Thứ Ba, 9 tháng 8, 2022

Nhận thức đúng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

 Tham nhũng là một thuộc tính trong xã hội có giai cấp. Chống tham nhũng, vì thế, là cuộc đấu tranh lâu dài, cam go và vô cùng phức tạp. Thành bại của cuộc đấu tranh này phụ thuộc vào bản lĩnh của đảng cầm quyền, hiệu lực của hệ thống pháp luật và đặc biệt là sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân.

Ở nước ta, tham nhũng được xác định là một trong những nguy cơ hàng đầu đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân. Mục tiêu của cuộc đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp này là vì nhân dân...

Chấn chỉnh nhận thức lệch lạc, suy diễn tiêu cực

Sở dĩ phải nhắc lại, nhấn mạnh những vấn đề nguyên tắc có ý nghĩa căn bản trên đây là bởi, trong dư luận xã hội (trong đó có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên) đã và đang nảy sinh những nhận thức lệch lạc về nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay. Trong những ngày qua, sau khi cựu Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long; cựu Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội Chu Ngọc Anh và cựu Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Công Tạc bị khởi tố, bắt tạm giam, dư luận xã hội xuất hiện những thông tin mang tính võ đoán, suy diễn cực đoan, tiêu cực.

Trên không gian mạng, những đối tượng có tư tưởng thù địch, chống đối đã suy diễn rằng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay thực chất là “cuộc thanh trừng nội bộ”, là “các phe phái trong Đảng đấu đá lẫn nhau”... Những cụm từ như “bê bối”, “đụng đến đâu sai đến đó”, “tham nhũng cả hệ thống”, “càng chống, tham nhũng càng nhiều”... được họ sử dụng để chứng minh cho kiểu suy diễn sai lệch, tiêu cực nói trên.

Vấn đề này được nhiều phương tiện truyền thông phát tiếng Việt có tư tưởng thù địch ở hải ngoại tập trung khai thác, làm căn cứ để thực hiện các chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, chống phá đất nước với quy mô, cường độ ngày càng tăng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... nảy sinh tư tưởng làm việc cầm chừng, sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám đột phá, sáng tạo... Những biểu hiện tư tưởng, luồng thông tin tiêu cực ấy ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường văn hóa, trận địa tư tưởng chính trị trong Đảng, nhất là tổ chức đảng các cấp ở những bộ, ngành, địa phương... có cán bộ chủ chốt tham nhũng, tiêu cực vừa bị bắt tạm giam.

Cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị giống như là những “đầu tàu”. Khi “đầu tàu” gặp trục trặc, bị hỏng hóc phải thay thế, tất yếu sẽ có ảnh hưởng nhất định đến cả hệ thống. Những dao động, xáo trộn về tâm lý, tình cảm... trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức của hệ thống ấy là trạng thái tâm lý bình thường. Tuy nhiên, nếu để nó diễn biến theo chiều hướng cực đoan, tiêu cực, làm nảy sinh tư tưởng chán nản, bi quan, thậm chí là bất mãn, có những phát ngôn thiếu tinh thần xây dựng, để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước... thì đó là điều không thể chấp nhận. Trong cán bộ, đảng viên và hệ thống chính trị, những biểu hiện đó cũng chính là mầm mống của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm, cần được chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.

Tính nhân đạo, nhân văn của đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực

Có thể thấy, nguyên nhân của lối suy diễn tiêu cực nêu trên trước hết là do nhận thức của một số cá nhân chưa đúng, bị tác động bởi những luận điệu sai trái do các thế lực thù địch và phần tử phản động rêu rao, xuyên tạc. Những biểu hiện này không phải đến bây giờ mới diễn ra mà nó tồn tại âm ỉ, là một mặt trái của đời sống xã hội, khi có tình huống tác động lại bùng lên cục bộ. Chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp. Trong xã hội có giai cấp, không một quốc gia, dân tộc nào có thể triệt tiêu hoàn toàn tham nhũng. Vai trò của đảng cầm quyền và hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật chỉ có thể ngăn chặn, xử lý, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi tham nhũng.

Ở nước ta, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chính là để làm trong sạch bộ máy, để hệ thống chính trị phục vụ ngày một tốt hơn quyền và lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, việc điều tra, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có mục đích nào khác ngoài việc để cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị xứng đáng hơn với niềm tin và sự phó thác của nhân dân.

Với bản chất nhân đạo, nhân văn xã hội chủ nghĩa, việc kiểm tra, điều tra, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực là để nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn, với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “kỷ luật một người để cứu muôn người”... Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần phát biểu, khẳng định, kỷ luật, xử lý đồng chí, đồng đội của mình là rất day dứt, đau xót, nhưng đó là việc phải làm, không thể khác được. Phải làm nghiêm, làm mạnh để ai cũng phải có ý thức giữ mình trong sạch, ai đã trót “nhúng chàm” thì phải tự gột rửa để xứng đáng hơn với niềm tin, sự gửi gắm của nhân dân.

Như vậy, để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh thì việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị phải làm thường xuyên, kiên trì, kiên quyết. Việc nhiều cán bộ cấp cao, đứng đầu một số bộ, ngành, địa phương... suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng bị điều tra, xử lý là một tổn thất, một nỗi đau của Đảng, nhưng để cơ thể khỏe mạnh, không thể không “phẫu thuật” cắt bỏ những “khối u”, những “tế bào” độc hại...

Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, ở Thủ đô kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải trắng đêm trăn trở, dằn vặt, day dứt trước khi quyết định xử tử Trần Dụ Châu vì tội biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến. Dù rất đau đớn, nhưng Người đã bác đơn xin ân giảm án tử hình của Trần Dụ Châu. Người nói: “Nếu phải giết đi một con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc làm nhân đạo”. Vụ án chống tham nhũng điển hình xảy ra cách đây hơn 70 năm, đến nay vẫn vẹn nguyên tính thời sự. Quan điểm nhân văn, nhân đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi xử lý cán bộ tham nhũng, tiêu cực là sự thể hiện vừa bao quát vừa cụ thể tính nhân văn xã hội chủ nghĩa, tất cả đều vì tiền đồ của đất nước, vì cuộc sống của nhân dân.

Với tinh thần “Chống dịch như chống giặc”, nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 vừa qua thực sự là một cuộc chiến của toàn Đảng, toàn dân. Lôi ra được những “con sâu” trong bộ máy công quyền, lợi dụng dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch để trục lợi là sự cố gắng nỗ lực, vào cuộc quyết liệt của các cơ quan, lực lượng chức năng, thể hiện tinh thần, ý chí đấu tranh của Đảng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ...

Là cán bộ, đảng viên, chúng ta không vui sướng, hả hê khi đồng chí, đồng đội mình suy thoái, biến chất, nhưng cũng không thể thờ ơ, bàng quan, vô cảm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; càng không thể chỉ thấy hiện tượng mà quên bản chất, dẫn đến nảy sinh tư tưởng sợ sai, sợ trách nhiệm... Để thúc đẩy phát triển, phải gắn chặt giữa đoàn kết và đấu tranh, giữa xây và chống với tinh thần lấy xây để chống. Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, khi Đảng, Nhà nước ta ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương, những thành phần “sâu mọt” trong nội bộ tổ chức đảng và hệ thống chính trị sẽ tiếp tục được lôi ra ánh sáng công lý.

Với nhận thức, bản lĩnh của cán bộ, đảng viên, chúng ta phải đi sâu vào bản chất, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, quyền lợi của nhân dân lên trên hết để thấy rõ tính nhân đạo, nhân văn của Đảng. Những luận điệu cho rằng, Đảng, Nhà nước “thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực”, “đấu đá phe cánh”... thực chất là những luận điệu phản động, hại dân, hại nước. Cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức trong hệ thống chính trị cần nêu cao bản lĩnh, nhận thức thấu đáo bản chất vấn đề để củng cố trận địa tư tưởng chính trị, trau dồi phẩm chất đạo đức, xây dựng và tăng cường lòng tin trong nhân dân đối với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Công tác kiểm tra phải đi trước một bước

Phát biểu kết luận cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tổ chức ngày 27-4-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Từ thực tế công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã rút ra kinh nghiệm hoàn toàn đúng cả về lý luận, thực tiễn và đường lối. Đó là công tác kiểm tra của Đảng phải đi trước một bước, kiểm tra dấu hiệu vi phạm, cứ có dấu hiệu là Ủy ban kiểm tra có quyền vào kiểm tra. Đây là kinh nghiệm hay, đúng nguyên tắc, kỷ luật Đảng trước, rồi đến kỷ luật về hành chính, tiếp đến là xử lý hình sự... Các vụ án đã được xử lý nghiêm nhưng cũng rất nhân văn, tài sản thu hồi lớn, nhưng cái lớn nhất vẫn là củng cố, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị...

Hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước đã thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh. Tinh thần của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và chỉ đạo của Tổng Bí thư cần được cụ thể hóa thành chủ trương, giải pháp, hành động thiết thực ở mỗi địa phương. Đặc biệt là vai trò của công tác kiểm tra. Công tác kiểm tra phải đi trước một bước để sớm phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngay trong mỗi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Sự đi trước của tổ chức đảng trong kiểm tra, xử lý sai phạm vừa là tính tiên phong trong lãnh đạo, vừa thể hiện tính nhân đạo, nhân văn, mọi chủ trương, hành động của Đảng đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc và quyền lợi của nhân dân.

Phan Tùng Sơn

Bảo vệ nền tảng tư tưởng là bảo vệ linh hồn, mạch sống của Đảng

 Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm lịch sử, nhất là ở những thời khắc có tính bước ngoặt, thì tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh phải được tiến hành đồng thời, đảm bảo sự "gắn kết chặt chẽ giữa xây và chống, xây là cơ bản, chống phải quyết liệt, hiệu quả.

Những năm qua, căn cứ vào yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam, vào Cương lĩnh của Đảng, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch (tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh) được chú trọng và đẩy mạnh theo tinh thầnNghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII ngày 22/10/2018 về "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới" (Nghị quyết 35- NQ/TW). Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài; không chỉ là công việc của các cơ quan Đảng, Nhà nước mà là của cả hệ thống chính trị, đồng thời cũng là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Có thể nói rằng, từ sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch, phản động ngày càng gia tăng các hoạt động chống phá nhằm phủ định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; nhất là xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để thông qua đó đòi xóa bỏ vai trò cầm quyền/độc quền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập… Vì thế, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch ngày càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Và cũng vì thế, việc quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh nói chung; việc tiếp tục kiên quyết, kiên trì thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết số 35-NQ/TW đề ra nói riêng càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn.

