Thứ Hai, 8 tháng 8, 2022

Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh chiến lược mới

 

Đối với Việt Nam, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế thừa từ truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên suốt, đó là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước và biến động của tình hình thế giới, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc liên tục được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội của Đảng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích quốc gia - dân tộc được coi trọng trong từng chủ trương, chính sách phát triển đất nước và hoạt động đối ngoại. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần đầu tiên nêu lên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã chỉ rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng định: 1- Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất; 2- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam là những lợi ích chính đáng, không phải là những lợi ích vị kỷ; 3- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; 4- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc nghĩa là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia - dân tộc là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại. Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.

Trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ gắn liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam trong nước và ở nước ngoài; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh mới của quốc gia - dân tộc hiện đại còn mở rộng thêm các lợi ích quốc gia - dân tộc, như: hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự do lưu thông hàng hóa, tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do khai thác tài nguyên phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng như các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích cực tham gia giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến tranh, ứng phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi truyền thống (an ninh biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tiền tệ, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc gia nào tự mình đủ sức gánh vác.

Tuy nhiên, trong điều kiện không gian sinh tồn ngày càng bị thu hẹp, việc mở rộng lợi ích quốc gia - dân tộc của nước này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích quốc gia - dân tộc của nước khác. Để giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột, lợi ích quốc gia - dân tộc phải phù hợp với luật pháp quốc tế, không quốc gia nào tự đặt ra lợi ích vượt ra ngoài quy định của luật pháp quốc tế mà đe dọa đến lợi ích của quốc gia khác và ảnh hưởng đến lợi ích của toàn nhân loại. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”; “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”, Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây dựng, định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi, với phương châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, nhất là trong quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ mới, củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đi đúng xu thế của thời đại, tranh thủ tốt các nguồn lực từ bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc để nâng cao vị thế và thực lực của đất nước, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi song cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao gồm: việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ở tầm khu vực và toàn cầu để thực hiện và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra những thay đổi khó đoán định của tình hình quốc tế, khu vực; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp, do sự chồng xếp, đan xen của ba tầng quan hệ (tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chiến lược biển, đảo giữa các nước láng giềng; cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung Quốc và can dự của các nước lớn khác; an toàn, tự do hàng hải và hàng không trong khu vực); hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng..., tác động không nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với đó là vấn đề an ninh mạng.

Bối cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, như: 1- Kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; 2- Tranh thủ cơ hội, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi ích của các nước lớn ở Việt Nam; nâng tầm đối ngoại đa phương, song phương; thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...

Hai là, luôn theo dõi, bám sát diễn biến tình hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực; nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, cũng như mục tiêu chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng, để kịp thời đề ra đường lối, chính sách phù hợp, chính xác, trong đó phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết, trên hết; bất luận hoàn cảnh nào cũng tránh để rơi vào thế kẹt giữa các bên, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nhất là khi thế giới đang phải đối diện với những thách thức khó lường và đại dịch COVID-19 đã làm cho những thách thức này càng trở nên phức tạp, nghiêm trọng hơn.

Bốn là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc gia, dân tộc khác. Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng, đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Nhưng do mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân tộc, vấn đề quan trọng đặt ra là cần tìm thấy “điểm tương đồng”. Ở đây, điểm tương đồng chính là sự tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế mà toàn thể nhân loại đã và đang nỗ lực gìn giữ nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Do vậy, kể từ khi ra đời năm 1945, Chính phủ Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, và điều này cũng chính là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đồng thời bảo đảm hài hòa với lợi ích của các đối tác, lợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế.

Năm là, tiếp tục tạo dựng và phát triển hình ảnh Việt Nam là một quốc gia “có trách nhiệm”, “đối tác tin cậy”. Đây là mục tiêu vừa mang tính đối nội, vừa mang tính đối ngoại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một quốc gia được cho là phát triển và giàu mạnh luôn là quốc gia sở hữu những thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Để hội nhập thành công cũng như tận dụng được các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại, nhất là khi tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa - dịch vụ, từ đó nâng cao giá trị các thương hiệu cũng như hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Sáu là, bảo đảm an ninh và phát triển cho người dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Quốc gia - dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển kinh tế. Lợi ích của cộng đồng dân tộc cũng bao hàm lợi ích của mỗi cá nhân con người, an ninh quốc gia cũng không thể tách rời an ninh con người. Các hoạt động đối ngoại, xét cho cùng, là nhằm mang lại quyền lợi cho người dân, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội phát triển toàn diện. Nhìn rộng ra trong khu vực, mục tiêu này phù hợp với bối cảnh các nước ASEAN đang nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân và “lấy người dân làm trung tâm”.

Bảy là, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, củng cố và phát triển lý luận, thông tin tuyên truyền, nhất là thông tin đối ngoại trong tình hình mới đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; tận dụng hiệu quả sức mạnh của công nghệ thông tin và truyền thông nhằm xúc tiến liên tục, bền bỉ các chương trình truyền thông về văn hóa, đất nước, con người Việt Nam; về chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại..., giúp nâng cao hình ảnh và tranh thủ sự ủng hộ của các nước, nhân dân trên thế giới đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền cũng như xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.

Tóm lại, trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là phương châm và động lực phát triển. Những thành tựu của đất nước ngày nay là minh chứng rõ nét cho thấy quan điểm đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt; là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục phát huy vị thế, lựa chọn những kế sách phù hợp trong bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.

HAIVAN

Những yếu tố tác động đến nhận thức và quá trình thực thi, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong quan hệ quốc tế

 

Một là, việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là cái gốc chi phối mọi quyết định của mỗi quốc gia trong những vấn đề đối nội, vừa chi phối cách hành xử của quốc gia đó trên trường quốc tế. Chính vì vậy, đối với các nước, trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc trong các trường hợp cụ thể là vấn đề không đơn giản, bắt nguồn từ các yếu tố: 1- Sự khác nhau về lợi ích của các chủ thể tham gia quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại; 2- Sự khác nhau về nhận thức của các chủ thể tham gia quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại; 3- Các quy định, cách tiếp cận của các cơ quan tham gia hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại không đồng nhất dẫn đến cách hiểu, diễn giải và quyết định khác nhau. Những yếu tố này khiến quá trình xác định và thực hiện bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong hoạt động đối ngoại trở nên phức tạp, nhất là khi có sự vận động, tác động của các nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích có thể dùng các kênh và phương thức khác nhau để tác động, điều chỉnh hoặc cung cấp thông tin đối với từng vấn đề trong quá trình xây dựng và thực hiện bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc theo hướng mang lại lợi ích cho họ. Do đó, giới phân tích cho rằng, việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc nhấn mạnh tới vai trò của các chủ thể bên trong một nước với những dạng thức lợi ích khác nhau và thể chế chính trị của nước đó với những đặc thù, luật pháp quốc tế chi phối.

