tự chủ trong quyết sách chiến lược; linh hoạt nhưng giữ vững nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là bản lĩnh của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại… Ngày nay Đảng đang tiếp tục truyền thống của 80 năm đã qua để giữ vững quan điểm độc lập tự chủ, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ vùng trời, vùng biển, rừng cao, suối sâu, đất đai, tài nguyên, khoáng sản của cha ông ta muôn đời trước đã đổ biết bao máu xương công sức để lại cho chúng ta ngày nay. Giữ vững chủ quyền quốc gia là nghĩa vụ thiêng liêng đời đời của các thế hệ con dân nước Việt, là trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là một Đảng chân chính cách mạng, một đảng luôn tự hào là đại diện cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Nếu nước độc lập mà nhân dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy, hoà bình và ấm no là nguyện vọng chính đáng và là khát vọng muôn đời của nhân dân ta. Trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, đã dẫn dắt dân tộc từng bước biến mơ ước hoà bình, ấm no ngàn đời của nhân dân ta thành hiện thực. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nối kinh nghiệm của tổ tiên ta, Người đã nêu gương sáng về sự cứng rắn trong nguyên tắc, mềm dẻo trong sách lược, về tính cương nhu trong ứng xử để giữ vững hoà bình trong độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Độc lập-tự do-hạnh phúc, tiêu ngữ ấy do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng từ buổi đầu dựng nền dân chủ cộng hoà tới nay vẫn đang dẫn dắt dân tộc ta hướng tới tương lai, trong đó hiện hữu một nước Việt Nam tự chủ, toàn vẹn cõi bờ, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, sánh bước tiến lên cùng nhân loại./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGHĨ TIẾP VỀ LỜI BÁC HỒ “ĐẢNG TA LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH”!

     Trong lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao/Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình/Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Khái niệm văn minh mà Bác dùng theo tôi hiểu tương ứng với khái niệm trí tuệ, năng lực nhận thức quy luật và hành động cách mạng đúng đắn mà hiện nay chúng ta đang dùng. Để là đội quân tiên phong chỉ có đạo đức thôi chưa đủ, tuy đạo đức là yêu cầu tiên quyết nhưng còn phải có năng lực, trí tuệ, phải biết phân tích chính xác tình hình, đề ra đường lối, chủ trương sát đúng, tổ chức được phong trào thực tiễn, đưa cách mạng tiến lên. Yêu cầu này là chung cho toàn Đảng, cho mọi tổ chức đảng, đến từng đảng viên.

Nhìn lại suốt chặng đường hơn 94 năm qua, tuy cũng có lúc mắc phải sai lầm, khuyết điểm, nhưng về cơ bản, Đảng ta là “đạo đức và văn minh”, đủ tư cách lãnh đạo giai cấp và dân tộc, đưa đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, trong điều kiện hoà bình, nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, dễ xuất hiện xu hướng không đúng trong việc xem xét mối quan hệ đức-tài trong xây dựng Đảng; dễ đề cao kiến thức năng lực, coi nhẹ đạo đức cách mạng. Thực tiễn xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới chứng minh rằng, đạo đức vẫn là cái gốc; đương nhiên, đạo đức không tách rời mà gắn liền với năng lực và hiệu quả thực tế trong công việc, và suy cho cùng, năng lực và hiệu quả công việc cũng chính là đạo đức. Đạo lý Việt Nam vẫn luôn tin cậy và coi trọng những người lãnh đạo có đạo đức. Tham ô, lãng phí, quan liêu đang là thách thức hàng đầu đối với chế độ ta. Ở đó có vấn đề năng lực quản lý, nhưng chủ yếu và trước hết là vấn đề đạo đức của những đảng viên cầm quyền. Chừng nào chúng ta không đẩy lùi những tệ nạn này thì uy tín chính trị của Đảng và Nhà nước ta sẽ bị xói mòn nghiêm trọng. Có thể nói rằng "diễn biến hoà bình”, trong đó tự diễn biến bắt nguồn từ sự vô đạo đức, sự thối nát, mọt ruỗng của những kẻ thoái hoá trong bộ máy công quyền đã làm giảm nghiêm trọng lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Điều này thật nguy hiểm.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức của Đảng đã giải quyết một cách đúng đắn, khoa học mối quan hệ giữa lợi ích của Đảng, của dân với lợi ích cá nhân. Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và chế độ sở hữu dưới nhiều hình thức, thì những chuẩn mực giá trị cụ thể của đạo đức cách mạng, về lối sống... chắc chắn không thể giữ nguyên như thời chiến tranh hay như thời cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Tuy nhiên, công cuộc xây dựng đất nước hôm nay càng cần đạo đức cách mạng hơn bao giờ hết, với những tiêu chuẩn chặt chẽ và việc thực hiện là cả một cuộc đấu tranh gian khổ đối với mỗi tổ chức đảng cũng như đối với mỗi đảng viên. Không củng cố và tăng cường được nền đạo đức đó thì Đảng ta sẽ khó có thể giữ được vai trò tiên phong của giai cấp, của dân tộc. Vì thế Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà Đảng ta phát động có ý nghĩa hết sức lớn lao trong giai đoạn này.

Từ yêu cầu phát triển xã hội, công tác xây dựng đảng càng phải nêu cao khẩu hiệu tri thức hoá Đảng và Đảng Cộng sản phải là Đảng của trí tuệ. Tất cả đảng viên phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt thì mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Lẽ đương nhiên, xã hội đi lên, mặt bằng dân trí của xã hội nâng cao thì mặt bằng học vấn của đội tiên phong cũng phải tăng lên. Nhưng không được phiến diện, cực đoan; không rơi vào chủ nghĩa hình thức và nhất là coi thường những tiêu chuẩn cơ bản của một Đảng trí tuệ. Tình trạng chạy bằng cấp, làm bằng giả hoặc bằng tuy thật mà kiến thức không tương ứng đã làm mất uy tín của Đảng. Đào tạo cán bộ lãnh đạo đảng khác với đào tạo lãnh đạo các ngành khác. Rất có thể một cấp uỷ có rất nhiều người có bằng đại học, hoặc hơn thế nữa, nhưng lại chưa chắc đã có trí tuệ lãnh đạo cao. Tri thức đó phải được sử dụng trong thực tiễn lãnh đạo.

