Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, Internet và mạng xã hội đang ảnh hưởng ngày càng lớn đến mọi mặt đời sống xã hội. Chúng ta không phủ nhận những tiện ích to lớn mà mạng xã hội đem lại cho cộng đồng. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng những ưu thế mà mạng xã hội đem lại để tăng cường tuyên truyền, xuyên tạc nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Hàng nghìn trang mạng xã hội, blog,… được các thế lực thù địch, phản động lập ra để sử dụng như một công cụ chủ lực trong tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt nhằm kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và thế giới.
Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2023
NGĂN CHẶN VIỆC SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI NHƯ MỘT CÔNG CỤ KÍCH ĐỘNG HẬN THÙ, CHIA RẼ ĐOÀN KẾT
Sự khẳng định nhất quán tư tưởng lấy dân làm gốc
Đây là sự khẳng định nhất quán tư tưởng lấy dân làm gốc, người dân là chủ thể, là mục đích, là trung tâm của mọi quá trình phát triển. Thế nhưng trên một số trang mạng, thế lực thù địch và những kẻ phản động cố tình xuyên tạc rằng, phương châm “dân thụ hưởng”, hay “lấy dân làm gốc” mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra là không thực chất, chỉ là mị dân. Nhưng cho dù kẻ xấu có xuyên tạc thế nào thì cũng không thể phủ nhận thực tế rằng, người dân Việt Nam đã và đang thực sự thụ hưởng thành quả cách mạng…
CÓ MỘT DI TÍCH LỊCH SỬ VIỆT NAM RẤT NỔI TIẾNG TRÊN TIKTOK
Cần vạch trần, phản bác những luận điệu sai trái về giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Dựng nước đi đôi với giữ nước là vấn đề
có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, được Đảng ta đúc kết, khái quát
từ thực tiễn lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến, kiến quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trên cơ sở kế thừa, vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm về đấu tranh
dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tính chân lý, giá trị và ý nghĩa của
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được khẳng định từ thực
tiễn cuộc sống, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Nó toát lên sức thuyết
phục bởi cơ sở khoa học không thể chối cãi; nhờ đó, đã bác bỏ cách nhìn siêu
hình và các quan điểm lệch lạc, sai trái về mối quan hệ này. Nhận
rõ vị trí, vai trò quan trọng của giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính
trịđã tìm mọi cách ngăn chặn sự ảnh hưởng và kết quả giải
quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong đời sống xã hội bằng “cách nhìn siêu hình” nhằm cản trở công cuộc đổi mới
của nhân dân ta; muốn Đảng ta phạm sai lầm trongnhận thức và giải
quyết lệch chuẩn mối quan hệ này, dẫn tới tự
sụp đổ và thất bại. Vì vậy, trên các trang mạng xã hội đã xuất
hiện nhiều luồng ý kiến khác nhau với các quan điểm đối lập nhau; song, chúng
có chung một mục đích là xuyên tạc bản chất, vai trò, giá trị và ý nghĩa của
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; hướng lái dư luận, nhận thức của nhân dân theo khuynh hướng: tuyệt đối
hóa mặt này hoặc coi nhẹ mặt kia và ngược lại nhằm hạ thấp uy tín, vị thế, vai
trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc bản chất mối quan hệ bao trùm, cơ bản, xuyên
suốt trong phát triển cách mạng Việt Nam; hướng lái nước ta đi theo con đường
TBCN. Loại ý kiến thứ nhất là tập trungthổi phồng nguy cơ chiến tranh,
xung đột quân sự; bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN và trong quan hệ của Việt Nam với các nước lớn, các
nước truyền thống, láng giềng. Chúng cho rằng, nguy cơ xung
đột vũ trang, chiến tranh đang cận kề và nó có thể bùng phát thành nội chiến và
chiến tranh. Loại ý kiến này đang gieo vào lòng người dân sự nghingờ, lo lắng
về tương lai, vận mệnh của đất nước; gây áp lực lên xã hội, buộc Đảng ta phải
dồn tiền của, công sức, các nguồn lực cho quốc phòng, an ninh, nhất
là mua sắm vũ khí, trang bị quân sự để đối phó với nguy cơ chiến tranh, từ đó
suy yếu về kinh tế. Ý kiến này
lấy sự kiện xung đột quân sự Nga - Ucraina để “hù dọa” và kiến nghị Đảng, Nhà
nước ta phải “chạy đua vũ trang”. Từ đó, hy vọng Đảng, Nhà nước ta lơ là, sao
nhãng nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng đất nước dẫn đếnsự yếu
kém về mặt xây dựng, chậm phát triển kinh tế; làm cho đời sống của nhân dân
xuống cấp; gây sự bức xúc, phản đối mạnh mẽ từ nhân dân; bào mòn lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, tính ưu việt của chế độ XHCN. Đây là một trong những âm
mưu thâm độc nhất của thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ, chúng ta cần nhận thức đúng và hết sức cảnh giác. Cùng
với đó, chúng sử dụng chiêu trò “hù doạ” nguy cơ chiến tranh từ sự
tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông để cáo buộc Đảng ta “sợ mất vai trò cầm
quyền, lãnh đạo, buộc phải duy trì số đôngbinh lính quân đội và
công an để trấn áp ở bên trong, đàn áp bên ngoài nhằm bảo
vệ “lợi ích của các phe nhóm quân đội và công an”. Hơn thế, chúng đề cao thái quá vai trò của quốc phòng,
an ninh; cho rằng “Đảng CSVN muốn tạo ra lãnh địa riêng” để dễ
bề dùng tiền thuế của dân,dễ tham ô, tham nhũng vì không
ai có quyền kiểm soát lĩnh vực “đặc biệt” là quân sự, an ninh.
Từ đó, chúng vu khốngĐảng ta bao che, dung túng cho “quân đội làm suy
yếu đất nước”. Hơn thế, chúng đặt ra yêu cầu “Đảng, Nhà nước phải chấm dứt
việc cho phép quân đội làm kinh tế vì đó là một hình thức bóc
lột sức lao động của binh lính”. Chúng tung tin rằng, “quân đội các nước
TBCN không làm kinh tế, chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nên không có tham
nhũng”. Từ đó, chia rẽ quân đội với công an, lực lượng vũ trang với nhân
dân để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an.