LỰC LƯỢNG TUYÊN GIÁO LÀ NÒNG CỐT TRONG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 35- NQ/TW

Lợi dụng những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, chống phá, phủ định và đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ngấm ngầm truyền bá tư tưởng đi ngược lại với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhằm chuyển hóa thể chế chính trị ở Việt Nam…

Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, hơn 92 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác "bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước" gắn liền với việc chủ động và kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nghị quyết 35- NQ/TW đã khẳng định: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng luôn trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - bảo vệ linh hồn, mạch sống của Đảng, trận tuyến tuyên truyền/bảo vệ và đấu tranh theo Nghị quyết số 35-NQ/TW được xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân; trong đó, lực lượng Tuyên giáo các cấp là nòng cốt. Tại mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, trước hết là người đứng đầu và với mỗi cán bộ, đảng viên, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải được phải quán triệt thường xuyên, trở thành công việc tự giác, chủ động, kịp thời, nhằm ngăn chặn và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.   

Nội dung Nghị quyết số 35-NQ/TW cũng cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Do đó, trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm lịch sử, nhất là ở những thời khắc có tính bước ngoặt, thì tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh phải được tiến hành đồng thời, đảm bảo sự "gắn kết chặt chẽ giữa xây và chống, xây là cơ bản, chống phải quyết liệt, hiệu quả"[1], trong đó, xây là tuyên truyền, bảo vệ và chống là đấu tranh, để kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đồng thời, hoạch định, không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi mới và tiếp tục thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011).

Lực lượng Tuyên giáo các cấp có vai trò quan trọng, kết hợp giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài để đi tiên phong trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Việc thực thi nhiệm vụ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh của toàn  Đảng, của cả hệ thống chính trị chính là nhằm tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh... Đồng thời, thông qua tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh để nhận diện đúng, kịp thời; để nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, của các đối tượng phản động, cơ hội chính trị.

Trong thực thi nhiệm vụ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh, một mặt phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về internet, truyền thông, báo chí và mạng xã hội gắn liền với việc bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý các hoạt động trên không gian mạng để làm căn cứ cảnh báo, răn đe và xử lý các trường hợp vi phạm. Mặt khác, chú trọng việc đa dạng hóa nội dung, phương thức, hình thức để tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh theo nhiều tầng, nhiều nấc, nhiều cấp độ, phù hợp từng đối tượng, từng lĩnh vực, từng thời điểm. Đồng thời, nâng cao khả năng dự báo, nắm bắt tình hình (kịp thời nhận diện các thông tin xấu, độc, xuyên tạc…) và chủ động, kết hợp tuyên truyền, bảo vệ, đấu tranh bằng hình thức trực diện và gián tiếp, với nhiều hình thức, nhiều cấp độ theo một sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, để kịp thời phát hiện, tẩy chay và không tiếp tay cho kẻ cơ hội lan truyền thông tin xấu, nhất là trên không gian mạng.

KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Xác định rõ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị, trước khi Nghị quyết 35 NQ/TW ra đời, những nhiệm kỳ gần đây, từ Trung ương đến địa phương đã triển khai thực hiện sâu rộng Văn kiện Đại hội Đảng các khóa và các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề như Nghị quyết số 01-NQ/TW về "Công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”(3/1992); Nghị quyết số 09-NQ/TW về "Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay” (2/1995); Chỉ thị số 05-CT/TW của Ban Bí thư về "Tăng cường cuộc đấu tranh chống các luận điệu sai trái và hoạt động tán phát tài liệu chống Việt Nam" (1/2002); Thông báo Kết luận số 94-KL/TW của Ban Bí thư về "Tăng cường nhiệm vụ chống âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa" (12/2002); Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư về "Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá" (4/2009); Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" (5/2011) và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"(1/2012); Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”(5/2016) và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" (10/2016)… để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thông qua đó, công tác tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh đã đạt được những kết quả quan trọng, không chỉ bảo vệ Đảng, mục tiêu và lý tưởng của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch mà còn đồng thời phòng, chống, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; làm cho công tác xây dựng Đảng đạt hiệu quả hơn, tính chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày được củng cố vững chắc hơn, góp phần giữ vững an ninh chính trị, ổn định xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Trong khi đó, tình hình chính trị quốc tế (chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên, các vấn đề an ninh phi truyền thống…); đại dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu; đặc biệt sự mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc, nhất là âm mưu, thủ đoạn chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước là những yếu tố có tác động ngược chiều đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Bên cạnh những kết quả đạt được của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, thì "một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”[2] và “sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... còn diễn biến phức tạp”[3]…