Với bất cứ một tổ chức đảng nào, dù là ở Trung ương hay cơ sở, lãnh đạo tốt phải ra quyết định đúng, phải tổ chức thực hiện tốt, trong đó nhất thiết phải biết kiểm tra công việc, biết uốn nắn, xử lý những thiếu sót, sai lầm. Để có quyết định đúng thì phải nắm vững chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững điều kiện thực tiễn, có sự vận dụng sát, đúng, linh hoạt. Đảng phải thu thập được nhiều thông tin, đảng viên và nhất là người lãnh đạo phải am hiểu kiến thức về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, phải biết tổ chức tập hợp trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, nhất là giới trí thức để cân nhắc lựa chọn phương án thích hợp. Cần hiểu rằng, việc ra quyết định của cấp lãnh đạo ngày nay chịu nhiều sức ép hơn trước. Sự phân hoá về kinh tế, sự phân tầng về xã hội tạo ra sự phức tạp trong đánh giá tình hình và nhu cầu xã hội. Tất cả những điều đó đòi hỏi Đảng phải nâng cao trí tuệ; dừng lại là tụt hậu.

Đảng phải thể hiện trí tuệ không chỉ trong lý luận mà phải thể hiện trong hành động, tính khoa học và nghệ thuật tổ chức công việc, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện những mục tiêu trước mắt và lâu dài của cách mạng. Khi có quyết định đúng rồi, còn phải biết tổ chức công tác thực tiễn, đưa quyết định vào cuộc sống. Công việc đó cũng thuộc phạm trù trí tuệ của Đảng. So với thời kỳ chưa có chính quyền, thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc thì công tác tổ chức thực tiễn của Đảng ta ngày nay phức tạp hơn về nhiều mặt, đòi hỏi Đảng càng phải có đạo đức và trí tuệ hơn.

Năm 2025 là năm diễn ra nhiều sự kiện trong đại của đất nước, năm diễn ra đại hội các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV. Mỗi chúng ta đều có quyền tự hào “Đảng ta thật là vĩ đại” như Bác Hồ đã tổng kết. Nhưng để làm tròn nhiệm vụ của một Đảng đạo đức, Đảng văn minh, thì mỗi đảng viên chúng ta cần phải học tập thật nhiều: Học không bao giờ cùng; học mãi, tiến bộ mãi; càng tiến bộ càng thấy phải học thêm, như điều Bác hằng mong muốn./.
Yêu nước ST.

VỀ CÁI GỌI LÀ “CHỦ NGHĨA THỜ Ơ CHÍNH TRỊ”!

     Khi giai cấp vô sản ra đời, xã hội đặt dưới sự thống trị của giai cấp tư sản. Phong trào vô sản đấu tranh chống giai cấp tư sản và các thế lực bóc lột cũng bắt đầu ngay từ đó, nó liên tiếp diễn ra ở khắp mọi nơi, mọi lúc, cho tới nay. Trong tất cả các hình thức và các giai đoạn đấu tranh của giai cấp vô sản khi chính quyền nhà nước còn nằm trong tay giai cấp tư sản thì đều là các cuộc đấu tranh chính trị với ý nghĩa như là một sự tập dượt, rèn luyện để trưởng thành; những người cộng sản đều phải nắm lấy và hướng dẫn nó. Khi nói về mối quan hệ giữa những người cộng sản với toàn thể những người vô sản, C.Mác đã chỉ rõ: “Trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào”(1). Đó là chân lý hiển nhiên, là lẽ bình thường mà những người cộng sản chân chính cách mạng phải hiểu và vận dụng. Nhưng trên thực tế, ngay từ thời C.Mác đã có những “lý luận gia” và không ít những nhà hoạt động chính trị thờ ơ với các hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản. Họ coi các hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản chống chính quyền của giai cấp tư sản và giới chủ tư bản bóc lột giai cấp công nhân như là một sự vụn vặt, thấp kém, trái với nguyên tắc và mục đích tối cao, cuối cùng của đảng cộng sản. Họ đưa ra những lý thuyết viển vông, mơ hồ để ru ngủ phong trào công nhân trước sự bất công, tàn bạo của giới chủ được bênh vực và bảo vệ bởi nhà nước tư sản. Chẳng hạn, họ cho rằng mục đích cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ nhà nước, vì vậy “Giai cấp công nhân không cần phải tự tổ chức thành chính đảng; giai công nhân không được viện bất cứ lý do gì để làm chính trị, vì tiến hành đấu tranh chống nhà nước tức là thừa nhận nhà nước và như vậy là trái với những nguyên tắc vĩnh cửu! Công nhân không nên tiến hành bãi công, vì phí sức mình để giành cho được tăng lương hoặc để ngăn chặn hạ lương có nghĩa là thừa nhận chế độ làm thuê, như thế là trái với những nguyên tắc vĩnh cửu của việc giải phóng giai cấp công nhân!

... Công nhân không nên thành lập các công đoàn, vì như vậy công nhân sẽ làm cho sự phân công lao động xã hội, như hiện có trong xã hội tư sản, tồn tại mãi; chính sự phân công ấy làm cho công nhân chia rẽ và là cơ sở thực sự của tình trạng nô lệ hiện nay của họ... Tóm lại, công nhân nên khoanh tay đứng nhìn và không nên lãng phí thời gian của mình vào việc tham gia phong trào chính trị kinh tế. Loại hoạt động đó chỉ có thể mang lại cho họ những hậu quả trực tiếp... Trong khi chờ đợi sự thanh toán xã hội tuyệt đẹp ấy, giai cấp công nhân phải tỏ ra hiền từ nhã nhặn như đàn cừu ăn no, không được quấy rầy chính phủ, phải sợ sệt luật pháp, phải chịu nhẫn nhục... dù sao họ cũng không được chống đối chế độ tư bản, ngoài việc cao đàm về cái xã hội tương lai không còn chế độ đáng ghét ấy nữa”(2). C.Mác gọi đó là “chủ nghĩa thờ ơ chính trị”.