Ngược lại, một số ý kiến khác lại tập trung nhấn mạnh vai trò quyết định của yếu tố kinh tế, của sản xuất
vật chất, coi “thắng hay
thua” của Việt Nam là do kinh tế và sức mạnh của tiền bạc quyết định. Tính
thâm độc của loại ý kiến này là “lấy độc trị độc”; nghĩa là lấy lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quyết định của sản xuất vật
chất, của nhân tố kinh tế đối với sự phát triển của xã hội để khẳng định tính
chất phụ thuộc của chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào kinh tế
nhằm lừa gạt nhân dân, nhất là những người dân nhẹ dạ cả tin theo hướng ngụy
biện, xuyên tạc sự thật này. Đây là một chiêu trò đánh tráo khái niệm, lừa bịp,
mỵ dân. Vì thế, chúng cho rằng
thế kỷ XXI là thế kỷ hòa bình, không có chiến tranh nên khuyên Đảng, Nhà nước
ta phải coi nhẹ các yếu tố quốc phòng, an ninh và luận giải
sự không cần thiết phải xây dựng quân đội, công an hiện đại; không cần thiết
phải chi tiêu “khoản ngân sách kếch xù” để nuôi quân đội, công an và xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Chúng tuyên truyền “kinh tế mạnh
sẽ chiến thắng” và yêu cầu Đảng, Nhà nước ta phải giảm mạnh quân số thường
trực; tinh giảm tối đa quân đội và công an. Sự lý giải sai trái này đã trở
thành chỗ dựa cho quan điểm “phi chính trị hóa” quân đội; phủ nhận nguyên tắc
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Đây là loại
quan điểm “độc hại” rất nguy hiểm, cần phải vạch trần bản chất xấu sa của nó,
phải kiên quyết đấu tranh phản bác. Việc khuyến nghị Đảng, Nhà nước ta đầu tư cho cho các tập đoàn kinh tế
lớn, các khu công nghiệp mũi nhọn, mở mang thị trường, phát triển thương
nghiệp. Đồng thời, mở cửa, đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế; tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn với các công ty tư bản nước
ngoài để thu hút vốn, đội ngũ chuyên gia đến làm việc tại Việt Nam, v.v.. Thoạt
nghe thì quan điểm này có điểm hợp lý nhưng suy xét kỹ, chúng ta thấy rõ mưu đồ
phủ nhận mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; làm cho nhân
dân ta lơ là, mất cảnh giác, thực hiện thiên lệch hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam. Trái ngược
với quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, có ý kiến đã cáo buộc Đảng, Nhà nước ta không quan tâm đến giải quyết mối quan hệ
giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nên đã gây lãng phí nhiều nguồn
lực quý...Theo chúng, Đảng, Nhà nước ta phải từ bỏ sự độc quyền
về lĩnh vực công nghiệp quốc phòng vì không cần thiết; cần học kinh
nghiệm của các nước TBCN để tư nhân hóa lĩnh vực này. Cùng với đó,
khuyến nghị Đảng, Nhà nước ta mở rộng dân chủ, nhân quyền, công khai hóa
các thông tin trên báo chí, mạng xã hội, nhất là công khai các vấn đề
về chủ quyền biển, đảo, biên giới đất liền của Việt Nam, cho
rằng, Đảng ta“không được sợ Trung Quốc”; cần mở rộng mối quan hệ với
NATO và phương Tây để tạo thế cân bằng chiến lược, v.v..Sự thật không thể
chối cãi là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử hơn 37 năm đổi mới mà
nhân dân ta đã dành được là một thực tế không thể xuyên tạc; không thể
đảo ngược. Ai cũng biết rằng, đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, uy
tín và vị thế như ngày nay là nhờ Đảng, Nhà nước ta đã giải
quyết hiệu quả mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Mâu
thuẫn, bất đồng, xung đột vũ trang và chiến tranh là điều nhân dân Việt Nam
không bao giờ mong muốn. Vì thế, chúngta đã đứng lên cầm
súng đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ Tổ quốc; đã nhậnthức
đúng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc – hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.Vì thế, nhân dân ta có được cuộc sống hòa bình, độc
lập, tự do, ấm no, hạnh phúc hôm nay là nhờ kết quả của quá trình nhận thức
đúng và giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo. Nếu sai lầm trong giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì làm sao Nhân dân ta có được cơ đồ, thành
quả cách mạng to lớn như bây giờ. Những người xuyên tạc mối quan hệ biện chứng
giữa hai nhiệm vụ chiến lược này đã phớt lờ điều ấy nên rơi vào sai lầm, thật
đáng trách, đáng phải lên án. Theo
đuôi kẻ xấu, một số người đòi Đảng ta phải “phi chính trị hóa” quân đội, xuyên
tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” là phi lý, không thể chấp
nhận.Sức mạnh chiến đấu của quân đội ta là sức mạnh tổng hợp, không
chỉ là sự lớn mạnh của vũ khí, trang bị, mà còn là sức
mạnh của nhân tố chính trị - tinh thần; là sự giác ngộ mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu, suốt đời “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Vì
vậy, Quân đội ta đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng là một nguyên tắc “bất di bất dịch”; là
cội nguồn sức mạnh để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ai đó cho rằng một sốquân nhân cấp tá, cấp
tướng đã thoái hoá, biến chất do vi phạm kỷ luật của Quân đội, pháp
luật của Nhà nước để vu cáo Quân đội phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu,
bôi đen phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là vô lý, chỉ “nhìn thấy cây mà không thấy
rừng”, “chỉ biết một là không biết hai”. Cần phải thấy rằng một số rất ít quân
nhân vi phạm kỷ luật chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh”.
Nó không thể làm thay đổi bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ
Hồ”.Việc một số cán bộ thoái hoá, biến chất và bị xử lý kỷ
luật nghiêm minh là quy luật của sự đào thải, chính điều đó
đã làm cho quân đội ta ngày càng vững mạnh; Nhân dân ta càng thêm yêu quý
“Bộ đội Cụ Hồ”. Ở Việt Nam, việc Quân đội được Đảng, Nhà nước giao nhiệm
vụ tham gia sản xuất, phát triển kinh tế, thực hiện chức năng là đội
quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất là do đặc điểm lịch sử, tính tổ chức kỹ
luật chặt chẽ của lực lượng vũ trang cách mạngvì
nó thật sự cần thiết, lại liên quan trực tiếp đến chiến
lược phòng thủ của đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, hoàn
toàn không phải thích là làm như ai đó đã nói cho sướng miệng. Trên thực
tế, sự kết hợp các chức năng của quân đội đã phát huy tốt vai trò, tác
dụng, đem lại hiệu quả thiết thực trong phát triển một số lĩnh vực có
liên quan đến công nghiệp quốc phòng, an ninh; biên giới; biển, đảo, phát
triển kinh tế- xã hội, phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu
nạn, đóng góp một phần kinh phí cho quốc phòng, an ninh, xoá đói
giảm nghèo, phát triển đất nước. Mưu
đồ xuyên tạc mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc chỉ là cái cớ để các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ
ta. Vì lẽ đó, chúng ta cần vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn xấu xa của
chúng, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mơi.Lẽ phải và chân lý thuộc về
chúng ta, trở thành niềm tin, lẽ sống của mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu
CNXH. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam là góp phần đập tan âm mưu, thủ đoạn, hoạt
động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN và sự nghiệp đổi mới của Nhân dân ta
do các thế lực thù địch chủ mưu./.