Hai là, mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích quốc tế. Theo học giả người Mỹ Thô-mát Rô-bin-xơn (Thomas W. Robinson), bên cạnh lợi ích quốc gia - dân tộc còn có các lợi ích quốc tế (lợi ích song trùng, lợi ích bổ sung, lợi ích xung đột). Lợi ích quốc tế có thể bao gồm lợi ích chung của tất cả các quốc gia (lợi ích quốc tế toàn cầu) hoặc chỉ một số quốc gia nhất định (lợi ích quốc tế tập thể). Năm 1950, Liên Xô coi lợi ích quốc tế giới hạn trong phạm vi là lợi ích chung của khối xã hội chủ nghĩa. Mỹ coi lợi ích quốc tế bao gồm lợi ích chung của các nước tư bản phương Tây. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn Chiến tranh lạnh, cả Liên Xô và Mỹ đều theo đuổi bảo vệ lợi ích tập thể hơn lợi ích quốc tế toàn cầu. Chiến tranh lạnh kết thúc, sự đối đầu quân sự giữa hai khối Đông - Tây chấm dứt. Ngày nay, tầm quan trọng của lợi ích quốc tế càng được nâng cao và thể hiện rõ nét trong những thách thức đa dạng mà thế giới nói chung đang phải đối mặt, như các quan hệ về kinh tế, thương mại, phát triển công nghệ, bảo vệ môi trường, kiểm soát dân số, thiên tai, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, vi phạm quyền con người, khủng hoảng di cư... Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc diễn ra ngày càng quyết liệt, các quốc gia vừa và nhỏ đều nhận thấy lợi ích quốc gia - dân tộc chỉ có thể được bảo đảm khi lợi ích chung của cộng đồng quốc tế được bảo đảm dựa trên luật lệ quốc tế. Bên cạnh đó, phải nhìn nhận rõ hơn về tầm quan trọng của lợi ích quốc tế, bởi khi các quốc gia có những lợi ích chung mới có thể cùng nhau hợp tác, xử lý và giải quyết những vấn đề xung đột lợi ích.

Ba là, phương cách, biện pháp tạo dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia để tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, có nhiều phương cách tạo dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia, tuy nhiên việc lựa chọn phương cách nào được cho là phụ thuộc nhiều vào bối cảnh cụ thể và chủ thuyết chính trị của giới hoạch định chiến lược, cũng như quyết định chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia. Ngày nay, “sức mạnh mềm” ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng trong chiến lược của các quốc gia. Cách tiếp cận và biện pháp triển khai sức mạnh mềm hợp lý, đúng đối tượng, đúng thời điểm sẽ góp phần gia tăng sức nặng và tầm ảnh hưởng của các quốc gia trên “bàn cờ” chính trị quốc tế, cũng như tạo ra sức lôi cuốn và đồng thuận xã hội trong chính nội bộ quốc gia. Hầu hết các quốc gia đều nhận thấy, việc sử dụng và lạm dụng “sức mạnh cứng” để giải quyết mâu thuẫn nhằm đạt được mục tiêu nhiều khi không phát huy được tác dụng, thậm chí còn thất bại, dễ vấp phải sự phản ứng của cộng đồng quốc tế và đứng trước rủi ro bị cô lập, làm suy giảm vị thế, uy tín, hình ảnh của quốc gia trong quan hệ quốc tế.

HAIVAN

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc


Lợi ích quốc gia - dân tộc là một phạm trù được đề cập rộng rãi trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của các quốc gia trên thế giới. Các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế đã đưa ra khá nhiều quan niệm khác nhau về lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, hầu như các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng, lợi ích quốc gia - dân tộc là giá trị của một chủ thể có trách nhiệm tự xác định lợi ích của quốc gia, dân tộc mình. Vì vậy, có thể nói, đây là một khái niệm có tính khái quát hóa cao, bao gồm những nhu cầu sống còn của quốc gia đó; đó là tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quân sự và thịnh vượng về kinh tế. Tháng 3-1848, Thủ tướng Anh Hen-ry Pan-mơ-xtơn (Henry Palmerston) từng có một phát biểu kinh điển về lợi ích quốc gia tại Hạ viện Anh: “Không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn và nhiệm vụ của chúng ta là theo đuổi những lợi ích đó”.

Ở Việt Nam, một số chuyên gia cho rằng, khái niệm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc mặc dù có những điểm khác nhau, song được xem là có chung nội hàm và có thể sử dụng thay thế lẫn nhau. Lợi ích quốc gia là lợi ích chung của cộng đồng những người sống trên một đất nước, có chung nguồn gốc, lịch sử, phong tục, tập quán và phần nhiều còn chung cả tiếng nói, chữ viết. Lợi ích quốc gia thiên về đại diện của giai cấp cầm quyền. Trong khi đó, lợi ích dân tộc bao hàm tất cả những gì tạo thành điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với tư cách quốc gia - dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn; cho sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia - dân tộc theo hướng làm cho đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc gia trên trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc. Lợi ích dân tộc là lợi ích của tất cả mọi người dân của một nước. Do những điều kiện đặc thù nên khái niệm lợi ích quốc gia - dân tộc ở Việt Nam có hướng tổng hợp cả hai khái niệm trên. Vì vậy, có thể xem lợi ích quốc gia - dân tộc là toàn bộ những nhu cầu sống còn, trường tồn và phát triển của một quốc gia đã được nhận thức và biến thành mục tiêu của chính sách đối ngoại trong quan hệ với thế giới còn lại ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, là công cụ hết sức quan trọng trong phân tích chính sách đối ngoại.

Việc xác định đúng và phù hợp mức độ, thứ tự ưu tiên lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng. Trên thế giới, các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng, việc sắp xếp mức độ ưu tiên trong các lợi ích quốc gia - dân tộc phụ thuộc rất lớn vào việc quyết định xem loại lợi ích nào quan trọng hơn, có tác động mạnh mẽ hơn tới sự tồn vong và phát triển của quốc gia đó. Một số quốc gia xác định lợi ích theo từng lĩnh vực (chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa...), thời gian đạt được lợi ích (vĩnh cửu, biến đổi); một số quốc gia khác xác định lợi ích theo tiêu chí tầm quan trọng (sống còn, cốt lõi, quan trọng, thứ yếu) hay phạm vi lợi ích (chung, bộ phận, cá nhân). Những nội hàm này cho phép các quốc gia có cơ sở để xác định những vấn đề nào là ưu tiên, cốt lõi phải bảo vệ, vấn đề nào có thể thỏa hiệp. Việc sắp xếp thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích cũng góp phần phác họa bức tranh chung về lợi ích quốc gia - dân tộc của các quốc gia để từ đó đưa ra những giải pháp, cách thức chính xác nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia khi thực hiện một chính sách hay một chiến lược nào đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt cần có sự bảo vệ “quyết liệt” những lợi ích đó tại thời điểm được cho là mang tính “sống còn”. Đơn cử như, Trung Quốc xác định lợi ích cốt lõi trong Sách Trắng về “Phát triển hòa bình của Trung Quốc” (năm 2011), bao gồm chủ quyền quốc gia, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chế độ chính trị quốc gia mà Hiến pháp Trung Quốc xác lập và cục diện xã hội ổn định, sự bảo đảm cơ bản của kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Trong “Chiến lược An ninh quốc gia” (năm 2017), Mỹ xác định “nước Mỹ trên hết” với “bốn lợi ích quốc gia tối quan trọng”, đó là bảo vệ người dân Mỹ, nước Mỹ và lối sống Mỹ; thúc đẩy sự thịnh vượng của nước Mỹ; bảo vệ hòa bình thông qua sức mạnh; gia tăng ảnh hưởng của Mỹ. Trong tài liệu “Các nguyên tắc cơ bản về chính sách Nhà nước Liên bang Nga đối với Bắc Cực đến năm 2035”, Nga đưa ra sáu lợi ích quốc gia - dân tộc của Nga, trong đó nhấn mạnh “bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” là mục tiêu cao nhất. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để có thể tạo không gian mở, linh hoạt trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, không phải quốc gia nào cũng công khai các nội hàm lợi ích cụ thể.