“Chủ nghĩa thờ ơ chính trị” mà C.Mác phê phán là tư tưởng phản động và hèn hạ của nhà kinh tế học tư sản Pru-đông P.J (Paris xuất bản năm 1868). Nó đã bị C.Mác phê phán và bị vứt vào sọt rác của lịch sử. Tuy vậy nó cũng vẫn còn ảnh hưởng với những mức độ khác nhau ở những nước có nền kinh tế thị trường. Ngay ở nước ta hiện nay cũng không phải không có nhiều nơi coi thường việc xây dựng tổ chức đảng và tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Không phải là không có sự ươn hèn và thoái hoá, biến chất của một số người được cử đại diện phía Việt Nam tham gia trong lãnh đạo các liên doanh… Phải nhận rõ rằng những người công nhân chúng ta trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước hiện nay, xét về mặt chính trị xã hội thì họ là một bộ phận của giai cấp đang lãnh đạo xã hội, họ có tổ chức đảng tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Như vậy, họ đang là chủ nhân có tổ chức của xã hội, có Đảng lãnh đạo, có Nhà nước pháp quyền XHCN đang quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân (trong đó có khu vực kinh tế ngoài nhà nước). Nhưng xét về mặt sở hữu thì bản thân những người lao động Việt Nam hiện nay trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước vẫn là người vô sản (với ý nghĩa là người không có tư liệu sản xuất) đang làm thuê cho giới chủ. Mặc dù vậy, như trên đã nói, họ khác xa cái giai cấp vô sản “trần như nhộng” của thế kỷ 19, bối cảnh ra đời của chủ nghĩa Mác. Đây là một bộ phận của giai cấp vô sản đặc thù trong một xã hội có nền kinh tế thị trường chưa hề có tiền lệ trong lịch sử. Vậy thì Đảng và Nhà nước cùng các tổ chức khác trong hệ thống chính trị cần có sự đầu tư trí tuệ, tâm lực và trách nhiệm nghiên cứu và hoạch định chính sách để tổ chức, xây dựng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. Nếu khu vực kinh tế tư nhân ngày càng có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân thì bộ phận giai cấp vô sản ở đây cũng ngày càng quan trọng. Không thể để tình trạng “Chủ nghĩa thờ ơ chính trị” xuất hiện một cách tự phát như vừa qua ở một số nơi. Ví dụ có doanh nghiệp, giới chủ mạt sát, thậm chí sỉ nhục người lao động, có nơi quỵt lương công nhân, tự ý tăng giờ làm nhằm bóc lột sức lao động; hoặc không ít nơi giới chủ không tôn trọng luật pháp Việt Nam về những điều kiện bảo hộ lao động để xảy ra chết người…, về giữ vệ sinh môi trường lao động; về đảm bảo những phúc lợi xã hội như y tế, sinh hoạt văn hoá, nơi ăn ở (không ít nơi công nhân bị ngộ độc hàng loạt khi ăn cơm ở bếp tập thể), phương tiện đi làm khó khăn, trường học cho con em không có… Đáng chú ý là hầu hết các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài nhà nước đã có hành động làm ô nhiễm môi trường ở các mức độ khác nhau, có nơi rất nghiêm trọng, nhưng các nhà quản lý thì có nơi còn bao che, có nơi chỉ xử phạt chiếu lệ, gượng nhẹ; đặc biệt, các chế tài hoặc thiếu, hoặc chưa đủ mạnh và việc khắc phục rất trì trệ. Như thế thì có phải là sự lặp lại “chủ nghĩa thờ ơ chính trị” của Pru-đông P.J một cách có ý thức hay vô thức không?

Theo thiển nghĩ của chúng tôi, trong công tác xây dựng đảng về tư tưởng và lý luận thì cần đấu tranh, vạch trần, lên án những biểu hiện của “chủ nghĩa thờ ơ chính trị”; trong hoạch định chủ trương, chính sách cần đặt vấn đề chống một cách nghiêm túc, cần thể hiện một cách quyết liệt trong hoạt động thực tiễn; trong tổ chức thì cần nghiên cứu một cách khoa học, sát với thực tiễn để xây dựng và củng cố các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội ở các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Không thể bằng vào kinh nghiệm tổ chức, xây dựng và phương thức hoạt động ở thời kỳ đã qua - thời kỳ cơ chế quản lý tập trung bao cấp - để ứng dụng trong các doanh nghiệp hiện nay. Đảng cần có chỉ đạo cụ thể trong xây dựng và hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước và lãnh đạo các cơ quan nhà nước xây dựng và hoàn thiện các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động của giới chủ và cả với người lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước cần có sự cân nhắc thận trọng khi cử cán bộ vào làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân, nhất là tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài; cần giáo dục và quản lý chặt chẽ tư tưởng và đạo đức của họ để họ thực sự là người của giai cấp công nhân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động. Phải trừng trị thích đáng những ai chỉ vì lợi ích cá nhân mà hy sinh lợi ích của quốc gia và lợi ích hợp pháp của người lao động. Hơn bất cứ ở đâu, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang đòi hỏi một đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa vững về chính trị, vừa có tâm trong sáng, vừa có trí tuệ và bản lĩnh để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Về phía những người lao động, cần phát huy ý thức và bản lĩnh của người làm chủ đất nước, nâng cao tay nghề, rèn luyện tác phong và kỹ thuật lao động công nghiệp, đặc biệt là nắm vững pháp luật để có quan hệ đúng mực với giới chủ, làm cho giới chủ phải tôn trọng người lao động. Đề cao lòng tự tôn dân tộc, biết tự trọng và tuân theo kỷ luật, luật pháp là cách tốt nhất để giới chủ phải khâm phục và tôn trọng.

Đảng và Nhà nước đã và sẽ phải tiếp tục hoàn thiện chế độ chính sách và hệ thống các quy phạm pháp luật để đảm bảo cho những người vô sản trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước được làm chủ - làm chủ bằng Nhà nước và pháp luật./.
---------------------
(1) Tuyển tập Mác - Ăngghen, NXBST, H.1980, tập 1, tr.557.
(2) Sđd, tập 4, tr.345-347.
Yêu nước ST.

NGUY HIỂM “CHỦ NGHĨA THỜ Ơ CHÍNH TRỊ”

     Trong nhiều trường hợp, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,“tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay có sự liên quan nhất định đến những biểu hiện của “chủ nghĩa thờ ơ chính trị”!