Không thể phủ mờ những nỗ lực trong bảo đảm bình đẳng giới ở Việt Nam
Lợi dụng vấn đề tự do,
dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam, trong đó xuyên tạc vấn đề bình đẳng
giới là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động. Trong dịp kỷ niệm
Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, các luận điệu này lại được dịp “bung nở” trên nhiều
diễn đàn, mạng xã hội của các tổ chức, đối tượng chống phá.
Các thế
lực thù địch, tổ chức phản động sống lưu vong ở nước ngoài, các hãng truyền
thông định kiến với Việt Nam đã đăng, phát tán nhiều bài viết, hình ảnh, video
cố tình xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước ta về bình đẳng giới. Họ phủ nhận những nỗ lực, thành tựu của Việt Nam
trong bảo đảm bình đẳng giới, vu cáo Việt Nam không có bình đẳng giới, Việt Nam
phân biệt đối xử với phụ nữ, quyền của phụ nữ Việt Nam “bị đối xử nghiêm trọng,
bị bỏ rơi”. Họ rêu rao, dưới chế độ “đảng trị”, phụ nữ bất bình đẳng về kinh
tế, chính trị, giáo dục, y tế và “Đảng chỉ đưa ra những con số mị dân, lừa bịp
chị em”, cho rằng, bị phân biệt đối xử là “nỗi thống khổ của phụ nữ dưới chế độ
đảng trị”! Đây là những luận điệu sai trái, xuyên tạc của những kẻ đội lốt dân
chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam. Tung ra những luận điệu xảo trá như
vậy, mục đích của các thế lực thù địch nhằm gây ra sự phân tâm, hoài nghi của
nhân dân, trong đó có một bộ phận phụ nữ về các đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề bình đẳng giới, công tác phụ nữ. Từ
đó, họ cố gắng gieo rắc tâm lý mặc cảm, tự ti đối với phụ nữ, làm cho phụ nữ
thiếu tin tưởng về vị trí, vai trò của mình đối với gia đình, cộng đồng xã hội.
Tìm cách gieo rắc tư tưởng bị phân biệt, kỳ thị, làm giảm sự chung tay, cống
hiến đóng góp của phụ nữ trên các lĩnh vực đời sống xã hội, thậm chí gây tư
tưởng chia rẽ giữa phụ nữ các vùng miền, phụ nữ giữa các thành phần, dân tộc. Không
những vậy, các thế lực thù địch còn ra sức cổ xúy, thúc đẩy việc hình thành các
tổ chức, hội, nhóm đối lập do các đối tượng chống đối là phụ nữ cầm đầu hoặc có
sự tham gia của phụ nữ như “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”,
“Hội dân oan” … Những hội nhóm lấy danh nghĩa giúp đưa tiếng nói, ý chí, nguyện
vọng của nhân dân vào đóng góp xây dựng đất nước, kêu gọi quyền lợi cho phụ nữ
nhưng thực chất đây là số hội nhóm có thái độ, hành động chống phá đất nước
quyết liệt, được sự hậu thuẫn, hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, tổ
chức, cá nhân phản động sống lưu vong ở nước ngoài. Số này núp dưới danh nghĩa,
vỏ bọc “phản biện xã hội” để phản bội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản
lý xã hội của Nhà nước cũng như tầm quan trọng của các tổ chức chính trị – xã
hội, có những việc làm đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Ngay từ
khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ nam – nữ bình quyền là một
trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Bình đẳng giới và trao
quyền năng cho phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn là một trong
những mục tiêu chiến lược, lâu dài, quan trọng của Đảng, Nhà nước ta.
Về pháp
lý, Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp luật và chính sách khá
toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới được khẳng định trong Điều 26,
Hiến pháp 2013: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách
bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”. Cùng với đó, hệ thống văn bản pháp
luật từng bước cụ thể hóa Hiến pháp được hoàn thiện theo hướng bình đẳng giới
như: Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật
Lao động, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh, chữa
bệnh… Hệ thống chính sách, pháp luật nước ta đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế,
chúng ta đã tham gia ký kết nhiều công ước quốc tế và các chương trình nghị sự
lớn về quyền của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới. Về chính trị, Việt Nam chủ
trương khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy cơ quan công quyền. Các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng đề cao, phát huy vai trò của phụ nữ như: Nghị
quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công
tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình
mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ…Về kinh tế, từ nhiều năm trước, Chính
phủ ban hành nhiều nghị định ưu tiên hỗ trợ đối với phụ nữ như Nghị định số
114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 về tiền lương, khẳng định quyền bình đẳng giữa
lao động nam và lao động nữ trong việc trả lương; Nghị định số 33/2003/NĐ-CP
ngày 02/4/2003 của Chính phủ quy định không được xử lý kỷ luật lao động đối với
lao động nữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi và cả với
lao động nam đang phải nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi; Nghị định số
39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ quy định về những chính sách hỗ trợ
giải quyết việc làm cho các đối tượng là lao động nữ… Mặt khác, việc lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án
phát triển kinh tế – xã hội tạo tiền đề để thực thi bình đẳng giới ngày càng
hiệu quả hơn, các chính sách liên quan đến vai trò, vị trí của nam và nữ đều
được thực hiện bình đẳng như nhau. Về xã hội, Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày
30/6/2017 phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”; Đề
án thúc đẩy phụ nữ tham gia phát triển kinh tế, tăng thu nhập cũng như kết nối,
mở rộng liên kết, khuyến khích ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng khoa học
công nghệ cho phụ nữ và Quyết định số 938/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tuyên truyền,
giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên
quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 – 2027, được Chính phủ ban hành ngày 30/6/2017…
Các đề án này nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát huy vai trò chủ động của
phụ nữ trong ứng phó và tham gia giải quyết có hiệu quả một số vấn đề xã hội,
đề án hướng tới mục tiêu giảm thiểu những tác động tiêu cực, nâng cao chất
lượng cuộc sống phụ nữ, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước. Những năm qua, Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong thúc
đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ với một chiến lược rõ ràng, nhất
quán và phù hợp với thực tiễn. Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành
sớm nhất mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới, nâng cao vị thế cho phụ nữ
và hiện đang nỗ lực thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030,
trong đó có các mục tiêu về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và
trẻ em gái. Trên phương diện kinh tế, phụ nữ Việt Nam đang ngày càng khẳng định
được vị thế và vai trò của mình, có cơ hội để mang lại thu nhập cao hơn. Điều
đó góp phần quan trọng giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao trong thập kỷ qua. Số doanh nghiệp do nữ giới lãnh đạo, điều hành, quản lý
thành công ngày càng tăng cho thấy sự phấn đấu, trưởng thành, tiến bộ của phụ
nữ, mặt khác khẳng định bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế. Theo khảo sát
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam năm 2021, cứ 4 doanh nghiệp tư nhân sẽ có 1
doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo, nữ giới đóng góp tới 40% của cải cho nền kinh
tế Việt Nam. Báo cáo chỉ số nữ doanh nhân Mastercard (MIWE) năm 2021 cho thấy,
số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tại Việt Nam ở mức 26,5%, xếp thứ 9 trên 58
nền kinh tế được nghiên cứu về số lượng phụ nữ trong vai trò lãnh đạo. Trong
lĩnh vực chính trị, theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam là điểm sáng
trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới. Hiện nay,
trên tất cả các lĩnh vực đều có sự cống hiến của nữ giới, chất lượng, hiệu quả,
uy tín của cán bộ nữ đã ngày càng chứng tỏ nỗ lực cá nhân phụ nữ cũng như vai
trò của các cấp, các ngành trong quá trình thực hiện bình đẳng giới. Sau Đại
hội Đảng các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cán bộ nữ
tham gia cấp uỷ các cấp tăng cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, tỷ lệ nữ
ủy viên BCH Đảng bộ cấp tỉnh trung bình toàn quốc đạt 16%; có 61/63 tỉnh, thành
phố có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Trong Quốc hội, số lượng đại biểu nữ nhiệm
kỳ khóa XV là 30,26%, tăng 3,54% so với khoá XIV (26,72%). Kết quả bầu cử HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 cũng ghi nhận sự tăng lên của các nữ đại biểu,
trong đó tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt 29% (so với 26,5% của nhiệm kỳ
trước). Đối với văn hóa, giáo dục, phụ nữ Việt Nam ngày càng phát huy vai trò
không thể thiếu trong xây dựng văn hóa con người Việt Nam, văn hóa gia đình,
nếp sống khu dân cư, tích cực tham gia bài trừ các tập tục lạc hậu, mê tín, dị
đoan, có những cống hiến to lớn trong đánh thức tiềm năng văn hóa ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Đặc biệt,
trong giáo dục phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế, vai trò có đầy đủ phẩm chất,
năng lực trình độ để đảm nhận các vị trí quản lý, nhà giáo dục có trình độ học
vấn cao. Ông Jesper Morch, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đã đánh giá:
“Việt Nam là nước dẫn đầu khu vực châu Á-Thái Bình Dương về các chỉ số về bình
đẳng giới qua việc cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục tới các trẻ em gái, trẻ em
trai, phụ nữ và nam giới. Sự chênh lệnh về tỷ lệ nhập học giữa các em nữ và các
em nam là rất thấp”. Mặt khác, trong triển khai công tác đối ngoại của Việt Nam
thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ luôn là một trong những ưu
tiên. Việt Nam cũng đã cử các nữ sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình
của Liên hợp quốc. Liên quan đến vấn đề này, Đại sứ vương quốc Anh, Gareth Ward
trong năm đầu tiên làm đại sứ Anh tại Việt Nam (năm 2019) chia sẻ: “Tôi đã được
gặp nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt trong nhiều lĩnh vực khác nhau… Tôi cũng
đã gặp một nhóm nữ chiến sĩ thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc,
những người sẽ đại diện cho Việt Nam tham gia một trong những phái bộ gìn giữ
hòa bình nguy hiểm nhất của Liên hợp quốc tại Nam Sudan, góp phần vào hòa bình,
ổn định và an ninh toàn cầu”. Những kết quả này là minh chứng rõ nét cho thành
tựu nổi bật của việc bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây cũng là
cơ sở đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù
địch xung quanh vấn đề này.
Lãnh đạo bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên
Cương lĩnh của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định các phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó có phương
thức lãnh đạo bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Nhất là sự gương mẫu của
người đứng đầu.
Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định một trong những nguyên nhân
thắng lợi, bài học kinh nghiệm thành công của Đảng là: “Đề cao trách nhiệm của
cấp ủy, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu các
cấp; phát huy dân chủ; tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; huy động sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân,
góp phần nâng cao vị thế cầm quyền, khẳng định vai trò lãnh đạo, đường lối đúng
đắn của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng”. Trong khi đó, với âm mưu
thâm độc và thủ đoạn trắng trợn, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị đã tìm mọi cách để phá hoại Đảng Cộng sản Việt Nam và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Trong đó, chúng xuyên tạc, vu cáo đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, cho rằng cán bộ, đảng viên, thiếu gương mẫu,
không chịu rèn luyện, chỉ chuyên tham nhũng tiêu cực, còn Đảng thì bao che hoặc
có xử lý thì cũng chỉ là đấu đá nội bộ. Chúng quy kết đó là bản chất của Đảng Cộng
sản để từ đó chia rẽ, khích động hòng phá vỡ mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân, nhân dân với Đảng. Nhưng sự chống phá trên đã bị “bóc mẽ”, chứng minh là
sai trái bởi thực tế lịch sử của Đảng Cộng sản và cách mạng Việt Nam. Trong quá
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò đảng viên luôn được Hồ Chủ tịch và
Đảng quan tâm, chú trọng. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ
chức nên. Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do
đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần
chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực
hiện”. Và bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương ngời sáng cho sự
gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang góp phần tạo ra những chuyển biến
tích cực trong duy trì, phát triển sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên của Đảng.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên
tiên phong gương mẫu trong kháng chiến cũng như hòa bình, trong bảo vệ cũng như
xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên thể hiện
trong lời nói, việc làm, đóng vai trò hết sức quan trọng để Đảng vững vàng lãnh
đạo cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trước hết sự gương mẫu
được duy trì tốt trong nội bộ Đảng, thể hiện khi gương mẫu thực hiện nghiêm túc
đường lối, chính sách, quy định của Đảng. Hồ Chủ tịch thường xuyên yêu cầu toàn
thể đảng viên phải chấp hành theo đúng Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống
nhất của Đảng và sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương. Trong đó Người đặc biệt
nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải lưu ý đến nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê
bình và phê bình; nếu mỗi cán bộ, đảng viên tích cực tự kiểm điểm, tự phê
bình, tự sửa chữa như rửa mặt hằng ngày thì Đảng sẽ không có bệnh sẽvô cùng
khỏe mạnh. Đồng thời với gương mẫu trong Đảng, cán bộ, đảng viên còn phải gương
mẫu trong quan hệ với nhân dân, thực hiện đúng tinh thần Đảng là người dầy tớ
của nhân dân, “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Khi nói chuyện tại lớp
chỉnh huấn cán bộ trí thức vào tháng 8 - 1953, Hồ Chủ tịch căn dặn: “Đảng giáo
dục đảng viên phải gần gũi nhân dân, cán bộ ngoài Đảng; phải thật thà, không
lên mặt, biết sao nói vậy; không biết phải học hỏi quần chúng nhân dân, không
giấu dốt. Đối với mọi người, phải thật thà chân thành, không khách sáo, ngoại
giao. Làm như thế thì cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng tin nhau, đoàn kết, học
hỏi lẫn nhau để cùng tiến bộ”. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên cần duy trì
nghiêm túc ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, trong từng gia đình để tạo
môi trường lành mạnh từ gia đình ra cộng đồng xã hội. Vừa qua, có một số cán
bộ, đảng viên khi sinh hoạt nơi cộng đồng, tham gia giao thông đã có những lời
nói, việc làm thiếu gương mẫu, bị dư luận phê phán, tổ chức đảng đã thi hành kỷ
luật kịp thời nghiêm túc để ngăn ngừa, khắc phục, sửa chữa. Những năm gần đây,
Đảng ta và dư luận xã hội rất quan tâm đến sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên
trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Yêu cầu đặt ra cho bản thân
từng cán bộ, đảng viên phải tự giác gương mẫu không vi phạm và đồng thời phải
chủ động, tích cực tuyên truyền vận động để cấp dưới và người dân học tập, làm
theo. Về vấn đề này, tháng 10 - 1951, Hồ Chủ tịch từng dạy đội ngũ cán bộ trong
Quân đội nhân dân Việt Nam: “Các chú không lấy của công làm của tư, không lấy
chiến lợi phẩm về cho gia đình bè bạn mới chỉ là Liêm một nửa. Các chú phải dạy
cho bộ đội và khuyến khích nhân dân không lấy của công, không lấy chiến lợi
phẩm làm của riêng mới thật là Liêm”. Để cán bộ, đảng viên thực hiện hiệu quả
tính tiên phong gương mẫu, đòi hỏi các tổ chức đảng, hệ thống chính trị và nhân
dân có cơ chế chính sách, quy định, cách làm phù hợp, tích cực, tạo thuận lợi,
giúp đỡ, đồng hành cùng cán bộ, đảng viên trong tiên phong, gương mẫu. Trong
tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chủ tịch
chỉ rõ: “Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách
mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người
Đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải
hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế
độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh.
Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”. Đặc biệt phải tích cực bảo vệ những
cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm. Cần khen thưởng, giúp đỡ đảng viên như lời
Hồ Chủ tịch từ tháng 10 - 1947: “Cũng vì lợi ích của dân tộc, mà Đảng cần phải
khuyến khích và khen thưởng những ưu điểm và tài năng của đảng viên. Cần phải
giúp cho họ học hành, giúp cho họ làm việc và tùy theo hoàn cảnh mà giúp họ về
mặt sinh hoạt, trong lúc ốm đau. Khiến cho họ ham làm việc, vui làm việc”. Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng đề ra: “Có chính sách khuyến khích và cơ
chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu
thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám
làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn,
thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Nhưng quyết định
nhất vẫn là sự tự giác rèn luyện phấn đấu thật sự gương mẫu của mỗi đảng viên
trên cương vị, chức trách, nhiệm vụ của mình. Tự thân vận động luôn đem lại
hiệu quả thiết thực về nhiều mặt cho đảng viên trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn
cảnh, mọi cương vị, nhất là với những cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Đây cũng
là kinh nghiệm, là mục tiêu, yêu cầu thực tiễn và phương pháp lãnh đạo mà Đảng
đã xác định là phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng
viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Chúng ta tin tưởng
và kỳ vọng vào thành công của sự lãnh đạo của Đảng, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã khẳng định tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng : “Một đảng cách
mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân
dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi
trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”.
Lấp khoảng trống, không để sự thật bị xuyên tạc
Tham nhũng, tiêu cực không chỉ gây phương hại đến uy tín của
Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị mà còn gây ra những tổn thất nghiêm trọng
về kinh tế, phá hoại những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Chính vì vậy,
Đảng ta đã xác định phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những nội
dung cốt lõi, trọng tâm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây chính là
tiền đề, là điều kiện để phát triển kinh tế-xã hội được tốt hơn.
Thực tế cho thấy sau 10 năm hoạt động, Ban Chỉ đạo Trung ương về
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng
Ban đã có những chỉ đạo quyết liệt, có những bước đột phá trong cuộc chiến với
“quốc nạn” với “giặc nội xâm”. Với quan điểm, chủ trương xử lý “không có vùng
cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, trong giai đoạn này đã có hơn
170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý bị trừng phạt nghiêm khắc dưới
“thanh bảo kiếm” kỷ luật Đảng. Khi Đảng và Nhà nước càng chống tham nhũng quyết
liệt bao nhiêu thì những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ cuộc chiến chống “giặc
nội xâm” lại xuất hiện với tần suất ngày càng nhiều bấy nhiêu. Mỗi khi có vụ
việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực lớn được phát hiện, cán bộ lãnh đạo cấp cao bị