Nhìn chung, lợi ích quốc gia - dân tộc được xem là “hòn đá tảng” hay “kim chỉ nam” của chính sách đối ngoại. Nội hàm của lợi ích quốc gia - dân tộc đôi khi cũng bao gồm cả những công cụ được lựa chọn để thực hiện mục tiêu chiến lược và ngoại giao chính là một trong những công cụ quan trọng giúp hiện thực hóa mục tiêu này. Để có thể thoát khỏi những “cạm bẫy” trong quá trình xác định và tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, bất kể lớn hay nhỏ, khi thực tế đã và đang cho thấy, thành công rất nhiều nhưng thất bại cũng không phải không có.

HAIVAN    

Ngoại giao đa phương của Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

 

Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được một số kết quả quan trọng về đối ngoại. Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu rộng trên nhiều cấp độ từ khu vực đến toàn cầu, đa dạng về hình thức, với việc tham gia chủ động tích cực ở các tổ chức, diễn đàn, hội nghị đa phương quốc tế, đặc biệt là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc và Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương thế hệ mới, nổi bật là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (VN - EAEU FTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu”.

Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã đưa ra quan điểm phát triển đất nước nói chung, quan điểm đối ngoại nói riêng, đó là: 1- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; 2- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; 3- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất. Mặc dù quan điểm về ngoại giao đa phương chưa được Đảng ta đưa vào văn kiện một cách chính thức và độc lập, nhưng những quan điểm trên được xem là tiền đề cơ bản (nguyên tắc, phương châm) cho chính sách và hành vi (hoạt động) về ngoại giao đa phương.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định mục tiêu đối ngoại: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”; tuy nhiên, Đảng ta vẫn chưa đề cập đến ngoại giao đa phương, chỉ hàm ý trong cụm từ “đa phương hóa, đa dạng hóa”. Đảng ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể...; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng đoàn kết... Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 10 năm được thông qua tại Đại hội XIII của Đảng, mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm mặc dù không đề cập đến đối ngoại đa phương mà chỉ đề cập đến công tác đối ngoại nói chung: “Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế”, song, trong phần phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, Đảng ta lại đề cập một cách cụ thể, đó là: “Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”. Đặc biệt trong phương hướng đối ngoại, Đảng ta tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm đã nêu trong Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, về “Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”, đó là: Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt chẽ với đối ngoại song phương, thực hiện tốt các trọng trách quốc tế, nhất là trong ASEAN, Liên hợp quốc và các khuôn khổ hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương.

Nhìn chung, Việt Nam đã xác định ngoại giao đa phương là một nội dung quan trọng trong quan điểm về đối ngoại với việc sử dụng nhiều lần cụm từ “nâng tầm đối ngoại đa phương” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Thêm vào đó, quan điểm về ngoại giao đa phương được xác định khá cụ thể, như: đối tác trọng tâm là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công...; lĩnh vực được ưu tiên là kinh tế, quốc phòng, an ninh...; quan điểm về thái độ tham gia ngoại giao đa phương là chủ động, tích cực. Trong thời gian tới, ngoại giao đa phương của Việt Nam được Đảng ta xác định: “Tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”. Theo đó, Việt Nam sẽ tích cực, chủ động tham gia đóng góp, định hình “luật chơi” trong các hoạt động ngoại giao đa phương.

Đặc biệt, Việt Nam đã thể hiện sự nâng tầm về tư duy, quan điểm về ngoại giao đa phương khi khẳng định: “Tiếp tục đổi mới hợp tác quốc tế về pháp luật theo hướng chủ động, tích cực, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, nhằm tạo ra sự thay đổi về chất trong công tác hợp tác quốc tế về pháp luật”. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam chủ trương tham gia ngoại giao đa phương trên cơ sở phối hợp ba hành vi: người thực hiện “luật chơi”, người tận dụng và người tham gia tạo dựng “luật chơi” (rule taker, rule manipulator và rule shaper). Việt Nam kỳ vọng chủ động thực hiện ngoại giao đa phương theo hướng góp phần hình thành các nguyên tắc, “luật chơi” trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, mức độ hành vi còn tùy thuộc vào mô thức ngoại giao đa phương mà Việt Nam tham gia.

Từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, tình hình dịch bệnh COVID-19 có nhiều diễn biến khó lường, các hoạt động ngoại giao đa phương của Việt Nam vẫn diễn ra linh hoạt, năng động và là minh chứng cho một Việt Nam đang tích cực, chủ động tham gia định hình “luật chơi” và nguyên tắc của thể chế đa phương. Việt Nam vẫn đảm nhiệm tốt vai trò, vị trí của mình trong các “sân chơi” đa phương khu vực và thế giới. Cụ thể, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, với việc tham gia hàng trăm cuộc họp và bỏ phiếu các nghị quyết, đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng về các vấn đề liên quan đến thượng tôn pháp luật trong bảo vệ hòa bình và an ninh thế giới; thúc đẩy bảo vệ người dân, nhất là phụ nữ và trẻ em; ứng phó với những thách thức an ninh phi truyền thống (biến đổi khí hậu, nước biển dâng...); thúc đẩy hợp tác chặt chẽ hơn và nâng cao vai trò của các tổ chức, khu vực và tiểu khu vực, hợp tác giữa các tổ chức, khu vực và tiểu khu vực với Liên hợp quốc trong bảo vệ hòa bình và an ninh ở các khu vực và quốc tế. Đặc biệt, tháng 12-2021, Việt Nam đã tổ chức thành công Phiên họp theo thể thức Arria đầu tiên về vấn đề trẻ em không có sự chăm sóc của cha mẹ trong xung đột. Trên cương vị Chủ tịch luân phiên của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong tháng 4-2021, Việt Nam đã tổ chức, chủ trì, điều hành khoảng 30 cuộc họp theo phương châm tích cực, chủ động, có trách nhiệm, vừa bảo đảm sự khách quan, minh bạch, vừa linh hoạt, xử lý hài hòa, cân bằng mối quan tâm của các nước đối với các vấn đề được thảo luận và thúc đẩy hợp tác, đồng thuận tại Hội đồng Bảo an; thúc đẩy thông qua Tuyên bố Chủ tịch của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong đó nhấn mạnh nhu cầu tăng cường hợp tác quốc tế để chung tay giải quyết những hệ lụy của bom mìn sau chiến tranh đối với an toàn và sinh kế bền vững của người dân, cộng đồng.

Việc tham gia tích cực, chủ động các hoạt động của ASEAN trong năm 2021 đã và đang khẳng định vai trò dẫn dắt, định hình “luật chơi” của Việt Nam tại diễn đàn đa phương lớn nhất của khu vực này. Việt Nam tham gia chuỗi các hội nghị cấp cao và quan trọng của ASEAN, như Hội nghị cấp cao ASEAN, Hội nghị cấp cao ASEAN với các đối tác, Hội nghị cấp cao Mê Kông - Hàn Quốc lần thứ ba, theo hình thức trực tiếp và trực tuyến... Cùng với đó, Việt Nam chủ động tham gia, tích cực phối hợp một cách có trách nhiệm với nước Chủ tịch Bru-nây thúc đẩy các ưu tiên của năm 2021, nhất là chủ động và hiện thực hóa các chương trình kế hoạch theo sáng kiến của Việt Nam từ năm 2020, như: Quỹ ASEAN về ứng phó dịch bệnh COVID-19, Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp ASEAN, Khung phục hồi tổng thể ASEAN và Khung thỏa thuận hành lang đi lại ASEAN (ATCAF)...