"Chủ nghĩa thờ ơ chính trị" là một khuynh hướng trong tư tưởng chính trị, đồng thời cũng là một "căn bệnh", xét dưới góc độ tính nguy hại và tốc độ lây lan của nó. Thuật ngữ “chủ nghĩa thờ ơ chính trị” được C.Mác dùng để chỉ khuynh hướng xem nhẹ, thậm chí phủ định các hình thức đấu tranh của giai cấp công nhân ngay trong chính phong trào công nhân. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tất cả các hình thức và các giai đoạn đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản và chế độ tư bản, những người cộng sản đều phải nắm lấy, tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng... như một phần không thể tách rời của cuộc đấu tranh giai cấp. Có thể thấy, ngay từ khi ra đời cho đến nay, giai cấp công nhân đã và đang thường xuyên tiến hành cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và các thế lực bóc lột một cách vô cùng quyết liệt.

Tuy nhiên, cũng ngay từ đầu cả về lý luận và thực tiễn đã xuất hiện trào lưu coi nhẹ, thậm chí phủ định vai trò của đấu tranh giai cấp. Mỗi lần, những người theo "chủ nghĩa thờ ơ chính trị" thường đưa ra những lý thuyết mơ hồ, lập luận suy diễn, ru ngủ phong trào đấu tranh của công nhân. Cuối cùng theo họ, giai cấp công nhân nên khoanh tay đứng nhìn và không nên lãng phí thời gian vào việc tham gia các phong trào đấu tranh.

Ở Việt Nam hiện nay, "chủ nghĩa thờ ơ chính trị" còn biểu hiện khá phổ biến với mức độ, tính chất và sự ảnh hưởng khác nhau. Biểu hiện rõ nhất là ở trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những biểu hiện chủ yếu trước hết là không quan tâm hoặc coi nhẹ việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng, Công đoàn. Đồng thời, trong quá trình hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư, đã xuất hiện xu hướng đề cao hợp tác, hợp tác bằng mọi giá mà dẫn đến mất cảnh giác, lơ là đấu tranh, từng bước thoả hiệp vô nguyên tắc. Hơn nữa, những vi phạm đến lợi ích của quốc gia, dân tộc không nhận thức được hoặc nhận thức được nhưng không giải quyết kịp thời. 

Như vậy, thực chất của "chủ nghĩa thờ ơ chính trị" là đi ngược lại, có tính chất phủ định những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin. Hậu quả của "chủ nghĩa thờ ơ chính trị" là làm cho một bộ phận công nhân xa rời mục tiêu lý tưởng; từng bước làm phai nhạt bản chất cách mạng của giai cấp công nhân; gây sự chia rẽ, hoài nghi giữa công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với công nhân trong các khu vực kinh tế khác...

Tất nhiên, trong quan hệ với giới chủ, những người công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là những người làm thuê, nhưng trong mối quan hệ với toàn bộ giai cấp công nhân Việt Nam, họ là bộ phận không tách rời của giai cấp đã làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ xã hội. Vì vậy, họ là giai cấp lãnh đạo xã hội thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh “kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”, vai trò của đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài càng được nâng lên. Do đó, công tác xây dựng Đảng, Công đoàn trong các doanh nghiệp rất cần sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà nước, tổ chức Công đoàn cùng các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Phải từng bước ngăn ngừa, khắc phục, đẩy lùi "chủ nghĩa thờ ơ chính trị" đã và đang xuất hiện một cách vô tình hay cố ý.

Góp phần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, đồng thời phát huy bản chất ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng, hơn bao giờ hết, chúng ta cần nhận thức rõ bản chất, đấu tranh vạch trần, lên án những biểu hiện của “chủ nghĩa thờ ơ chính trị”, kiên quyết không để nó có thể “lây lan” trở thành căn bệnh nguy hiểm tàn phá lĩnh vực tư tưởng lý luận, cũng như toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội.


Đảng, Nhà nước cần có biện pháp hiệu quả để đấu tranh, khắc phục những biểu hiện của "chủ nghĩa thờ ơ chính trị" trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cần nghiên cứu một cách khoa học, sát với thực tiễn để xây dựng tổ chức cơ sở đảng, Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội ở các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Trong công tác xây dựng Đảng và tổ chức Công đoàn ở khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cần chọn cử và quản lý chặt chẽ cán bộ phụ trách, nhất là quản lý về tư tưởng chính trị, đạo đức để họ thực sự là người đại diện tin cậy, người bảo vệ lợi ích chính đáng của đội ngũ công nhân và người lao động. Bên cạnh đó, xử lý nghiêm những hành vi xâm phạm đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân, người lao động, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc...
Yêu nước ST.

“BẮT BỆNH” THIẾU NIỀM TIN MỘT CÁCH MÙ QUÁNG!

     Câu chuyện dù đã quen thuộc trong đời sống xã hội nhưng rất ít người đề cập thẳng thắn. Ấy là việc nhiều cá nhân thiếu niềm tin một cách mù quáng vào người tốt, cái tốt đang hiện hữu trong đời sống xã hội, rồi sinh ra tâm lý tiêu cực, bất mãn, thiếu trách nhiệm với tổ chức, cộng đồng, thậm chí là với chính mình. Đây là căn bệnh khá phổ biến ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng; rất cần được cơ quan chức năng sớm nhận diện, dập tắt.

1. Trên trang Facebook cá nhân, một cán bộ hưu trí ở phía Nam bỗng dưng đăng bài viết bày tỏ bức xúc, quy chụp và lớn tiếng phê bình lối sống của một số cán bộ cấp cao. Chủ tài khoản mạng xã hội này cho rằng cán bộ tốt bây giờ không còn nữa nên bản thân thật sự mất niềm tin. Biết anh từ khá lâu nên chúng tôi gặng hỏi, sao anh lại quy chụp kiểu “vơ đũa cả nắm” như thế. Anh bực dọc: “Bây giờ cán bộ ai chả thế. Những người tưởng chừng là tốt, là hay rồi cũng đã “nhúng chàm”. Thế thì còn biết tin ai, tin vào đâu”.

Không đồng tình với quan điểm đó, chúng tôi đấu lý rồi kể tên hàng loạt cán bộ cấp cao liêm chính, giản dị, sống vì dân. Bảo rằng cán bộ tha hóa, biến chất trong xã hội bây giờ không hiếm, nhưng đó không phải là tất cả. Đó chỉ là những “con sâu làm rầu nồi canh”. Thuyết phục mãi anh mới chịu hạ giọng, nhưng vẫn chua thêm một câu qua điện thoại, đại thể: Nói chung, không thể tin được cán bộ bây giờ!