Thực tế cho thấy, “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”[4], không chỉ gây bức xúc, mất lòng tin của nhân dân mà còn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Thực tế cũng cho thấy, càng khó khăn, thử thách, càng phải chú trọng và tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, nhiệm vụ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh nói riêng để các nhiệm vụ này không đối lập nhau, không phủ định nhau mà luôn tác động, tương hỗ, ảnh hưởng lẫn nhau, có ý nghĩa quyết định đến thành công của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch hiện nay. Đặc biệt, một quan điểm chỉ đạo quan trọng được nêu trong Nghị quyết số 35-NQ/TW chính là việc các cơ quan chức năng, các lực lượng chức năng cần phải chú trọng sự gắn kết chặt chẽ giữa xây và chống trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch. Trong đó, xây là giải pháp tập trung vào bên trong, nội tại để chống đạt hiệu quả hơn; còn chống là sự hướng vào việc ngăn chặn những tác động tiêu cực từ bên ngoài, để không chỉ tiếp tục phát huy những giá trị và những ưu thế đã và đang có, mà còn từng bước ngăn chặn, làm thất bại mọi hoạt động làm phương hại đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ để xây được ổn định và vững chắc hơn, để kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh theo Nghị quyết số 35-NQ/TW, toàn Đảng và hệ thống chính trị cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, các cơ quan, ban, ngành chức năng cùng mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, nhất là lực lượng Tuyên giáo các cấp cần nâng cao nhận thức và quán triệt sâu sắc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, cơ bản, lâu dài, thường xuyên và liên tục. Việc triển khai đồng bộ trận tuyến tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh là nhằm bảo vệ tính đúng đắn, khoa học, giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; bảo vệ những thành quả mà nhân dân Việt Nam đã đạt được trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, tuyên truyền, bảo vệ có ý nghĩa quyết định để không chỉ củng cố sự vững chắc trong nội bộ tổ chức Đảng, vai trò, vị trí cầm quyền/độc quyền lãnh đạo của Đảng được Hiến pháp hiến định, mà còn góp phần hạn chế và chống lại sự tấn công của các thế lực thù địch từ bên ngoài. Còn đấu tranh có ý nghĩa như là xây dựng phòng tuyến vững chắc để ngăn chặn sự suy thoái, biến chất, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong; đồng thời, góp phần đẩy lùi sự chống phá ngày càng điên cuồng của các thế lực thù địch, củng cố sự thống nhất, vững chắc của từng tổ chức cơ sở Đảng.

Thứ hai, tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh phải được tiến hành toàn diện về cả lý luận và thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn, nhằm bổ sung và hoàn thiện lý luận; đồng thời, trong từng thời điểm, với mỗi loại đối tượng, cần chọn lọc và thận trọng để có đối sách hợp lý, bằng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp. Trong đó, tuyên truyền, bảo vệ tập trung vào việc không ngừng phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế, văn hóa, giáo dục; về cán bộ và công tác cán bộ,v.v.. Còn đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, bẻ cong lịch sử dân tộc và Đảng nhằm để bảo vệ Đảng, chế độ, đất nước và nhân dân; đồng thời phản bác lại sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về lý tưởng của Đảng, về chủ nghĩa xã hội, nhất là mục tiêu đòi thay đổi chế độ của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội gắn liền với việc phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và những biểu hiện tiêu cực khác. Sự gắn kết chặt chẽ giữa tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh này không chỉ góp phần bảo vệ  nền tảng tư tưởng của Đảng mà còn thiết thực tìm ra những "con sâu làm rầu nồi canh" từ sớm, từ gốc, để sàng lọc nội bộ, làm cho Đảng ngày càng mạnh khỏe, chắc chắn, trong sạch, vững mạnh từ cơ sở.

Thứ ba, các cơ quan, ban, ngành chức năng cùng mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cần phải nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng, các nghị quyết chuyên đề, các chỉ thị, quy định, kết luận về xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói riêng để thực thi nhiệm vụ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh đảm bảo sự gắn kết và hiệu quả. Trên cơ sở dự báo sát sao và chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, việc xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội, tăng cường đấu tranh chống các quan điểm sai trái, lệch lạc, các hoạt động phá hoại, kích động, gây rối của các thế lực thù địch phải được triển khai kịp thời, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan, các lực lượng, các cấp, để bảo đảm sự thống nhất tư tưởng, hành động trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Tiếp tục thực hiện nghiêm Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với Kết luận 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, gắn với Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 "về những điều đảng viên không được làm" để phòng và chống sự suy thoái, biến chất, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; để kịp thời nhận diện và cảnh giác trước những quan điểm nhân danh yêu nước, dân chủ, phản biện để cổ xúy cho vấn đề xã hội dân sự, đòi đa nguyên, đa đảng, ra báo tư nhân…

Thứ tư, công tác tuyên truyền, bảo vệ phải luôn đổi mới, song có lộ trình và thận trọng, nhất là triển khai phải theo từng bước, tránh nóng vội, chủ quan, chệch hướng; và đấu tranh thì luôn phải linh hoạt, nhưng bản lĩnh, trong sáng, chân chính để tránh sa vào bẫy kích động, chia rẽ của kẻ thù. Đồng thời, phòng và tránh tạo kẽ hở cho các phần tử phản động, bọn cơ hội "mượn hơi" gây rối và chống phá. Sự gắn kết chặt chẽ giữa tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh không chỉ nhằm thể hiện sự kiên định con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân đã chọn; không chỉ thể hiện rõ tinh thần và ý chí vượt mọi trở ngại, khó khăn, mà còn đảm bảo được quá trình xây dựng, bảo vệ, phát triển của đất nước theo đúng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, các cơ quan, ban, ngành chức năng cùng mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên cần chú trọng việc lấy cái tích cực, cái tốt đẹp, sự nêu gương và tạo lan tỏa rộng rãi để dẹp cái xấu, đẩy lùi sự tiêu cực và cái ác, góp phần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo, phổ quát trong đời sống tinh thần của xã hội; làm cho tư tưởng tiến bộ, tích cực, thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, cải tạo những tư tưởng lạc hậu, đẩy lùi những suy nghĩ và hành động sai trái.

Thứ năm, cùng với việc kiện toàn các cơ quan chức năng, xây dựng, phát triển và phối hợp các lực lượng thực thi nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là việc cần phải củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp đảm bảo về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Để hoàn thành sứ mệnh “đi trước, mở đường”, đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp cần phải rèn luyện phẩm chất đao đức, nâng cao bản lĩnh chính trị gắn liền với việc nỗ lực nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ, chuyên môn và cập nhật kiến thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ tham mưu, xử lý các vấn đề về tư tưởng phức tạp phát sinh. Đồng thời, phân tích, luận giải, thuyết phục cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tin tưởng và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đi liền cùng đó là nhận diện đúng để kịp thời phản bác, đập tan các âm mưu, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động. Cùng với đó, nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong hoàn thành nhiệm vụ được giao, trong thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và "tích cực đấu tranh, phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái của các thế lực thù địch"[5], góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch./.