Tham gia ngoại giao đa phương trong khuôn khổ APEC cũng là một hoạt động đáng chú ý trong năm 2021 của Việt Nam. Bên cạnh việc Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tham dự và phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 28 (tháng 11-2021) được tổ chức tại Niu Di-lân, Việt Nam cũng tham gia nhiều sự kiện và hoạt động quan trọng của tuần lễ APEC, như Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 28 (APEC 28), phiên Đối thoại giữa lãnh đạo các nền kinh tế APEC với Hội đồng Tư vấn kinh doanh APEC (ABAC), Hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp APEC. Đồng thời, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Công Thương của Việt Nam cũng tham dự các phiên họp Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế của APEC. Đặc biệt, tại APEC 28, Việt Nam đã đề xuất một số ý kiến được các nền kinh tế thành viên ghi nhận, bao gồm: chia sẻ và tiếp cận công bằng vắc-xin phòng ngừa dịch bệnh COVID-19, vật tư y tế và nguồn lực, đề nghị APEC có tầm nhìn, cách tiếp cận mới trong việc phục hồi kinh tế, như thúc đẩy nền kinh tế số, thúc đẩy thương mại điện tử, thúc đẩy tự do thương mại, dỡ bỏ các rào cản thương mại để khôi phục sản xuất, kinh doanh, tránh bị đứt gãy các chuỗi sản xuất, đề nghị các nền kinh tế thành viên hỗ trợ, quan tâm các đối tượng yếu thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những biện pháp, đề xuất về thúc đẩy tăng trưởng xanh, tăng trưởng bao trùm... Tất cả các sáng kiến, đề xuất của Việt Nam đã được ghi nhận đầy đủ vào các văn kiện của APEC, trong đó có Tuyên bố cấp cao APEC, Tuyên bố cấp Bộ trưởng APEC cũng như Kế hoạch hành động triển khai Tầm nhìn APEC đến năm 2040; qua đó, thể hiện sự đóng góp hết sức trách nhiệm, tích cực, chủ động của Việt Nam, là thành viên chủ động, đi đầu trong APEC về xây dựng, củng cố đoàn kết trong APEC để tiếp tục tăng cường hợp tác vì một khu vực châu Á - Thái Bình Dương hòa bình và ổn định”.

Mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, thách thức nhưng với những hoạt động sôi động và hiệu quả của hoạt động ngoại giao nói chung và ngoại giao đa phương nói riêng, Việt Nam đã khẳng định vị thế của một quốc gia đang trên đà phát triển. Với vị thế và thực lực cũng như định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đẩy mạnh và nâng tầm ngoại giao đa phương trên thực tế sẽ là đường lối quan trọng để Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược của đất nước.

 HAIVAN

Ngoại giao đa phương

 

Ngoại giao đa phương là một hình thức hoạt động ngoại giao, trong đó có sự tham gia của ba chủ thể trở lên trong quan hệ quốc tế (chủ yếu là quốc gia - dân tộc) vào quá trình đàm phán, thương lượng, ra quyết sách trong cùng một thời điểm và đáp ứng nhiều đòi hỏi khác nhau trước một vấn đề cụ thể. Các mô thức ngoại giao đa phương chủ yếu và mang tính phổ quát hiện nay là tổ chức quốc tế (với các tính chất khác nhau từ những tổ chức mang tính cộng đồng chung, liên minh đến những tổ chức mang tính hợp tác với những cam kết đơn giản; ở các cấp độ khác nhau, như khu vực, liên khu vực, toàn cầu; với các lĩnh vực đa dạng: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...); các diễn đàn, hiệp hội (tính chất và quy mô đa dạng nhưng ràng buộc lỏng lẻo hơn); các phong trào, các hội nghị, cuộc họp, hội thảo... (quy mô đa dạng, ít ràng buộc nhằm giải quyết một hoặc một vài vấn đề, mang tính ngẫu hứng hoặc thường niên).

Trong ngoại giao đa phương, lợi ích luôn là yếu tố quy định hành vi của chủ thể. Với mỗi thời điểm khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, các quốc gia có lợi ích khác nhau, dẫn tới hình thành động cơ thúc đẩy sự tham gia của các chủ thể, thời điểm sử dụng mô thức ngoại giao đa phương khác nhau trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, chủ thể quan hệ quốc tế (cơ bản nhất là quốc gia - dân tộc độc lập có chủ quyền) tham gia ngoại giao đa phương khá sôi động, cho thấy ngoại giao đa phương đang đáp ứng được những lợi ích của các chủ thể. Một điểm đáng chú ý trong ngoại giao đa phương là tương quan lực lượng và thực lực quốc gia. Đây là nền tảng quan trọng của trật tự thế giới và là cơ sở để định hình “sân chơi” và nguyên tắc ứng xử (“luật chơi”) trong quan hệ quốc tế nói chung và ngoại giao đa phương nói riêng; đóng vai trò không nhỏ trong việc quyết định hành vi và tầm ảnh hưởng trong quá trình đàm phán. Thêm vào đó, thực lực quốc gia - nhân tố được coi là cơ sở của việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại - cũng quyết định hành vi của quốc gia trong ngoại giao đa phương. Vì vậy, các nước lớn có hành vi theo hướng chi phối và “bao cấp” cho thể chế đa phương, còn các nước nhỏ thì hành động theo hướng chấp nhận, tuân thủ và “ăn theo”.

Bên cạnh đó, hành vi của quốc gia cũng phụ thuộc vào mức độ thể chế hóa của các tổ chức đa phương. Tổ chức đa phương có mức độ thể chế hóa cao sẽ có khả năng cao hơn trong việc buộc các nước phải tuân thủ luật lệ và ngược lại, mức độ thể chế hóa thấp sẽ làm xu hướng không tuân thủ luật lệ xảy ra cao hơn.

“Luật chơi” (nguyên tắc, quy định) của các thể chế đa phương quốc tế cũng thúc đẩy hoặc tác động đến hành vi của các quốc gia. Các mô thức ngoại giao đa phương khác nhau sẽ có “luật chơi” khác nhau. Nhưng điểm chung của các mô thức ngoại giao đa phương là sản phẩm hay kết quả chính là các thỏa thuận quốc tế đa phương. Các thỏa thuận này là “luật chơi” ràng buộc hành vi tiếp theo của chủ thể trong ngoại giao đa phương. Vì vậy, trong quá trình hình thành “luật chơi”, quốc gia nào được tham gia đàm phán và đưa ra ý tưởng được chấp nhận và ghi nhận ý tưởng trong sản phẩm cuối cùng của ngoại giao đa phương, quốc gia đó sẽ khẳng định được lợi ích và vị thế của mình trong “sân chơi” đa phương này. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để quốc gia thuận lợi hóa môi trường cho hành vi tương lai. Song, do chủ quyền của quốc gia, sự chưa hoàn thiện của thể chế và khả năng đáp ứng nhu cầu của các bên trong các thỏa thuận quốc tế đa phương nên “luật chơi” của các thể chế đa phương chỉ ràng buộc một phần hành vi của quốc gia, bởi khi cần thiết chủ thể (quốc gia) sẽ viện dẫn lý do chủ quyền và lợi ích quốc gia để có thể bỏ qua những “luật chơi” này.

Trên thực tế, hành vi của các chủ thể khá đa dạng. Song, tựu chung chủ thể tham gia ngoại giao đa phương theo ba dạng hành vi cơ bản sau: 1- Các chủ thể thành viên phải chấp nhận và tuân thủ theo “luật chơi” chung (rule taker); 2- Vận dụng “luật chơi” hoặc kẽ hở luật pháp để tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc mình (rule manipulator); 3- Thay đổi, điều chỉnh hoặc xây dựng “luật chơi” mới để thích ứng với vị thế và thực lực mới (rule maker hoặc shaper). Các chủ thể có thể thay đổi hành vi của mình tùy theo lợi ích, tương quan lực lượng, “luật chơi” và “sân chơi” đa phương trong những thời điểm và vấn đề khác nhau. Ngoài ra, một chủ thể trong một thời điểm có thể có một hoặc hai, thậm chí có đủ cả ba hành vi ở những hoạt động ngoại giao đa phương khác nhau.