Một câu chuyện khác, khi báo chí đăng tải một bài viết về tấm gương cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm ở miền Trung, dù không biết cán bộ đó là ai, không rõ thực hư thành quả cá nhân đó đạt được như thế nào nhưng nhiều người đọc ở ngoài Bắc vẫn bình luận bày tỏ sự hoài nghi, thậm chí dị nghị: Lại “bôi trơn”, tung hô nhau đây. Đúng là “đài nói láo, báo nói thêm”...

Rõ ràng, tâm lý xã hội đang thật sự có vấn đề. Đó không chỉ là tâm lý của những người dân bình dị mà còn là lối nghĩ của không ít trí thức, người có vị trí xã hội, kể cả những người có chức trách, nhiệm vụ đi tuyên truyền, giáo dục. Công bằng mà nói, lâu lắm rồi, báo chí và các phương tiện truyền thông chưa quan tâm thỏa đáng, đúng tầm mức việc tuyên truyền về người tốt-việc tốt, cán bộ tiêu biểu, điển hình, mô hình... 

Minh chứng là khi thử thao tác tra cứu Google với cụm từ “gương cán bộ cấp tỉnh, thành phố”... thì kết quả thu được thật khó tin: Gần như chỉ đếm được trên đầu ngón tay số cán bộ cấp tỉnh, thành phố, cán bộ công chức ở các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương được báo chí truyền thông viết thành gương điển hình.

Thực tế cho thấy, không phải không có điển hình, mà chính những người trong cuộc lại ngại được tuyên truyền, vì tâm lý sợ “lợi bất cập hại”... Mặt khác, ngay cả cơ quan báo chí cũng chưa dành nhiều thời gian, đầu tư công sức để mở chuyên trang, chuyên mục ngợi ca, tôn vinh các điển hình, mô hình, cái hay, cái đẹp một cách hệ thống, thường xuyên, hiệu quả. Cũng bởi thế mà trong dòng chảy thông tin xã hội, thông tin mạng xã hội lấn át thông tin báo chí chính thống; thông tin tiêu cực bao trùm lên thông tin tích cực một cách khó kiểm soát.

Kết quả khảo sát tại một số cơ quan báo chí cho thấy, những bài viết về cái hay, cái đẹp, gương người tốt-việc tốt thời gian qua nhận được rất ít sự quan tâm của bạn đọc, lượng chia sẻ, tương tác khá khiêm tốn; số lượng bình luận bày tỏ thái độ tiêu cực, thiếu niềm tin nhiều hơn sự ghi nhận, khen ngợi nhân vật điển hình.

Thậm chí trong không ít năm, các giải thưởng báo chí ở nhiều cấp, ngành, địa phương thường ưu tiên giải thưởng cho các tác phẩm đề cập đến nội dung đấu tranh chống tiêu cực, dám bóc trần những hạn chế, yếu khuyết của đời sống xã hội. Hơn thế, trên báo chí, mạng xã hội hiện nay, người ta nói nhiều đến sự vô cảm và dễ dàng bắt gặp những tin tức tội phạm, câu chuyện tiêu cực, hành vi ứng xử kém văn hóa... Những thứ ấy được đào xới, lan truyền một cách bừa bãi, nhận sự ủng hộ của cộng đồng mạng theo lối a dua, ăn theo; nhưng lại có quá ít người sẻ chia, ủng hộ những tấm gương tốt, việc làm thiện, cách sống hay. 

2. Ông cha ta đã dạy “... mất niềm tin là mất tất cả”. Những người không tin tưởng vào chính mình, không có niềm tin vào cuộc sống, nhất là những điều tốt đẹp sẽ không biết bản thân nên làm gì, hành động thế nào. Từ đó, họ sinh ra tâm lý chán nản, không muốn làm việc tốt, không có động lực dấn thân, cống hiến. Khi một cá nhân không có niềm tin sẽ không tin vào phẩm chất, năng lực của chính mình; không còn khả năng đương đầu với khó khăn, thử thách, dễ dàng buông xuôi. Tổ chức, cơ quan, địa phương có những cá nhân mất niềm tin thì công việc sẽ đình trệ, nội bộ mất đoàn kết.

Vì thiếu niềm tin vào người tốt, cái tốt của xã hội nên không ít cá nhân nhìn nhận xã hội này bằng những gam màu xám xịt. Nhiều người sinh ra bất mãn, tự ti, cực đoan. Khi đó, họ so sánh xã hội này với xã hội khác, xã hội hiện nay với xã hội ngày xưa... Điều này tiềm ẩn nguy cơ lớn của việc đòi hỏi thay đổi chế độ, đòi hỏi dân chủ quá trớn, tự do quá đà. Trong xã hội có những cá nhân mất niềm tin như vậy như những đốm lửa nhỏ cháy âm ỉ, từng ngày lan truyền tạo thành đám lửa lớn, sinh ra những xung đột kiểu “đại dịch... thiếu niềm tin”.

Điều đáng nói là các thế lực thù địch, phản động luôn tung ra những luận điệu xuyên tạc, quy chụp về các hiện tượng tiêu cực, cá nhân sai phạm, từ đó hướng lái dư luận xã hội mất niềm tin vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, vào sự lãnh đạo của Đảng, đòi thay đổi chế độ.

Trong thời đại của “xã hội ảo”, lợi dụng internet, mạng xã hội, những kẻ hiềm khích, chống phá dựng nên nhiều “tấm gương tốt” ở bên kia chiến tuyến, dựng nên cuộc chiến tranh tâm lý, tạo ra sự nghi ngờ bao trùm trong xã hội, thật-giả, tốt-xấu lẫn lộn khiến người dân hoang mang, mất niềm tin. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”. Đó là nguy cơ của mọi nguy cơ, vì mất niềm tin là mất tất cả!

3. Thật ra, người tốt, cái tốt luôn hiện hữu quanh ta. Vấn đề là mỗi người cần tĩnh tâm nhìn nhận để phát hiện ra điều đó, bởi người tốt thì không bao giờ lộ thiên, điều tốt thì thiêng liêng, cao quý, rất khó để cảm nhận đủ đầy giá trị của nó. Những người tốt thường khiêm tốn, không thích khoe khoang thành tích cá nhân, không thích được vinh danh, xướng tên trên truyền thông, báo chí. Lòng tốt đôi khi chỉ là những cử chỉ, lời nói động viên rất nhỏ, có khi chỉ thoảng qua khiến chúng ta khó nhận ra, ví dụ như việc giúp một người già qua đường, nhường ghế cho một người yếu thế trên xe buýt... Đừng nghĩ rằng việc tốt phải là những việc to tát, lớn lao.