________________________________________

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 35-NQ/TW về "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới", ngày 25/10/2018

[2] [3] [5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.168, 164, 231.

 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.164

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.23

TS. Văn Thị Thanh Mai - TS. Trần Thị Bình

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người làm báo vĩ đại

 50 năm viết báo (1919-1969), viết hơn 2.000 bài báo với trên 100 bút danh, khởi xướng và sáng lập gần chục tờ báo, tạp chí, mở các lớp dạy viết báo…, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một nhà báo vĩ đại, người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng báo chí và thực hiện tôn chỉ dùng ngòi bút “là vũ khí sắc bén”, mỗi bài báo “là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng đấu tranh...". Người sử dụng báo chí như một thứ vũ khí tinh thần sắc bén, hiệu quả để đấu tranh chống lại kẻ thù, phục vụ cho lý tưởng cao cả: hòa bình cho đất nước, độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân.

Cũng vì đó, trong suốt hành trình cứu nước, Người đã viết rất nhiều cũng như sáng lập ra một số tờ báo, tạp chí làm phương tiện tuyên truyền, vận động người dân đấu tranh. Tờ báo đầu tiên mà Người sáng lập là tờ Người cùng khổ (Le Paria) ngày 1/4/1922, với danh nghĩa "Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa", vừa để phổ biến ở Pháp, vừa để gửi về Việt Nam nhằm vận động tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường cách mạng vô sản. Báo được in bằng 3 ngôn ngữ, lời nói đầu tiên được tuyên bố rõ ràng: “Tờ báo này là vũ khí chiến đấu. Sứ mạng của nó là giải phóng con người”. Người đã chỉ ra mục đích, tôn chỉ của tờ báo hết sức rõ ràng là nhằm tập hợp "Những người cùng khổ" bị chế độ thực dân áp bức, bóc lột, không phân biệt màu da hãy đoàn kết lại, giúp nhau đấu tranh đòi quyền bình đẳng, tự do cho dân tộc mình. Sự ra đời của tờ báo thực sự là “một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp bức”. Mặc dù chỉ tồn tại trong 4 năm với 38 số, song Người cùng khổ đã có ảnh hưởng lớn đối với công luận Pháp và phong trào yêu nước ở các thuộc địa. Tờ báo trở thành công cụ hữu hiệu, kêu gọi, tập hợp đông đảo nhân dân lao động chống lại thực dân xâm lược, đồng thời cũng tạo nên bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp báo chí của Nguyễn Ái Quốc.

Ngày 21/6/1925, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục đã sáng lập ra tờ "Thanh niên" - tờ báo đặt nền móng cho nền báo chí cách mạng Việt Nam. Từ đó đến năm 1941, Người sáng lập và trực tiếp tổ chức nội dung trình bày và phát hành thêm 6 tờ báo nữa là Công Nông, Lính Kách Mệnh, Thân Ái (đổi tên từ tờ Đồng Thanh), Đỏ, Việt Nam Độc Lập, Cứu Quốc. Những tờ báo này đều chứa đựng một chủ đề lớn: Truyền bá tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin ở Việt Nam, chuẩn bị cơ sở lý luận, thực tiễn thành lập một đảng kiểu mới đủ bản lĩnh chính trị lãnh đạo nhân dân vùng lên đấu tranh, phá tan ách thống trị của thực dân Pháp. Đây là những cẩm nang chỉ đường cho nhân dân ta giành độc lập tự do cho nước nhà. Sau đó, Người đã trực tiếp đặt tên cho nhiều tờ báo khác như Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân, Hà Nội Mới...

Cùng với sáng lập các tờ báo, tạp chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp phát triển báo chí cách mạng Việt Nam. Bằng kiến thức và kinh nghiệm của mình, Người cho mở nhiều lớp bồi dưỡng báo chí và trực tiếp tham gia vào các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí. Người căn dặn cán bộ báo chí mỗi khi cầm bút: “Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?”…; Người cũng hướng dẫn cách viết sao cho ngắn gọn, dễ hiểu, dễ đọc, chính xác, cân đối, phù hợp với trình độ và thời gian của quần chúng. Yêu cầu của Người đặt ra đối với mỗi cán bộ báo chí là: “Người làm báo phải là những chiến sĩ trên mặt trận báo chí, phải rèn luyện bản lĩnh chính trị đi liền với rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp, đó là trách nhiệm của các nhà báo cách mạng Việt Nam”. Để hoàn thành nhiệm vụ là người chiến sĩ cách mạng vẻ vang đó, Người yêu cầu “các nhà báo phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ mọi mặt, đặc biệt là trình độ chính trị; đồng thời phải hòa mình vào đời sống của quần chúng nhân dân để viết cho đúng với tâm trạng, nhu cầu và nguyện vọng của họ”. “...Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hoá; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương của Đảng, chính sách của Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động...”(1). Người khuyên các nhà báo: "Nếu các bạn viết báo mà quần chúng hiểu, quần chúng ham đọc, quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại, là các bạn chưa thành công".