xử lý kỷ luật thì trên nhiều trang mạng của các tổ chức phản động như Việt Tân,
Hội Anh em dân chủ, các hãng truyền thông nước ngoài không có thiện cảm với
Việt Nam như: RFA, VOA, RFI, BBC News Tiếng Việt, Tiếng Dân… cùng các đối tượng
cơ hội chính trị đã lợi dụng triệt để vào công nghệ truyền thông, internet và
các trang mạng xã hội phát tán bài viết, hình ảnh xuyên tạc, bịa đặt cuộc chiến
chống “giặc nội xâm” của Đảng Cộng sản Việt Nam thực chất là “thanh trừng nội
bộ”, là “cuộc đấu đá phe phái, triệt hạ lẫn nhau”, “Cộng sản Việt Nam đang đánh
trận giả chứ không phải thực sự là để chống tham nhũng”… reo rắc sự hoài nghi
trong nội bộ, trong dư luận, chia rẽ cán bộ, đảng viên, chính quyền với nhân
dân, gây ảnh hưởng tới quá trình hội nhập và phát triển kinh tế-xã hội của Việt
Nam. Từ đó kêu gọi muốn chống tham nhũng thì phải “thay đổi chế độ, phải đa
nguyên, đa đảng, phải xây dựng xã hội dân sự…”. Đây không chỉ là cuộc chơi “con
chữ” mà là “cuộc chiến thông tin” trên không gian mạng. Các thủ đoạn chống phá
này ngày càng bài bản hơn, thâm hiểm hơn, có sự phối hợp giữa cá nhân, tổ chức
ở trong nước với nước ngoài. Không chỉ có người dân bị tác động tới suy nghĩ,
nhận thức, mà ngay cả một số cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị kém cũng dễ
bị rơi vào dòng xoáy của hiện tượng suy thoái về tư tưởng, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, đã trở thành vấn đề không nhỏ và rất nguy hiểm. Hiện nay, trong
đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ về cuộc chiến chống “giặc
nội xâm” đang lộ rõ một “khoảng trống” rất lớn. Đó là chúng ta đang thiếu một
hệ thống tuyên truyền phản kích lại việc phá hoại tư tưởng của các thế lực thù
địch. Các cơ quan truyền thông, báo chí rất lúng túng, rơi vào thế bị động
không biết phải xử lý thông tin đó thế nào, dẫn tới gần như bỏ ngỏ thông tin,
không kịp thời đưa ra tiếng nói phản bác. Việc tự tạo “khoảng lặng, khoảng
trống” về thông tin, tuyên truyền đã tạo điều kiện cho sự phản tuyên truyền của
các đối tượng thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị tự do tung hoành, lèo lái
thông tin, dẫn dắt độc giả đi từ hoang mang đến hồ nghi, dần dà suy giảm niềm
tin và không tin vào những nguồn tin chính thống. Mặc dù những điều đó là không
chính xác, không đúng bản chất của sự việc, nhưng vẫn được đông đảo người dân
tìm đọc. Tất nhiên, giữa thông tin xuyên tạc và thông tin phản bác bao giờ cũng
có độ trễ nhất định về thời gian, nhưng không thể đến hằng tuần được? Vì sau
đó, sự quan tâm của công chúng đã chuyển qua vấn đề khác và xã hội đã bị ảnh
hưởng nặng nề bởi các loại thông tin xuyên tạc, bịa đặt, hiệu quả của các thông
tin chính thống sẽ mất tác dụng, đồng nghĩa với niềm tin của người dân bị suy
giảm. Như vậy, để những thông tin chính thống, đúng sự thật không được đi sau
mạng xã hội để không tạo ra những “khoảng lặng, khoảng trống” trong thông tin,
tuyên truyền thì cần phải xây dựng ngay một hệ thống tuyên truyền phản kích có
khả năng tác nghiệp trên không gian mạng, dựa trên cơ sở lấy các cơ quan truyền
thông, báo chí cùng đội ngũ các nhà xã hội học, chuyên gia lý luận chính trị
làm lực lượng nòng cốt. Đây luôn phải được coi là nhiệm vụ chính trị đặc biệt
cần thiết và cần tập trung cải cách để có tư duy lý luận mới theo tinh thần “cọ
xát và đối thoại”, “phân tích và tranh luận” thì mới đủ sức cạnh tranh và đè
bẹp nhưng thông tin thất thiệt, xuyên tạc, bịa đặt. Các cơ quan chức năng, đơn
vị, địa phương phải loại bỏ các rào cản, tạo môi trường cho thông tin được công
khai, minh bạch, kịp thời cho truyền thông, báo chí thông báo công khai các kết
quả xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực để giải tỏa những băn khoăn cho
người dân, cộng thêm với việc áp dụng chế tài xử lý nghiêm khắc đối với hành vi
cản trở, bưng bít thông tin. Mỗi người dân không nên hùa theo những quan điểm
mang tính trào lưu, cần phải tỉnh táo, cần biết “gạn đục khơi trong”, nhận rõ
tính hai mặt của dư luận xã hội, cảnh giác với những thông tin xấu độc…Các cơ
quan truyên thông, báo chí, đội ngũ trí thức, các học giả cần đi trước một
bước, chủ động tiếp cận, khai thác thông tin và phối hợp các cơ quan chức năng
sử dụng công nghệ mạng, truyền thông mạng để kịp thời công bố tin, bài viết đấu
tranh, phản bác những luận điệu sai trái có tầm lý luận, mang ý nghĩa thực
tiễn, có tính thuyết phục, góp phần củng cố và bảo vệ đời sống tinh thần của xã
hội; kịp thời biểu dương những tập thể, cá nhân tích cực, lan tỏa những điều
tốt đẹp ra toàn xã hội; phải lưu ý, các bài viết phản bác không phải chỉ để
“dành tặng” các thế lực thù địch mà còn để giáo dục, thuyết phục đông đảo quần
chúng, bạn đọc nhận rõ bản chất, sự nguy hại của quan điểm sai trái, thù địch,
cùng đấu tranh, ủng hộ, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính
sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Cũng rất cần xây dựng, thiết lập các diễn
đàn để trao đổi, thảo luận trên các phương tiện truyền thông, nhất là lập diễn
đàn trên không gian mạng để tạo môi trường thuận lợi, phát huy dân chủ để cán
bộ, đảng viên và nhân dân chủ động thể hiện, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, quan
điểm, đề đạt kiến nghị… nhằm huy động trí tuệ, sáng kiến, tâm huyết, trách
nhiệm của các tầng lớp nhân dân vào quá trình bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa
phương phải tự rèn luyện, tu dưỡng liêm chính từ suy nghĩ tới hành động để quần
chúng nhân dân cùng phấn đấu, học tập làm theo. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên
cũng phải là một tuyên truyền viên tích cực cho cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực, chống các luận điệu sai trái, thù địch. Mỗi người dân không
nên hùa theo những quan điểm mang tính trào lưu, cần phải tỉnh táo, cần biết
“gạn đục khơi trong”, nhận rõ tính hai mặt của dư luận xã hội, cảnh giác với
những thông tin xấu độc, không chia sẻ bừa bãi trên mạng xã hội một cách vô
cảm, thiếu trách nhiệm để rồi vô tình vi phạm pháp luật, tiếp tay cho các hoạt
động chống phá.
Nhận diện âm mưu, thủ đoạn phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số
Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái thù địch hiện nay đối diện
nhiều khó khăn, phức tạp do việc các thế lực thù địch, phản động, các phần tử
cơ hội chính trị triệt để lợi dụng công nghệ số để xuyên tạc, hướng lái, lan
toả thông tin xấu độc với các thủ đoạn nguy hiểm.
Thời đại công nghệ số 4.0 làm thay đổi
tư duy, nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người với thế giới chung quanh.