Trong thế kỷ XXI, quan điểm và hoạt động ngoại giao đa phương của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phong phú, rõ nét và mang tính đặc thù. Chẳng hạn, Mỹ theo đuổi chủ nghĩa đa phương có lựa chọn và chủ nghĩa đa phương hiệu quả với quan điểm xây dựng một hệ thống đa phương do Mỹ và các nước phương Tây dẫn dắt để có thể gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác. Ngoại giao đa phương của Mỹ tồn tại cùng ngoại giao song phương và mang tính thực dụng. Mỹ lựa chọn phát triển hay cầm chừng hoặc từ bỏ hoạt động ngoại giao đa phương theo sự tính toán về lợi ích của họ với các thời điểm khác nhau. Điều này thể hiện rõ trong hành vi ngoại giao đa phương của Mỹ trên thực tế có xu hướng áp đặt “luật chơi” để bảo đảm lợi ích quốc gia, song Mỹ cũng sẵn sàng rời bỏ tổ chức đa phương cũ, khởi xướng thể chế đa phương mới cũng vì lợi ích quốc gia.

Nga luôn chủ trương gắn bó sâu sắc với các nguyên tắc của chủ nghĩa đa phương. Nga chú trọng các cơ chế đa phương như một dạng tập hợp lực lượng để nhằm phục hưng đất nước và ngăn chặn ảnh hưởng của phương Tây. Ngoại giao đa phương của Nga phân tán về chiều rộng từ cấp độ toàn cầu, khu vực tới tiểu khu vực, mang tính lựa chọn với các quan điểm: 1- “Lãnh đạo tập thể của những quốc gia hàng đầu” cùng có trách nhiệm giải quyết các vấn đề toàn cầu, khác với quan điểm lãnh đạo của một siêu cường; 2- Trong ngoại giao đa phương, chính sách đa phương cần được đàm phán giữa các bên liên quan và Nga không chấp nhận một quyết định nào mà chưa được thông qua (chẳng hạn những quyết định của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương hoặc Liên minh châu Âu mà Nga không tham gia sẽ không có giá trị); 3- Ngoại giao đa phương cần trở thành nền tảng, phản ánh sự phân chia quyền lực trong một thế giới đa cực đang nổi lên, bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin, mà Nga hết sức chú trọng.

Trung Quốc hiện đang thể hiện cách tiếp cận mạnh mẽ và phổ biến về ngoại giao đa phương, nhất là với các tiểu vùng, khu vực và các tổ chức lớn, đa dạng trong nhiều lĩnh vực. Trung Quốc bắt đầu khẳng định vị thế, sức mạnh và sự dẫn dắt của mình trong nhiều thể chế đa phương qua sự tham gia tích cực vào các cơ chế bằng các sáng kiến đa phương, sự đầu tư và đóng góp, thể hiện sự gánh vác trách nhiệm, tham gia quản trị toàn cầu, phát huy “sức mạnh mềm” của Trung Quốc. Trung Quốc đưa ra chủ thuyết về một thế giới hài hòa, trong đó vai trò của các tổ chức đa phương được đề cao - cùng hợp tác để cùng thịnh vượng, cần tôn trọng sự đa dạng về văn hóa và hệ thống chính trị, các quốc gia đang phát triển có nhiều quyền quyết định hơn. Trung Quốc tích cực triển khai các hoạt động đa phương, truyền bá những tư tưởng mới, đưa ra thông điệp mới về xây dựng một thế giới hài hòa, dân chủ, kiến tạo một trật tự kinh tế thế giới mới, đặc biệt Trung Quốc nêu quan điểm không tham gia liên minh.

HAIVAN

Đảng viên quân đội phấn đấu, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

 

Hiện nay, trước những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự chống phá của các thế lực thù địch, sự cám dỗ của lợi ích vật chất, cùng với sự buông lỏng trong quản lý, kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy các cấp và việc thiếu ý thức tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên, đã làm cho một bộ phận không nhỏ đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ các cương vị chủ chốt, là lãnh đạo, chỉ huy của các cơ quan, đơn vị, thậm chí có cả những đảng viên là cán bộ cấp cao, là tướng lĩnh có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, ích kỷ, chạy theo danh lợi cá nhân, cục bộ, lãng phí..., dẫn đến vi phạm phải xử lý kỷ luật. Bên cạnh đó, do tính chất đặc thù của yêu cầu nhiệm vụ, phải thường xuyên công tác xa gia đình, điều kiện sống, sinh hoạt gặp nhiều khó khăn, khắc nghiệt, gian khổ, thậm chí cả hy sinh tính mạng..., cho nên trong một bộ phận đảng viên quân đội dễ nảy sinh tâm lý so sánh thiệt hơn, ngại tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu, thậm chí dẫn đến những suy nghĩ lệch lạc, hành động tiêu cực.

Từ thực trạng trên, việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng để mỗi đảng viên trong quân đội thấy được niềm vinh dự, tự hào và nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với Tổ quốc, với Đảng và với nhân dân là nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp thiết. Để làm tốt công tác bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội, trước hết phải tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm, chủ trương của Đảng, của Thường vụ Quân ủy Trung ương, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng bộ Quân đội về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, Kết luận số 21 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII.

Bên cạnh đó, cần tập trung thực hiện có hiệu quả những giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức cho đội ngũ đảng viên trong quân đội về tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.

Để xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong quân đội, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, làm cho toàn thể đội ngũ đảng viên thấm nhuần những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và về đạo đức cách mạng; phải làm cho các chủ thể, các đối tượng và lực lượng tham gia xây dựng đội ngũ đảng viên nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò, bản chất của đạo đức cách mạng. Trên cơ sở đó, cấp ủy các cấp, cơ quan chính trị, đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong quân đội cần cụ thể hóa những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đề ra phương hướng, mục tiêu, nội dung, giải pháp để tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với đặc điểm, tình hình nhiệm vụ của từng đơn vị. Kết hợp tuyên truyền, giáo dục với tạo điều kiện cho đảng viên tự học, tự rèn, tự soi, tự sửa để hoàn thiện bản thân, đối chiếu với những chuẩn mực đạo đức của người đảng viên trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội sẽ góp phần nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng cộng sản, lòng trung thành đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng; rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tình yêu thương con người; gương mẫu trong công tác, lối sống, khiêm tốn giản dị, dân chủ, đoàn kết và kỷ luật, nói đi đôi với làm; thương yêu đồng chí, đồng đội, không quan liêu, độc đoán chuyên quyền, gia trưởng...; có trình độ chuyên môn và tác phong, phương pháp công tác tốt; luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc và của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.

Hai là, đề cao tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên; coi trọng việc tự giáo dục, tự rèn luyện.

Tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi đảng viên là biện pháp có ý nghĩa quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc tự giác hóa quá trình hình thành, phát triển đạo đức cách mạng. Tự giáo dục đạo đức cách mạng, một mặt, phải gắn liền với học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổ chức, quản lý; mặt khác, phải gắn liền giáo dục đạo đức với giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục pháp luật, kết hợp giữa nâng cao nhận thức về đạo đức cách mạng với rèn luyện đạo đức cách mạng thông qua hoạt động thực tiễn.