Hồ Chí Minh luôn coi trọng nền báo chí cách mạng. Người hiểu rất rõ vai trò và tầm quan trọng của báo chí trong cuộc đấu tranh cách mạng và trong đời sống xã hội. Đối với Người, làm báo để làm chính trị. Người nhấn mạnh: “Báo chí là công cụ tuyên truyền, cổ động, tổ chức, lãnh đạo...”, “Báo chí là vũ khí sắc bén, nhanh nhạy, đại chúng, phục vụ kịp thời...” và Người đã sử dụng báo chí như một vũ khí sắc bén để cổ vũ và động viên phong trào cách mạng của nhân dân. Mỗi bài báo của Người đều nhằm một mục đích là chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đối với Hồ Chí Minh, báo chí là phương tiện vận động, tập hợp lực lượng cách mạng và tổ chức thực hiện mục tiêu cách mạng một cách hiệu quả nhất. Chính vì đó, hàng nghìn bài báo của Người đều thể hiện tư tưởng cách mạng, tình yêu nước thương dân và đạo đức cao cả. Với cách sử dụng ngôn ngữ giản dị, bình dân, cách viết sắc sảo, độc đáo, hình thức và phong cách đa dạng và hấp dẫn, các bài báo của Người đã có sức lay động trái tim và khối óc, có sức truyền cảm sâu sắc tới bạn đọc.

Sâu sát thực tế, gần gũi với quần chúng, nói lên sự thật, đó là phong cách làm báo của nhà báo Hồ Chí Minh. Nét tiêu biểu trong các các tác phẩm báo chí Hồ Chí Minh là tùy theo từng đối tượng mà có văn phong, cách viết khác nhau. Đối với kẻ thù thì thái độ dứt khoát. Đối với nhân dân thì lời văn ngắn gọn, mộc mạc dễ hiểu, nhưng có sức thuyết phục rất lớn. Phê bình thì nhẹ nhàng, thấu tình đạt lý, sâu sắc, người bị phê bình thấy thoải mái, quyết tâm khắc phục, sửa chữa.

Đặc biệt, các bài viết của Bác đều có tính định hướng cụ thể. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời kỳ Cách mạng, Bác đều định hướng cho quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên phải làm gì, hành động như thế nào, đấu tranh với ai, phương pháp đấu tranh như thế nào? Tên các tác phẩm đi thẳng vào vấn đề, dễ hiểu, dễ đọc, dễ nhớ, để những người có trình độ thấp cũng hiểu được như: Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, giặc hạn và giặc lụt (11/7/1967); Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (3/2/1969); Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng 01/6/1969; Phải chăng thế này là thực hành tiết kiệm? (22/12/1966); Mỹ hoạt động hòa bình giả để mở rộng chiến tranh thật (8/1/1966); Tổ chức ngày Tết tiết kiệm và vui tươi (21/1/1965)...

Không chỉ cống hiến cho dân tộc với tư cách là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, nhà văn hóa kiệt xuất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là nhà báo xuất sắc, người sáng lập, xây dựng, hình thành và phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam. Các quan điểm lý luận và thực tiễn lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh có tác dụng soi đường, chỉ lối và định hướng cho nền báo chí cách mạng Việt Nam suốt gần 100 năm qua. Chính nhờ đó, báo chí cách mạng Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đứng lên giành độc lập, tự do cho đất nước; tiếp tục đồng hành cùng dân tộc để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Ngày nay, đáp ứng yêu cầu phát triển cũng như hội nhập quốc tế sâu rộng, báo chí tiếp tục phải là đội quân chủ lực trong việc định hướng dư luận xã hội, tuyên truyền, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Từ tấm gương làm báo của Bác, từ tư tưởng, phong cách báo chí Hồ Chí Minh, có thể thấy, những di sản tư tưởng của Người tiếp tục là “kim chỉ nam” dẫn đường cho các cơ quan báo chí và những người làm báo hiện đại. Những người làm báo cần phải hiểu sâu sắc hơn nữa, rằng báo chí là vũ khí sắc bén, là công cụ đắc lực của Đảng trên mặt trận tư tưởng. Mỗi người làm báo là một chiến sĩ cách mạng, có tinh thần cách mạng, tinh thần tiến công, đấu tranh loại bỏ cái sai, cái xấu, bảo vệ cái đúng, cái tốt, vì sự nghiệp chung của đất nước, của nhân dân. Báo chí phải thực sự trở thành cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, động viên, cổ vũ nhân dân tham gia thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng./.

Thương Huyền

Nêu cao tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý

 Trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền, nâng cao tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý có vai trò rất quan trọng đối với uy tín, năng lực của mỗi cán bộ, đối với sức mạnh của các cấp ủy, chính quyền; góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng trong toàn bộ tiến trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

YÊU CẦU, NHIỆM VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM TRƯỚC ĐẢNG, TRƯỚC NHÂN DÂN

Một là, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là yêu cầu, nhiệm vụ và trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân của cán bộ lãnh đạo, quản lý

Lý luận và thực tiễn đã khẳng định tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là một biện pháp có ý nghĩa quan trọng để giữ vững tư cách của người cách mạng. Sinh thời, V.I.Lênin đã chỉ rõ, đảng cộng sản chỉ “thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân cách mạng, nếu nó bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả những chiến sĩ cộng sản hoàn toàn có ý thức và trung thành, có học vấn và được tôi luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng bền bỉ, nếu nó biết gắn liền với toàn bộ cuộc sống của giai cấp mình và thông qua giai cấp đó, gắn liền với tất cả quần chúng bị bóc lột, và biết làm cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hoàn toàn vào mình”(1).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ lãnh đạo, quản lý: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””(2). Mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở vị trí công tác nào cũng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ vững phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức sẽ dễ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(3). Vì vậy, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý để giữ gốc của người cách mạng, phải thực hành mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh.