Ngày nay, trong cuộc sống náo nhiệt với sự đa dạng về văn hóa, ứng xử... chắc hẳn không ít người từng bắt gặp những con người, hành vi chưa tốt, để rồi chép miệng “xã hội tốt-xấu lẫn lộn, chẳng thể tin ai”. Cũng không phải tự nhiên mà người ta nghi ngại như vậy. Bởi đôi khi, sự giả tạo vẫn tồn tại trong cuộc sống và trong nhiều trường hợp có phần lấn át cái hay, cái đẹp, khiến chúng ta khó nhận ra cái tốt trước mắt. Đặc biệt, khi người ta đánh giá con người qua “xã hội ảo” nhiều hơn xã hội thực thì việc kiểm chứng thông tin càng trở nên khó khăn gấp bội.

Cái đẹp, cái thiện vẫn âm thầm, lặng lẽ tồn tại xung quanh chúng ta. Người tốt là người biết lo nghĩ cho người khác, sẵn sàng cống hiến cho cộng đồng, quê hương, đất nước. Tuy nhiên, để phát hiện người tốt-việc tốt, để “cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp” thì công tác tuyên truyền có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Không ít cơ quan truyền thông, báo chí vẫn xem đó là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, cũng là việc cần kíp để nhân lên niềm tin tốt đẹp trong xã hội. Ví như ở Báo Quân đội nhân dân, với trách nhiệm vinh danh, nhân lên phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và những giá trị cao đẹp chân-thiện-mỹ trong đời sống xã hội, liên tục hơn 14 năm qua, tờ báo chiến sĩ đã duy trì hiệu quả Cuộc thi viết “Những tấm gương bình dị mà cao quý”, phát hiện hàng nghìn tấm gương sáng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, để cán bộ, quần chúng soi chiếu, học tập, làm theo.

Như vậy, để khắc phục, khống chế “đại dịch... thiếu niềm tin” đang lan tràn rộng khắp thì giải pháp cần kíp và lâu dài vẫn là quan tâm kiếm tìm, tôn vinh, nhân lên những tấm gương sáng, hành động đẹp trong đời sống xã hội. Phần việc này đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, mà trước hết cần phải thay đổi tư duy, quan niệm về sự ghi nhận, đón nhận, tán dương cái hay, cái tốt, cái đẹp bằng sự lạc quan, tin tưởng tuyệt đối của cả cộng đồng xã hội./.
Theo QĐND.
Yêu nước ST.

KHÔNG ĐỂ ĐỨT GÃY TINH THẦN “XÂY” VÀ “CHỐNG”!

     Các cơ quan, đơn vị, địa phương vừa tổ chức sơ kết 2 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Một trong những bài học kinh nghiệm được rút ra là phải tiếp tục quán triệt, đẩy mạnh, làm sâu sắc thêm tinh thần, nhiệt huyết “xây” và “chống”...

Không thể tư duy kiểu “hớt váng”
Sau 2 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW (gọi tắt là Kết luận 01), trong quá trình tổ chức hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm, thực tiễn ở nhiều cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị các cấp ghi nhận không ít ý kiến băn khoăn. Một trong những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm đặt ra là: Tại sao Đảng ta càng đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì số lượng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật càng nhiều? Tại sao ở một số bộ, ngành, địa phương, mặc dù người đứng đầu mỗi lần đăng đàn phát biểu trong các hội nghị liên quan đều hô hào phải đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực, suy thoái, nhưng chỉ mới “dăm bữa nửa tháng” đã vướng vòng lao lý?

Một số cán bộ vừa mới hôm qua lên diễn đàn thuyết giảng đạo lý, hôm sau đã phải tra tay vào còng? Phải chăng, thực trạng đó chứng minh, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chỉ là hình thức, kém hiệu quả, trước hết là ở ngay trong hệ thống chính trị, ngay trong hàng ngũ cán bộ cấp cao? Phải chăng cán bộ càng được học cao, vi phạm càng nhiều...

Những vấn đề được một bộ phận dư luận xã hội đặt ra như trên một phần xuất phát từ những thông tin do các thế lực thù địch xuyên tạc, lèo lái. Thành tựu của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp luôn là đề tài được các đối tượng cực đoan, bất mãn có tư tưởng thù địch khai thác, thực hiện các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước trên không gian mạng.

Họ bám vào các vụ việc tiêu cực, các cán bộ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống bị xử lý kỷ luật đảng, truy tố trước pháp luật để suy diễn, xuyên tạc, phủ nhận thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; bóp méo, bôi đen tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thông tin sai trái, xấu độc trên không gian mạng đã tác động đến tâm lý, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng, dẫn đến kiểu tư duy “hớt váng”, thấy hiện tượng mà không hiểu bản chất; thấy cây mà không thấy rừng...

Để hiểu rõ những chuyển biến tích cực và kết quả đạt được sau 2 năm thực hiện Kết luận 01 cũng như thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện. Trước hết, đó là tinh thần, phương châm chỉ đạo kết hợp “xây” và “chống”.

Kết luận 01 nêu rõ nhiệm vụ: “Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn”.

Quá trình quán triệt, tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận 01 cần thấy rõ: Đảng ta đã đặt ra yêu cầu vừa khái quát, vừa cụ thể về việc phải gắn chặt, kết hợp việc học tập, làm theo Bác với thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp; trong đó có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái trong nội bộ. Như vậy, kết quả học tập, làm theo Bác cần phải được thể hiện cụ thể thông qua hành động, việc làm, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Nói cách khác, nó phải được lượng hóa cụ thể trên thực tế.

Trong các hội nghị chuyên đề và quá trình tiếp xúc cử tri, rất nhiều lần các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta đã lưu ý, việc có nhiều cán bộ suy thoái, tham nhũng bị điều tra, xử lý không phải là “càng chống càng sai”, “càng học càng kém”... mà bản chất của vấn đề là do càng ngày chúng ta càng làm mạnh, làm quyết liệt việc đấu tranh, chỉnh đốn đội ngũ theo tinh thần không có vùng cấm. Trước đây, ít có vụ việc bị xử lý không phải là không có tham nhũng, tiêu cực, mà bởi lúc đó công tác đấu tranh chưa quyết liệt như hiện nay nên việc phát hiện, xử lý tiêu cực chưa hiệu quả.