Do đó, để nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố quyết định trực tiếp chính là hình thành sự tự nỗ lực phấn đấu, rèn luyện của từng đảng viên trong thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, trong công tác và trong sinh hoạt đời thường. Thực tiễn cho thấy, đơn vị nào đề cao vai trò tiền phong gương mẫu, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thì ở đó chất lượng tư tưởng chính trị của người đảng viên được giữ vững, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh và đơn vị vững mạnh toàn diện.

Ba là, chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặc thù của từng đơn vị.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, nhất là trong bối cảnh các thế lực thù địch đẩy mạnh kết hợp thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hóa” với việc “răn đe quân sự” thông qua các cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn, liên tục, bền bỉ của các tổ chức đảng, đảng viên trong quân đội; trong đó, việc bồi dưỡng lập trường chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Song, để mỗi đảng viên giữ vững lòng trung thành, củng cố niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, thì phải chú trọng trang bị cho họ những tri thức chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, kỹ năng quân sự, chuyên môn cần thiết, phù hợp với đặc thù của từng đơn vị.

Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, tăng cường kỷ luật, xây dựng môi trường dân chủ lành mạnh trong đơn vị.

Các cấp ủy trong quân đội cần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; trong đó, tự phê bình và phê bình phải trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên với tinh thần nghiêm túc, thẳng thắn và đi đôi với thực hiện dân chủ rộng rãi; giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chính trị các cấp trong việc xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ là yêu cầu cấp thiết. Đồng thời, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và của nhân dân trong quản lý, giáo dục, kiểm tra, giám sát, phê bình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, qua đó, giúp đội ngũ này được rèn luyện về quan điểm, lập trường tư tưởng, tác phong, lối sống và đạo đức cách mạng.

Năm là, kết hợp giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

“Xây” đi đôi với “chống” là nguyên tắc trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách của người cán bộ, đảng viên nói chung và đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên quân đội nói riêng, nhằm đạt được kết quả cao nhất.

Thực tiễn cho thấy, đội ngũ đảng viên quân đội được Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho nhiều cương vị, chức trách khác nhau; trong đó, nhiều đồng chí được giao quản lý khối lượng cơ sở vật chất, tài sản… có giá trị kinh tế cao, nên nếu không nghiêm khắc với bản thân, cũng như thiếu chế độ kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt sẽ dễ nảy sinh tư tưởng, hành vi tham nhũng, lãng phí. Trên thực tế, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, chưa nêu cao đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không dám đấu tranh với những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực trong đơn vị và trong xã hội; thậm chí, còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân... Thực trạng này đòi hỏi công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên quân đội trên thực tế cần phải kết hợp chặt chẽ với đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí và ngăn ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Kiên định mục tiêu lý tưởng, giữ vững lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân; luôn là lực lượng tiên phong trên mọi mặt trận, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vinh dự, trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, đội ngũ đảng viên luôn phải là lực lượng nòng cốt, gương mẫu, đi đầu, chịu trách nhiệm trước tiên và cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Do đó, việc bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ đảng viên quân đội là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, để đội ngũ này thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó.

HAIVAN

Yêu cầu, nhiệm vụ của đảng viên quân đội rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho đội ngũ đảng viên trong quân đội, trước hết là lý tưởng cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có giác ngộ sâu sắc lý tưởng đó, người đảng viên trong quân đội mới đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ nặng nề, dám hy sinh quyền lợi của bản thân và gia đình, đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên: “Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”. Đồng thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ đảng viên trong quân đội ở bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải nâng cao kiến thức toàn diện. Người căn dặn: “Phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị, quân sự. Phải học tập chính trị: Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”; và muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị, chức trách đảm nhiệm, đòi hỏi người đảng viên trong quân đội “Phải đoàn kết nội bộ, giữa cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết quân dân, đoàn kết với các nước anh em”.

Từ những nội dung trên, có thể thấy, để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, người đảng viên quân đội cần phải thấm nhuần, thực hiện nghiêm túc những yêu cầu, nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, nói đi đôi với làm.

Đây là hành động cơ bản nhất thể hiện uy tín và để rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người đảng viên. Tuy nhiên, đối với người đảng viên trong quân đội, hành động đó phải được biểu hiện ở mức độ cao hơn, phải “Triệt để thi hành mệnh lệnh cấp trên. Mệnh lệnh cấp trên đưa xuống thì phải tuyệt đối phục tùng và triệt để thi hành”. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, đội ngũ đảng viên trong quân đội phải nói ít làm nhiều, thân ái, đoàn kết đồng chí, đồng đội, phải là tấm gương trong rèn luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí. Người cũng dành mối quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của các tướng lĩnh trong quân đội. Người nhắc nhở: “Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng là phải: trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung”, đây vừa là mục tiêu để rèn luyện, tu dưỡng, vừa là phẩm chất đặc trưng nhất của người đảng viên là lãnh đạo trong quân đội.

Thứ hai, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Đây là yêu cầu cốt lõi trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của người cách mạng, bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Đảng viên giữ cương vị càng cao thì càng phải tích cực, liên tục học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Khi gặp việc thuận lợi không tự cao, tự đại, thỏa mãn dừng lại, khi gặp việc khổ, việc khó thì không chùn bước, nản chí; phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy, có những cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cấp cao, là tướng lĩnh, trong lúc gian khổ thì không sợ nguy hiểm, cực khổ, có công với cách mạng, song đến khi có quyền hạn trong tay thì nảy sinh kiêu ngạo, tự mãn, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, phải xử lý kỷ luật.

Thứ ba, “xây” đi đôi với “chống”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người đảng viên trong quân đội phải luôn rèn luyện, tu dưỡng lối sống trong sạch, lành mạnh; thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn gương mẫu trong việc giữ gìn vũ khí, trang bị, tài sản của quân đội; trong quan hệ với nhân dân, không được lấy dù là cái kim, sợi chỉ của nhân dân; mua bán với nhân dân phải công bằng, sòng phẳng; mượn cái gì của dân phải hỏi, dùng xong phải trả, làm hỏng, làm mất phải đền. Đồng thời, Người khẳng định phải kiên quyết chống lại những tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng. Theo đó, việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho đội ngũ đảng viên trong quân đội phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục những phẩm chất, tấm gương tốt để lan tỏa, nhân rộng, với xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm để ngăn chặn sự lây lan của chúng.

HAIVAN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người đảng viên quân đội


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vấn đề này được Người đề cập tới trong nhiều tác phẩm quan trọng như: Đường cách mệnh (năm 1927), Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Đời sống mới (năm 1947), Cần kiệm liêm chính (năm 1949), Đạo đức cách mạng (năm 1958), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (năm 1969) và bản Di chúc hoàn chỉnh lần cuối cùng (tháng 5-1969). Trong các tác phẩm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là “gốc của người cách mạng”. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên được biểu hiện cụ thể ở các nội dung, như trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Những nội dung của đạo đức cách mạng có mối quan hệ biện chứng với nhau, chỉ cần thiếu một nội dung thì người cán bộ, đảng viên không thể làm tròn nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Đối với đội ngũ đảng viên trong quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đạo đức cách mạng được biểu hiện cụ thể ở những điểm như sau:

Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân. Đây là biểu hiện cao nhất ý thức đạo đức của người đảng viên nói chung, đặc biệt với những đảng viên là cán bộ, sĩ quan, công nhân viên, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Đó còn là biểu hiện cao nhất của lòng trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, là cơ sở để định hướng nhận thức và hành động, tạo thành niềm tin vững chắc và sức mạnh to lớn để mỗi đảng viên luôn hoàn thành chức trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó. Người chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ” và “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc” lãnh đạo sự nghiệp cách mạng; đảng viên cũng là con, em của nhân dân và cũng chính “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”; do đó, đối với mỗi đảng viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trung với nước phải luôn gắn liền với trung với Đảng, hiếu với dân.

Đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội, gắn bó mật thiết với nhân dân. Đoàn kết, nhân ái luôn là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Ở thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống đó được hun đúc và phát triển lên một tầm cao mới, là cơ sở để tạo thành sức mạnh vô địch của dân tộc, giúp Quân đội nhân dân Việt Nam đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội, Người căn dặn: “...cần phải đoàn kết hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sĩ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa chiến sĩ và cán bộ, giữa quân và dân. Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi. Người còn căn dặn: “Người đội trưởng, người chính trị viên phải là người anh, người chị, người bạn của đội viên”, bởi trong quân đội, người đội trưởng, người chính trị viên là những người đảng viên trực tiếp, hằng ngày tiến hành công tác giáo dục, rèn luyện và quản lý bộ đội; vì thế, có tình cảm gắn bó đó mới lan tỏa tinh thần đoàn kết, xây dựng được sự tin tưởng, thương yêu của đồng chí, đồng đội, mới sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là một phẩm chất quan trọng, là nền tảng đạo đức của người quân nhân cách mạng nói chung, của người đảng viên trong quân đội nói riêng. Người chỉ rõ: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính của ta là đạo đức của người quân nhân cách mạng. Các chú phải thực hiện đạo đức đó”; đồng thời, phải “Tu sửa mình cho kỳ giữ được chí công vô tư, đối với việc phải sáng suốt, đối vật không tham lam, gắng làm kiểu mẫu, làm kiểu mẫu cho bộ đội, cho nhân dân”. Người luôn đặt niềm tin và yêu cầu đội ngũ đảng viên trong quân đội phải rèn luyện toàn diện các phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng: “Phải làm sao cho trong quân đội ta không có tham ô lãng phí”.

Tinh thần quốc tế trong sáng là một nội dung không thể thiếu của đạo đức cách mạng. Trong Thư gửi các đơn vị bộ đội ta có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng LàoNgười chỉ rõ “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Đồng thời, Người nhắc nhở mỗi cán bộ, chiến sĩ, trong đó có đội ngũ đảng viên trong quân đội, phải luôn biết ơn sự giúp đỡ to lớn của nhân dân, chính phủ và quân đội các nước anh em trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Thấm nhuần tư tưởng đó, nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ tình nguyện Việt Nam đã không quản ngại hy sinh, gian khổ, vượt qua mọi khó khăn, tham gia chiến đấu, công tác trên các chiến trường Lào và Campuchia, viết nên những trang sử sáng ngời về đạo đức cách mạng của người cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.

HAIVAN

Các thủ đoạn lợi dụng các phương tiện truyền thông xã hội để truyền bá tư tưởng phản động, chống Đảng và Nhà nước

 

          Hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, sự tiến bộ vượt trội của khoa học – công nghệ, các thế lực thù địch, phản động ở trong và ngoài nước triệt để tận dụng các thành tựu đó để hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta. Với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, mạng xã hội chúng thường xuyên viết bài, viết bình luận, phát tán ấn phẩm điện tử, tung tin đồn nhảm, tạo dư luận bất ổn về chính trị – xã hội; mạo danh để xuyên tạc, bôi nhọ cá nhân, tổ chức của Đảng và Nhà nước. Nhật ký điện tử (blog) và mạng xã hội trực tuyến (social network) là hai loại phương tiện truyền thông xã hội (TTXH) được chúng sử dụng nhiều nhất.

          Qua theo dõi và thống kê chưa đầy đủ, đến nay các tổ chức phản động bên ngoài đã lập ra hơn 400 trang web để truyền bá, phá hoại tư tưởng chống Việt Nam. Ngoài ra, còn có khoảng 380 báo, tạp chí và hơn 60 đài phát thanh tiếng Việt cùng nhiều hãng thông tấn, tổ chức tôn giáo ở nhiều quốc gia cũng lập trang web chống phá Việt Nam. Cùng với đó, phải kể đến hàng trăm trang web, blog do một số trí thức, văn nghệ sĩ và cácphần tử bất mãn trong nước lập nên lợi dụng danh nghĩa “phản biện xã hội” để xuyên tạc, kích động chống đối Đảng, Nhà nước. Hiện nay, tại Việt Nam có hơn 280 mạng xã hội trực tuyến (đã đăng ký và chưa đăng ký). Những trang web và blog loại này không chỉ gây phức tạp về vấn đề trật tự xã hội, chúng còn là “mảnh đất màu mỡ” cho các đối tượng xấu lợi dụng để tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước ta. Một số âm mưu, thủ đoạn mà chúng thường xuyên sử dụng như sau:

          Thứ nhất, chúng hậu thuẫn cho lực lượng phản động người Việt ở nước ngoài xây dựng các trang thông tin điện tử mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Các tổ chức nước ngoài đã hỗ trợ kỹ thuật cho các tổ chức phản động như “Việt Tân”, “Chân trời mới Media”, “Đài Á châu tự do”… dùng các phần mềm can thiệp trực tiếp vào mạng xã hội để thu thập các thông tin cá nhân, địa chỉ thư điện tử và tạo dựng các trang thông tin điện từ mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội ta.

          Đáng chú ý, các phần tử phản động, chống đối ở trong và ngoài nước xem đó như là “thời cơ của một cuộc cách mạng” để “chuyển hóa”, thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam, vì nội dung thông tin trên các trang mạng này cung cấp tương đối “nhanh, nhạy, chính xác” giống như các cơ quan báo chíchính thống, có uy tín của Việt Nam, làm cho người đọc lầm tưởng những trang thông tin đó là của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Sau khi đã thu hút được một số lượng người đọc nhất định, các đối tượng điều hành trang mạng mạo danh sẽ lồng ghép những thông tin sai lệch, bịa đặt và đưa ra những lời bình luận theo ý đồ của chúng, từ đó gây tâm lý hoài nghi, hoang mang, dao động trong các giới, dẫn đến mâu thuẫn nội bộ và “tự diễn biến”.

          Thứ hai, chúng tìm cách xây dựng một mạng truyền thông với nòng cốt là nhóm IDScũ (Viện Nghiên cứu Phát triển – Institutes of Development Studies – IDS) để đăng tải các bài viết hướng lái Việt Nam ngả theo Mỹ và bài xích Trung Quốc. Sự kiện xung đột vũ trang Nga – Ukraine đầu năm 2022 vừa qua trở thành “cơ hội”để thu hút một lực lượng báo chí truyền thông của người Việt Nam đưa tin độc lập, không bị chi phối, tác động hay kiểm duyệt của bất cứ tổ chức nào. Họ thống nhất, sau khi mạng truyền thông này đi vào hoạt động, trước mắt sẽ tung lên mạng các bài viết đề cập đến các nội dung chủ yếu như (1)Ca ngợi các giá trị tinh hoa của Mỹ đang thắng thế trên trường quốc tế; (2) Nâng cấp quan hệ Mỹ – Việt là giải pháp tất yếu, là vật cứu cánh cho dân tộc Việt Nam và nó cũng trùng hợp với giá trị tư tưởng của nước Mỹ; (3) Trung Quốc là xấu, ĐCS Trung Quốc là cái giả danh, không phải Cộng sản nữa mà đó là tập đoàn cai trị, bòn rút và thống trị, xây dựng quyền lực tập trung và đi đến xu hướng một tập đoàn phát xít, độc tài.