Được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng, trao những nhiệm vụ quan trọng, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải xác định đó vừa là niềm vinh dự, vừa là trách nhiệm cao cả. Từng cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thực hiện tốt trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân. Đó là trách nhiệm phòng, chống suy thoái về đạo đức, lối sống của bản thân và kiểm soát cấp dưới tu dưỡng, rèn luyện, chống mọi biểu hiện lợi dụng quyền lực để gây áp lực đối với những cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ trái với quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm trục lợi, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đó là việc chịu trách nhiệm về những sai phạm của cấp dưới, cơ quan, đơn vị,… Muốn làm tròn trách nhiệm đó, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Do đó, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý để giữ vững tư cách của người cách mạng, đồng thời tác động tích cực, lan tỏa rộng rãi trong cơ quan, đơn vị và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là một phương thức thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý

Trách nhiệm nêu gương là bổn phận, nghĩa vụ phải nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý trên các lĩnh vực được thể hiện trong đời sống, trong công tác. Thực hiện trách nhiệm nêu gương là hoạt động bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên, là yêu cầu, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý để trách nhiệm nêu gương được hiện thực hóa trong công tác, trong đời sống, là tấm gương sáng cho cán bộ, đảng viên noi theo, tạo dựng lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo, quản lý của cấp ủy đảng và chính quyền địa phương. Đây là đặc điểm quan trọng thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt động chỉ đạo, quản lý, điều hành. Trách nhiệm nêu gương được thể hiện ở văn bản, giấy tờ, khẩu hiệu còn việc thực hiện trách nhiệm nêu gương phải được thể hiện bằng hoạt động thực tiễn với kết quả cụ thể. Đó phải là hoạt động nêu gương thực sự về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, lề lối làm việc, tác phong công tác, chức trách, nhiệm vụ được giao và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, là tấm gương sáng cho cán bộ, đảng viên noi theo, tạo dựng lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo, quản lý của cấp ủy và chính quyền các cấp.

Kết quả thực hiện trách nhiệm nêu gương phụ thuộc rất lớn vào phương thức thực hiện, trong đó, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý là một phương thức hữu hiệu. Bên cạnh việc chấp hành các quy chế, quy định của Đảng, Nhà nước, của cơ quan, đơn vị, mỗi cán bộ phải tự nguyện, tự giác tu dưỡng rèn luyện, làm gương để cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo. Phương thức thực hiện trách nhiệm nêu gương này thể hiện ở hai nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.

Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đã quy định 8 nội dung mà cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao, càng phải gương mẫu “xây”, trong đó có trách nhiệm “Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Mẫu mực về đạo đức, lối sống. Thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành”.

Bên cạnh đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý còn có trách nhiệm kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng so sánh “tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải được chăm bón rất khó nhọc mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”(4). Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý được thể hiện qua việc luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, “lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng… Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng””(5). Bằng việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ nêu gương về giữ vững tư cách của người cách mạng, phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự lan tỏa rộng rãi tấm gương “người tốt”, “việc tốt” trong toàn xã hội.

Thứ hai, thường xuyên học tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác.

Tự giác học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, năng lực công tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý là một phương thức thực hiện trách nhiệm nêu gương trước cán bộ, đảng viên. Thông qua tự giác học tập nâng cao trình độ, cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện tốt thẩm quyền, trách nhiệm trong hoạt động lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng, của đất nước, của địa phương trong tình hình mới. Người xưa dặn “Bất học thi, vô dĩ ngôn” (không học thì lấy cái gì mà nói). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu”(6). Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất cầm quyền, Đảng có vai trò, trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước và các lĩnh vực của đời sống xã hội đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là trách nhiệm nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng vừa phải có đạo đức cách mạng trong sáng, vừa phải có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý của từng ngành, từng địa phương.

THỰC TIỄN TỰ GIÁC TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

Trong những năm qua, đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý đã nhận thức và thực hiện tốt việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, giữ vững được phẩm chất, tư cách của người cách mạng, góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững vị thế, năng lực cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn liền với nội dung thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 15/5/2016 về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TWW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện "tự diễn biến, tự chuyển hoá" trong nội bộ, Đảng đã khẳng định: "Nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được nâng lên; nhận diện sâu sắc, đầy đủ hơn các biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến, tự chuyển hoá"... Nhiều tấm gương điển hình, tiên tiến được nhân rộng, lan toả trong đời sống xã hội"(7).

Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, bị lợi ích vật chất, quyền lực cám dỗ, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong đó "Việc cam kết tu dưỡng, rèn luyện, gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiệu quả chưa cao"(8). Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện không đúng quy trình, quy định trong công tác cán bộ, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản Nhà nước, vi phạm những điều đảng viên không được làm,… Nhiệm kỳ 2015-2020, có 2209 cán bộ đảng viên bị thi hành kỷ luật liên quan đến tham nhũng, trong đó có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương chức và đã nghỉ hưu (9). Gần đây, không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý vi phạm bị xử lý kỷ luật...

Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do “thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân” (10).