Với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “trị một người để cứu muôn người” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh, chúng ta cần thấy rõ, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái là những biểu hiện vô cùng tinh vi, vô cùng khó khăn để có thể lôi ra ánh sáng công lý. Chủ nghĩa cá nhân như sâu mọt đục khoét bên trong thân cây.

Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tiêu cực gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo Bác với tinh thần “lấy xây để chống” thời gian qua đã lôi ra được hàng loạt cán bộ suy thoái trong nội bộ Đảng. Đó là thành tựu của cuộc đấu tranh đầy cam go, phức tạp và không ít “hy sinh”. Thành tựu đó đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, ngày càng đạo đức, văn minh để xứng đáng với niềm tin và sự gửi gắm của nhân dân.

Sự phát triển của tư duy và đòi hỏi gắt gao từ thực tiễn
Việc học tập, làm theo Bác không phải đến bây giờ Đảng ta mới đặt ra, mà đó là một hành trình mang tính hệ thống, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng và những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ. Ngay sau khi Bác mất, trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9-9-1969 đã thể hiện sắt son lời thề: “Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người...”.

Từ đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và kiều bào yêu nước khắp nơi trên thế giới đã ghi nhớ khát vọng “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trải qua mỗi giai đoạn lịch sử, cách mạng dân tộc đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới, việc học tập, làm theo Bác cũng đòi hỏi có sự phát triển, bổ sung những nội dung, yêu cầu mới. Đó là sự phát triển tất yếu của tư duy biện chứng.

Trong 17 năm qua, kể từ khi Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đến nay, việc học tập và làm theo Bác không ngừng được điều chỉnh, bổ sung nội dung, hình thức, giải pháp thực hiện. Đảng ta đã cụ thể hóa sự phát triển tư duy lý luận và đáp ứng yêu cầu gắt gao từ thực tiễn của đất nước bằng các nghị quyết, chỉ thị, kết luận... Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc ban hành, triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận 01 đã thể hiện yêu cầu ngày càng cao đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Kết luận 01 chỉ rõ: Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Bác, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật. Việc thực hiện Chỉ thị 05 gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các khâu đột phá, các vấn đề cấp bách, bức xúc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao...

Công tác đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ; tự phê bình và phê bình có nơi, có lúc còn hình thức; tình trạng thiếu tự giác nhận khuyết điểm, đổ lỗi, nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi...

Với phương châm kết hợp chặt chẽ “xây” và “chống”, sắp tới chắc chắn sẽ còn nhiều cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong hệ thống chính trị bị xử lý kỷ luật, lôi ra trước ánh sáng công lý. Đặc biệt là hiện nay, khi hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh tiếp tục được củng cố, đẩy mạnh, số lượng cán bộ, đảng viên suy thoái, tham nhũng bị kiểm tra, điều tra, xử lý ở các cấp chắc chắn sẽ còn nhiều thêm.

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ tiếp tục diễn ra cam go, phức tạp, nhưng với tinh thần kiên trì, quyết liệt, không có vùng cấm, “lấy xây để chống”, chúng ta có niềm tin son sắt vào thắng lợi của Đảng.

Vấn đề cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp cần có là sự nhận thức thấu đáo, đầy đủ, sâu sắc bản chất của vấn đề bằng phép tư duy biện chứng. Tuyệt đối không tư duy kiểu “hớt váng” dẫn đến nghe theo, hùa theo, làm theo những luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội. Cán bộ, đảng viên có nhận thức thấu đáo, đầy đủ thì mới có cơ sở vững chắc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện ngày càng sâu rộng, hiệu quả việc học tập và làm theo Bác. Tinh thần “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” cần được củng cố, tiếp lửa thường xuyên, liên tục bằng “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”... không để đứt gãy vì bất cứ lý do gì, bất cứ hoàn cảnh nào.

Thực hiện đồng bộ giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. "Xây" là tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước; động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng của các địa phương, cơ quan, đơn vị đã đề ra. "Chống" là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... (trích Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị)./.
Theo QĐND.
Yêu nước ST.

NỀN TẢNG VỮNG CHẮC KHÔNG CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC!

     Ngay từ những ngày thành lập, Đảng ta đã xác định chính sách dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, là một yếu tố mang tính quyết định góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc!

Trong mỗi giai đoạn lịch sử, chính sách dân tộc không ngừng được Đảng, Nhà nước ta quan tâm bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp tình hình thực tiễn và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đặc biệt trong những năm gần đây các nguyên tắc, vấn đề cơ bản về vấn đề dân tộc tiếp tục được khẳng định và bổ sung nhằm phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Vừa qua, lợi dụng sự việc một nhóm đối tượng gây mất an ninh trật tự ở Đắk Lắk, các tổ chức, cá nhân chống phá, thù địch, thiếu thiện chí với Việt Nam lập tức khai thác triệt để nhằm vu cáo chính quyền, xuyên tạc các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Đáng chú ý, chiêu bài vu cáo “Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền” tiếp tục được các đối tượng chống phá triệt để sử dụng như cho rằng nguyên nhân của vụ việc là do “người dân tộc không khuất phục, không quy thuận người Kinh”, “do căng thẳng sắc tộc, tôn giáo”. Có thể thấy, đây là một trong những chiêu trò quen thuộc của chúng nhằm cố tình xuyên tạc bản chất của vụ việc, hướng lái dư luận theo những ý đồ đen tối.

Trong khi đó, dựa trên những kết quả điều tra thực tế, cơ quan chức năng đã đánh giá đây là vụ khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của các đối tượng rất man rợ, mất nhân tính, thể hiện quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng.

Lực lượng công an đã có tài liệu, chứng cứ chứng minh vụ án xảy ra còn do có sự hậu thuẫn, chỉ đạo từ một số tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, thậm chí cử đối tượng từ nước ngoài xâm nhập trái phép về Việt Nam dàn dựng, chỉ đạo tấn công khủng bố. Hiện nay các cơ quan chức năng đang tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Thông tin về vụ việc đã được công bố kịp thời trên các phương tiện truyền thông đại chúng để người dân chủ động nắm bắt, hiểu rõ bản chất vấn đề, tuyệt đối không tin, nghe theo những luận điệu xuyên tạc của các đối tượng xấu.