          Thứ ba, chúng tìm cách chi phối lĩnh vực truyền thông, lôi kéo chuyển hóa” đội ngũ phóng viên, báo chí và cổ vũ hậu thuẫn cho các bloggers bày tỏ quan điểm chống lại Đảng, Nhà nước. Mỹ sẽ tăng ngân sách cho các hoạt động truyền thông ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: Internet, truyền hình, phim ảnh, báo chí, đài phát thanh, các chương trình biểu diễn, văn hoá văn nghệ, hậu thuẫn cho các các tổ chức phản động, các tổ chức chính trị đối lập và bảo vệ những nhà “dân chủ”, “bất đồng chứng kiến” với ĐCS Việt Nam.

          Thứ tư, chúng tăng cường tạo dựng các tài khoản facebook, blog, trang web phản động để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Thời gian qua, một loạt các blog, trang web tự xưng danh đại diện cho cộng đồng chống tham nhũng, dân oan đấu tranh đòi quyền lợi xung quanh giải phóng mặt bằng, những người đòi tự do thông tin đã đồng loạt ra đời để đưa thông tin kích động, xuyên tạc về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Ngoài ra còn có các loại web, blog của một số nhân sĩ, trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, trong đó có cả một số người đang công tác (hoặc đã từng công tác) tại các cơ quan Nhà nước nhưng thường xuyên đăng tải, phát tán thông tin tốt xấu lẫn lộn, có nhiều tin bài không chính xác, thậm chí sai trái, phản động…Đáng chú ý là những trang web, blog này được các thế lực thù địch phản động thường xuyên lấy lại tin bài đăng tải, thậm chí “tài trợ để tạo dựng ngọn cờ, tạo dư luận, tập hợp lực lượng chống đối.

          Bên cạnh đó, các trang mạng xã hội trực tuyến, trong đó chủ yếu là Facebook, Youtube và Tiktok đang được các thế lực thù địch đẩy mạnh sử dụng để triển khai thực hiện “cách mạng màu trực tuyến” tại Việt Nam. Các phương tiện này có các tính năng ưu việt, nên đã được các thế lực thù địch tận dụng triệt để âm mưu phá hoại nền hòa bình, dân chủ ở Việt Nam.

          Thời gian tới, chúng sẽ tiếp tục gia tăng lợi dụng, sử dụng mạng TTXH để chống phá ta, bằng các cách thức, thủ đoạn, biện pháp khác như: tiếp tục gây sức ép với Việt Nam trong lĩnh vực tự do ngôn luận, tự do báo chí, do do Internet để hậu thuẫn cho các phần tử phản động, cơ hội, chống đối đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước; tìm mọi cách để trực tiếp thành lập thêm các trang mạng tại Việt Nam để phục vụ cho ý đồ của chúng, ngấm ngầm hỗ trợ lực lượng phản động người Việt trong và ngoài nước phát triển, triển khai và huấn luyện sử dụng các phương tiện TTXH.

          Để góp phần phát huy tối đa các mặt tích cực của TTXH, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của TTXH đối với sự ổn định tình hình an ninh – xã hội, Đảng, Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần có chủ trương, xây dựng và thực thể đồng bộ các chính sách liên quan đến TTXH. Trong đó đặc biệt chú trọng đến giải pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về TTXH, kết hợp với các giải pháp hành chính, kỹ thuật nhằm kiểm soát, ngăn ngừa những hệ lụy tiêu cực và đối phó với những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trong những tình huống khẩn cấp.

                                                                                      Đ.St                                                                     

“LỄ TƯỞNG NIỆM HOÀNG CƠ MINH…” VÀ CHIÊU TRÒ CỦA VIỆT TÂN

          Những ngày qua, trang Facebook "Việt Tân" đã đăng tải bài viết về việc mời tham gia cái gọi là "Lễ tưởng niệm Hoàng Cơ Minh..." và ngay phía dưới bài viết có rất nhiều các bình luận mang tính "trào phúng" kiểu "...Rồi tham dự có mắc donate để gây quỹ chống lại CS ko? Để biết còn chuẩn bị" hay "Nếu bên đó đói quá thì về Việt Nam bán vé số...".

          Vậy thực chất của việc tổ chức sự kiện này là gì? Và tại sao lại xuất hiện những bình luận như vậy của chính kiều bào ta ở nước ngoài phía dưới bài viết của Việt Tân?

          Để tìm hiểu về vấn đề này, chúng ta cùng quay lại cột mốc năm 2004, khi được tái tổ chức từ cái gọi là "Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam" do những tai tiếng về việc quyên tiền, gây quỹ cho "chiến dịch Đông Tiến", trong đó một số thành viên bị tòa án ở Mỹ truy tố về tội gian lận tài chính, đến nay, chưa năm nào Việt Tân không phát động gây quỹ để ủng hộ các phong trào "dân chủ", "canh tân cách mạng" trong nước.

          Lý do được Việt Tân đưa ra là để "hỗ trợ các nhà dân chủ trong nước, giúp người nghèo, xây trường học và yểm trợ Việt Tân quốc nội". Tuy nhiên, những khoản chi cho giới "dân chủ" hay những kẻ chống phá bị Nhà nước Việt Nam bỏ tù mà chúng gọi là "tù nhân lương tâm" chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Tuyệt nhiên không có chuyện xây trường học hay hỗ trợ người nghèo mà phần lớn là làm giàu cho những lãnh đạo chủ chốt của Việt Tân.

          Thesaigonpost - một trang tin dù cùng hội cùng thuyền trong "làng chống cộng" với Việt Tân qua bài viết "Việt Tân lại gây quỹ - mua tù nhơn lươn lẹo để cấy nhộng đỏ cho Việt cộng và ăn chặn mở rộng" đăng ngày 20/11/2021 cũng phải thốt lên rằng "Ăn cắp quen tay, lừa đảo quen tật, Việt Tân không thể nằm im vì ăn quen, nhịn không quen, chúng dựng lên trò bịp bợm… Sau đó, chúng đồng loạt đưa tin trên báo chí, mạng xã hội để dụ khị đồng bào rồi gợi ý mỗi người nên góp 70.000 hồ tệ, xấp xỉ 2,8 Franc Thụy Sĩ. Số tiền này chắc chắn bị tụi nó chia nhau…".

          Hay Nguyễn Thanh Tú, con trai nhà báo Đạm Phong - người người sáng lập tờ Tự do tại Houston, bang Texas đã bị ám sát tại nhà riêng với 7 phát đạn sau những bài viết chất vấn các hoạt động gây quỹ của "Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam" đã vạch trần thủ đoạn kiếm tiền của Trịnh Hội (một đảng viên cộm cán của Việt Tân) khi y còn làm việc cho "Dự án hỗ trợ pháp lý cho người Việt Nam tị nạn": "Họ gây quỹ ít nhất 300 ngàn USD, nhưng cũng giống hệt Việt Tân, tiền quyên góp cho "dự án" này không ghi danh với sở thuế, không nộp tiền vào ngân hàng. Có lẽ vì sự nhập nhèm này mà chính những thành viên của Việt Tân đã tố cáo lẫn nhau. Qua đó, người ta biết Trịnh Hội mới chỉ sang Mỹ từ năm 2002 và hoàn cảnh gia đình ở Việt Nam rất nghèo. Vậy mà chỉ trong 2 năm, từ 2005-2007, Trịnh Hội đã mua liên tiếp 3 căn nhà tại Mỹ."

          Đọc đến đây, hẳn nhiều người đã trả lời được câu hỏi Việt Tân quyên tiền để làm gì rồi. Và chắc hẳn, Lễ tưởng niệm "ông tổ nghề" Hoàng Cơ Minh ngày 21/8 tới đây của Việt Tân cũng chẳng ngoài mục đích gì khác là kêu gọi quyên tiền./.

          Nguồn: Góc nhìn người Đà Lạt