Con người tiếp cận với tri thức nhanh chóng hơn, mở ra khả năng tương tác;
phương thức tác động của chính quyền với người dân đa dạng hơn, nhất là thông
qua mạng xã hội. Từ những tiến bộ về khoa học và công nghệ sẽ xuất hiện nhiều
hơn một số xu thế mang tính phổ quát bên cạnh những giá trị chung, truyền thống
trong quan hệ xã hội ở các quốc gia nói chung với nhiều mức độ, đặc điểm khác
nhau. Đó là xu thế dân chủ hóa đi đôi với cá thể hóa; xu thế đổi mới quản lý,
quản trị quốc gia và trách nhiệm giải trình (chuyển đổi hệ thống hành chính
mạnh mẽ sang chính phủ điện tử; phân cấp, phân quyền, minh bạch hóa thông tin;
tăng cường nguồn lực cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả); xu thế tăng cường vai trò giám sát của người dân đối với hoạt động của bộ
máy công quyền. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các hoạt động phá hoại nền
tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn công nghệ số được các thế lực thù địch,
phản động, phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng, thực hiện tinh vi và xảo
quyệt, nguy hiểm hơn. Trong thời đại công nghệ số đang phát triển như vũ bão,
các thế lực thù địch, phản động tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước ta hòng làm
suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước, gây hoang mang trong dư
luận xã hội. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học
công nghệ nhằm tận dụng đa dạng các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc
biệt là các mạng xã hội, xuất bản báo chí điện tử ở nước ngoài. Tài trợ cho một
số cơ quan báo chí nước ngoài chống phá Việt Nam (như VOA tiếng Việt, RFA, RFI,
BBC Việt ngữ, HRW…) để tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa đảng, hạ bệ uy tín
lãnh tụ, gây nghi kỵ, chia rẽ nội bộ; triệt để khai thác các sự kiện chính trị,
ngoại giao, những vấn đề nhân sự, nội bộ với các thông tin chưa được kiểm chứng
để mở các chiến dịch tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước ta. Thời gian qua, cùng
với sự phát triển của công nghệ thông tin, hình thức thể hiện của tự do ngôn
luận có sự biến đổi lớn. Internet, mạng xã hội trở thành công cụ phổ biến để
mọi cá nhân, tổ chức bày tỏ quan điểm, tư tưởng, truyền bá thông tin, thể hiện
quyền tự do ngôn luận. Sức lan tỏa và ảnh hưởng của nó rất mạnh mẽ và nhanh
chóng, tạo được sự chú ý, quan tâm theo dõi của số đông người dân, nhất là
những người có ảnh hưởng trong xã hội. Chỉ cần sở hữu phương tiện điện tử (điện
thoại thông minh, laptop) có kết nối Internet, cá nhân có quyền tự do truyền
đạt thông tin, ý kiến của mình đến người khác mọi nơi, mọi lúc. Tình trạng các
hội, nhóm chia sẻ những thông tin tiêu cực, thông tin sai trái, tin không rõ
nguồn, chưa được kiểm chứng… xuất hiện trên không gian mạng có xu hướng ngày
càng gia tăng gây tác động xấu đối với người sử dụng mạng nói riêng và việc giữ
gìn an ninh, trật tự xã hội nói chung. Thực tế này đang đòi hỏi các cơ quan
chức năng cần sớm có các biện pháp ngăn chặn hiệu quả cũng như đặt ra yêu cầu
mỗi người dân khi tham gia mạng xã hội phải hết sức tỉnh táo để không trở thành
nạn nhân của “thế giới ảo”. Thông qua các hội, nhóm, người dùng có thể tự do
bày tỏ ý kiến, quan điểm, đăng tải hay lan truyền thông tin, hình ảnh thông qua
tài khoản cá nhân của mình. Điều này mang đến những nguy cơ khi quyền này bị
lạm dụng, nhất là khi những người đăng tải thông tin trên không gian mạng có
quan điểm sai trái, thái độ cực đoan, có tư tưởng kỳ thị, nhận thức pháp luật
chưa đầy đủ dẫn đến bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động. Hoặc
vì động cơ cá nhân, một số trường hợp đã đăng tải thông tin sai sự thật, xâm
phạm đến lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Việc
lợi dụng các quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng đã và đang tiềm ẩn
nhiều nguy cơ mất an toàn cho cộng đồng. Theo dữ liệu thống kê từ We are
Social, tính đến tháng 1/2022, Việt Nam có 76,95 triệu người dùng mạng xã hội,
tương đương 78,1% tổng dân số. Chỉ tính trong hai năm 2021, 2022, số người dùng
mạng xã hội ở Việt Nam đã tăng 5 triệu người (6,9%). Với độ phủ sóng rộng cùng
một lượng lớn thời gian hoạt động và tương tác trên không gian mạng, những gì
người sử dụng thu nhận được sẽ tác động không nhỏ đến việc hình thành tư tưởng
và phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống, nhất là ở nhóm đối tượng vị thành
niên – lứa tuổi dễ đi theo những luồng tư tưởng mới, dễ bị tổn thương và kích
động tâm lý. Thông qua các nền tảng không gian mạng trong thời đại số, các thế
lực thù địch sử dụng những tin, bài, hình ảnh của báo chí chính thống trong
nước, sau đó tô vẽ thêm bớt, đưa ra những nội dung thật giả lẫn lộn, sai lệch
để đưa lên mạng xã hội. Chúng lập ra những trang/tài khoản núp dưới danh xưng
của các cơ quan của Đảng, Chính phủ, lãnh đạo cấp cao nhằm lôi kéo tâm lý hiếu
kỳ của công chúng, đánh vào khoảng trống thông tin mà báo chí chính thống trong
nước chưa đăng tải hoặc cần thời gian kiểm duyệt thông tin; ngụy tạo các bài viết
dưới những tiêu đề giật gân liên quan đến những vấn đề đang được dư luận quan
tâm… Những thủ đoạn lợi dụng nền tảng số nêu trên của các thế lực thù địch,
phản động, phần tử bất mãn đã dẫn dụ và lừa dối được một bộ phận người dân,
nhất là những người có tâm lý hiếu kỳ, tò mò muốn dò tìm các thông tin không
chính thống. Những cái “bẫy thông tin” mà các đối tượng thù địch, phản động, tổ
chức thiếu thiện chí với Việt Nam tung ra cũng đã khiến cho nhiều người nước
ngoài không phân biệt được thật giả và bị những dòng thông tin sai lệch này dẫn
dắt. Tình hình trên cho thấy, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong thời đại công nghệ số hiện nay
là rất khó khăn, phức tạp. Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng
cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch trong tình hình mới” được hình thành trên cơ sở tổng kết thực
tiễn gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam. Nghị quyết số 35-NQ/TW nêu rõ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Ðảng là bảo vệ Ðảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Ðảng; bảo vệ nhân dân,
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc;
giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Ðảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng,
chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn
dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác,
thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và đoàn thể chính trị – xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị,
của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Đẩy mạnh đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ
hội chính trị là một trong những nội dung trong 12 định hướng phát triển đất
nước giai đoạn 2021-2030 được Đảng ta xác định trong Văn kiện Đại hội XIII.
Việc tăng cường, đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh chống các luận điệu sai trái,
xuyên tạc không chỉ nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ và sự
ổn định của đất nước mà còn nhằm bảo vệ uy tín, hình ảnh Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập. Thực tế, những quan điểm thù địch, xuyên tạc bản chất của Nhà
nước Việt Nam XHCN hướng tới mục tiêu làm thay đổi bản chất dân chủ của Nhà
nước, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm làm chệch hướng. Bên
cạnh các quy định của pháp luật, các biện pháp quản lý không gian mạng từ cơ
quan có thẩm quyền thì vai trò của dư luận xã hội trong việc định hướng và điều
chỉnh hành vi đạo đức của con người thông qua cơ chế giám sát cũng hết sức cần thiết.