Vụ việc nêu trên một lần nữa cho thấy các thế lực thù địch, phản động luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chính sách dân tộc ở Việt Nam.

Thực tế, nhiều năm qua, mỗi khi xảy ra vấn đề nào có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số thì các đối tượng này đều tìm cách triệt để lợi dụng với mục đích kích động mâu thuẫn, xung đột, làm căng thẳng tình hình, từ đó tìm cách mua chuộc, lôi kéo những người thiếu hiểu biết, bất mãn thực hiện các hành vi chống phá, gây rối theo sự điều hành, dẫn dắt của chúng. Bằng cách này chúng âm mưu tạo ra những mầm mống ly khai, chia rẽ nội bộ từ bên trong, gây bất ổn về chính trị, làm suy yếu chính quyền địa phương.

Thí dụ việc một số đồng bào dân tộc thiểu số do chưa nắm rõ thông tin nên chưa đồng tình với một vài chính sách ở các địa phương, đã được các đối tượng phản động lập tức xuyên tạc thành “chính quyền đàn áp người dân tộc thiểu số, vi phạm quyền tự do tôn giáo, nhân quyền của đồng bào du canh du cư”, nhằm kích động người dân bất hợp tác, chống đối cơ quan chức năng, hủy hoại tài sản của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn.

Bên cạnh đó các đối tượng chống phá thường xuyên khai thác sự chênh lệch về mức hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần giữa các vùng miền để khoét sâu những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, những nơi xảy ra thiên tai, dịch bệnh từ đó xuyên tạc rằng “Đảng, Nhà nước ta thiếu quan tâm”, “đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”...

Chưa kể, lợi dụng một số yếu kém, sai phạm trong công tác quản lý, điều hành ở một số địa phương, các đối tượng chống phá lập tức lu loa, biến thành vấn đề chính sách dân tộc của Việt Nam là thiếu bình đẳng, không công bằng. Mưu đồ sâu xa là từ việc gây ra những “đốm lửa nhỏ” như vậy các đối tượng chống phá hy vọng sẽ thổi bùng lên thành những “đám cháy” lớn để kích động lôi kéo, tập hợp lực lượng chống phá Đảng, Nhà nước, kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế nhằm “quốc tế hóa” các vấn đề nội bộ, từ đó lật đổ chế độ, cản trở sự phát triển của Việt Nam.

Cần khẳng định rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán về chủ trương, chính sách dân tộc, theo nguyên tắc đã được xác định trong Hiến pháp 2013 đó là: nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước (Điều 5).

Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước ta còn thường xuyên có những chủ trương, chính sách, văn bản chỉ đạo, định hướng đối với công tác dân tộc nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc đều bình đẳng, được tôn trọng như nhau, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Tiêu biểu có thể kể đến Nghị quyết số 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền núi.

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Đảng ta đã ban hành nghị quyết riêng về công tác dân tộc (Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 12/3/2003). Quốc hội đã ban hành các luật khung và luật chuyên ngành nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền cũng như chính sách hỗ trợ phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số. Thống kê sơ bộ cho thấy từ năm 2010 đến 2022 Chính phủ đã xây dựng, ban hành 118 văn bản chính sách; 54 đề án, chính sách dân tộc trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Trong đó có các nhóm chính sách: về giảm nghèo bền vững; giáo dục, đào tạo; y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số, miền núi và nhóm chính sách, cơ chế đặc thù về truyền thông và tuyên truyền vận động, phổ biến giáo dục pháp luật,...

Đáng chú ý, ngày 28/1/2022 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 10/NQ-CP về chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó tiếp tục nhấn mạnh quan điểm kiên trì và nhất quán thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân tộc. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển; phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào dân tộc trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, hướng tới mục tiêu vì một Việt Nam thịnh vượng.

Từ những chủ trương, chính sách đúng đắn, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao của Đảng, Nhà nước, những chính sách dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 30/10/2019 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới ghi nhận: công tác dân tộc có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước. Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp đã cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết phù hợp với điều kiện của địa phương, đơn vị.

Nhà nước đã ban hành chính sách, pháp luật, bố trí nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tăng cường vận động, tuyên truyền, động viên đồng bào dân tộc thiểu số tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, phát huy nội lực để phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao cuộc sống, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư, góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện rõ nét.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo và chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống được bảo tồn và phát huy. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản được bảo đảm; đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc, miền núi được tăng cường, đội ngũ cán bộ được kiện toàn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ. Quốc phòng, an ninh, chính trị được giữ vững, ổn định.

Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, Đảng ta khẳng định: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được triển khai mạnh mẽ, chuyển từ cách tiếp cận đơn chiều sang đa chiều, tập trung vào nhóm, hộ nghèo nhất.

Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, bình quân giai đoạn 2016-2020 giảm hơn 1,4%/năm. Kết cấu hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Trong suốt các chặng đường phát triển của đất nước, Đảng ta luôn đưa ra nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chú trọng chăm lo đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, động viên nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.

Tuy vậy trong quá trình thực hiện có lúc, có nơi vẫn còn một số hạn chế, bất cập, một vài chính sách dân tộc chưa thật sự phát huy hiệu quả, vẫn còn những mâu thuẫn, vướng mắc chưa được giải quyết dứt điểm. Từ đây đòi hỏi hệ thống chính quyền cơ sở, các cơ quan, ban, ngành liên quan tiếp tục nâng cao trách nhiệm, kịp thời khắc phục những yếu kém, khuyết điểm. Không phủ nhận những hạn chế, nhưng chúng ta cũng kiên quyết phản bác những luận điệu xuyên tạc thành tựu của Việt Nam đã đạt được trong thực hiện chính sách dân tộc.

Sự phát triển của đất nước về mọi mặt, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được cải thiện và nâng cao, niềm tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được củng cố... là minh chứng thuyết phục về sự đúng đắn trong những chủ trương chính sách của Đảng ta về công tác dân tộc, tạo nền tảng quan trọng để đất nước tiếp tục vững bước tiến về phía trước./.
Yêu nước ST.