NÊU CAO TINH THẦN TỰ GIÁC TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên là một nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng về đạo đức đã được Đảng đã xác định tại Đại hội lần thứ XIII. Trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng yêu cầu: “Nêu cao tinh thần tự giác, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”(11). Đây là một biện pháp để tăng cường và nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng về đạo đức, đồng thời là một phương thức để cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, góp phần lan tỏa trong nhận thức và hành động của đảng viên, cán bộ, công chức trong cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, giải pháp này khó, phức tạp, cần phải quyết tâm, kiên trì, bền bỉ và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị với các biện pháp cụ thể sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, thực sự giữ gìn và thực hành chuẩn mực đạo đức cách mạng, đồng thời, không ngừng chủ động học tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Xác định rõ mục đích tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực chính là để thực hiện trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Đó là trách nhiệm suốt đời phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, biết hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích chung của cách mạng; trách nhiệm gương mẫu thực hiện tốt nhiệm vụ do Điều lệ Đảng, do tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phân công. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, luôn giữ được chữ “tín” trước cấp dưới và nhân dân để lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị ngày càng phát triển.

Bên cạnh đó, đối với mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý, việc tăng cường tu dưỡng, rèn luyện chính là để xây dựng hình ảnh, uy tín của người cán bộ, từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành các lĩnh vực ở địa phương. Tự giác tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ lãnh đạo, quản lý phải được thể hiện từ nhận thức đến hành động, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực, đặc biệt trong công tác. Hiện nay, việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ lãnh đạo, quản lý cần được thực hiện một cách nghiêm túc, tự giác, có hiệu quả gắn với những nội dung của Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 mới đây của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong đó, chú trọng quán triệt, tập trung làm tốt ba vấn đề: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Hai là, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tích cực, tự giác chủ động trong việc tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực phục vụ nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị. Đây là yêu cầu đòi hỏi mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nghiêm túc, tự giác thực hiện, không phụ thuộc vào các chế tài, quy định mà phải coi tu dưỡng, rèn luyện như “rửa mặt hàng ngày”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải ở trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(12). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhắc nhở: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập, ra sức tu dưỡng, rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ nhận thức, trở thành những con người có văn hóa, có liêm sỉ”(13). Đảng cũng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải “nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên”(14).

Dù ở vị trí công tác nào, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao uy tín trước Đảng, trước nhân dân. Đồng thời, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn nghiêm khắc với bản thân, thực hiện tự phê bình nghiêm túc, tự giác để phát hiện và thông báo với tập thể những hạn chế, yếu kém, nhất là trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành để tìm ra phương hướng, kế hoạch khắc phục.

Hằng tháng, hằng quý, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tự xem xét, đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm nêu gương trên các mặt trước tập thể chi bộ, tập thể cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, đề ra các biện pháp khắc phục khuyết điểm và chịu sự giám sát thường xuyên của tập thể nơi công tác và cư trú.

Ba là, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần xây dựng và quyết tâm thực hiện kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện thông qua các bản cam kết, chương trình hành động, bản đăng ký thực hiện trách nhiệm nêu gương và công khai trước tập thể đảng viên, cán bộ, công chức và nhân dân.  

Bên cạnh đó, để thực hiện trách nhiệm nêu gương thông qua bản cam kết, chương trình hành động có hiệu quả, khắc phục tình trạng nêu gương bằng báo cáo, giấy tờ, hình thức, khẩu hiệu, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải nêu cao quyết tâm thực hiện trách nhiệm nêu gương, phải xác định rõ nội dung, biện pháp thực hiện.

Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị đối với việc nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Các tổ chức trong hệ thống chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên, đồng thời, có vai trò phát hiện những biểu hiện thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong cán bộ, đảng viên để kịp thời xử lý và phát hiện, biểu dương, khen thưởng và nhân rộng những tấm gương điển hình về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để kích thích, khơi dậy tinh thần tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

Đại hội XIII lần thứ của Đảng chỉ rõ: “Thực hiện có hiệu quả việc giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và cán bộ chủ chốt”(16). Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phải căn cứ vào các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện kiểm tra, giám sát trên tất cả các mặt, kết hợp nhiều phương thức quản lý, kiểm tra, giám sát: Kiểm tra, giám sát từ trên xuống (người đứng đầu kiểm tra, giám sát cấp dưới), kiểm tra giám sát từ dưới lên (đảng viên kiểm soát cán bộ lãnh đạo, quản lý) và phát huy vai trò của nhân dân kiểm soát cán bộ, đảng viên thực hiện tu dưỡng, rèn luyện. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt các quy chế, quy định của các cấp ủy địa phương về công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.

Để giám sát có hiệu quả đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày. Nâng cao khả năng dự báo về những hành vi vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ để đề ra các chủ trương, biện pháp phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm từ xa, từ sớm. Đó vừa là căn cứ để mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý tu dưỡng, rèn luyện, vừa là cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân kiểm tra, giám sát việc thực hiện tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng và hệ thống chính trị, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ của các cấp ủy, tổ chức đảng và bản thân từng cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Trước sự tác động nhiều mặt, nhiều chiều từ xã hội, tự giác tu dưỡng, rèn luyện vừa là biện pháp quan trọng để giữ vững tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa thể hiện tính kiên định, tính chiến đấu của người cán bộ, đảng viên. Vì vậy, phải tiếp tục nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong tình hình mới./.

------------------------

(1) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.8, tr.38.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t. 6, tr.127.

(3) (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.291, 290-291.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 222.

(6) (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.602, 612.

(7) Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến, tự chuyển hoá".

(8) (11) (13)Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr.332, 270, 327.

(9) (14) (16) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr. 208, 237, 288.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.24-25.

PGS. TS. Đinh Ngọc Giang - TS. Nguyễn Thị Thảo