Cần nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo, định hướng, đảm bảo sự lãnh đạo tập
trung, thống nhất để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhất
là sức mạnh tổng hợp của các “binh chủng” công tác tư tưởng để thực hiện thắng
lợi đồng thời cả hai mục tiêu: Bảo vệ, phát triển, vận dụng sáng tạo nền tảng
tư tưởng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đẩy mạnh giáo
dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trách nhiệm của người sử dụng mạng internet,
nâng cao khả năng nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông tin của người dân và
cộng đồng, hình thành thói quen hành xử tích cực trên môi trường mạng. Đây là
giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài để mỗi người dân trở thành bộ lọc
thông tin hiệu quả cho chính mình và cộng đồng. Mỗi người khi sử dụng mạng
internet cần đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện rõ âm mưu, bản chất của các
thế lực thù địch để không tin, không bị lôi kéo, dẫn dắt trước các thông tin
xấu, độc.
Nỗ lực thúc đẩy quyền con người
Sáng 27-2, tại Geneva,
Thụy Sĩ, Phó thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt
Nam dự khai mạc và phát biểu tại Phiên họp cấp cao Khóa họp thường kỳ lần thứ
52 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ). Nội dung phiên họp đề cập đến
những vấn đề thời sự, cấp thiết hiện nay và những ưu tiên của cộng đồng quốc tế
trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên toàn thế giới.
Phát biểu tại Phiên
họp cấp cao, Phó thủ tướng Trần Lưu Quang thông báo về quyết
tâm, những nỗ lực, đồng thời đề cao những thành tựu của Việt Nam trong đổi mới,
phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an sinh xã hội,
bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người.
Phó thủ
tướng Trần Lưu Quang khẳng định phương châm của Việt Nam tham gia Hội đồng Nhân
quyền là “Tôn trọng và hiểu biết. Đối thoại và hợp tác. Tất cả các quyền con
người cho tất cả mọi người”. Từ đó, Trưởng đoàn Việt Nam kêu gọi các nước cần
thông hiểu và tôn trọng những đặc thù riêng của nhau, cùng đoàn kết, đối thoại
và hợp tác để giải quyết những vấn đề toàn cầu trên cơ sở đề cao chủ nghĩa đa
phương, tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ. Để bảo đảm sự thụ hưởng
đầy đủ các quyền con người trên phạm vi toàn cầu, Hội đồng Nhân quyền LHQ cần
đóng vai trò trung tâm trong thúc đẩy sự đối thoại một cách xây dựng, bình đẳng
và hợp tác hiệu quả giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng và hiểu biết lẫn
nhau và với cách tiếp cận tổng thể.
THI ĐUA YÊU NƯỚC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Thi đua là yêu nước và
yêu nước thì phải thi đua. Mỗi người tốt, mỗi việc làm tốt là một bông hoa đẹp.
Mong ước của Bác Hồ là làm sao để nhân rộng vườn hoa đẹp đó. Đây chính là tư
tưởng xuyên suốt của Người về mục đích và yêu cầu phải xây dựng các phong trào
thi đua ái quốc.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc vào năm 1948. Bắt đầu từ
thời điểm đó, thi đua yêu nước thực sự đã trở thành một phong trào sôi nổi,
rộng khắp, lôi cuốn tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề tham gia,
góp phần không nhỏ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay,
với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, việc triển khai
các phong trào thi đua ái quốc lại có thêm những sứ mệnh mới. Cùng với việc đấu
tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, nêu ra các căn bệnh “mãn tính”
thì cũng cần có những nhân tố điển hình tiên tiến, cách làm hay, việc làm tốt
để nhân lên những giá trị nhân văn, bác ái; mang lại không khí sôi nổi, lạc
quan cho toàn xã hội. Việc nghiên cứu tư tưởng thi đua yêu nước của Hồ Chí Minh
để có nhận thức đúng, từ đó vận dụng vào thực tiễn xây dựng và triển khai các
phong trào thi đua yêu nước cũng như công tác thi đua, khen thưởng trong bối
cảnh hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng. Hồ Chí Minh luôn đề vao vai trò của
thi đua ái quốc. Người cho rằng, thi đua chính là cách tốt nhất để nâng cao hơn
nữa những truyền thống oanh liệt, đoàn kết các lực lượng trong thực hiện nhiệm
vụ cách mạng và để làm được điều đó chỉ có cách thức phát động các phong trào
thi đua. Người nói: “Cuộc Thi đua ái quốc sẽ đưa chúng ta lên một trình độ cao
hơn trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, nó sẽ đưa chúng ta mau đến chỗ
thành công”. Phong trào thi đua ái quốc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động với
mong muốn đạt được kết quả cao nhất chính là: “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự
do, Dân sinh hạnh phúc” Mục tiêu này được nhấn mạnh trong suốt tiến trình cách
mạng do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ngày nay, với khẩu hiệu “Ðoàn
kết, sáng tạo, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào thi đua yêu nước
với mục tiêu xuyên suốt là phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị vào thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, nhiệm vụ cách
mạng có thể thay đổi nhưng mục tiêu cuối cùng hướng tới những giá trị cốt lõi
“độc lập, tự do, hạnh phúc” là không bao giờ thay đổi. Theo Hồ Chí Minh, thi
đua từ công việc hằng ngày của mỗi người. Đây là vấn đề rất cơ bản thuộc về cơ
sở, gốc rễ, nền tảng của thi đua. Chính trên nền tảng này mà các phong trào thi
đua sẽ được nảy sinh và diễn ra liên tục. Công việc hằng ngày là nền tảng của
thi đua, song không phải ai cũng hiểu rõ, hiểu đúng bản chất vấn đề. Hồ Chí
Minh đã thẳng thắn chỉ ra một số nhận thức sai lầm trong thực hiện các phong
trào thi đua như: “Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc
làm hàng ngày. Thật ra, công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ:
Từ trước đến giờ ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch
sẽ, cho hợp vệ sinh, cho khỏi đau ốm” Một là, hình thành văn hóa thi đua, tạo
ra các giá trị nhân văn để hình thành một xã hội tốt đẹp với những chuẩn mực
đạo đức làm nền tảng. Theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, với mục tiêu mang
đến hạnh phúc cho con người thì yếu tố xã hội tốt đẹp, môi trường đáng sống
cũng là một trong những tiêu chí mang lại hạnh phúc cho con người. Do đó, tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong thi đua yêu nước vẫn còn nguyên giá trị trong
hiện tại, khi chúng ta ra sức xây dựng và bảo vệ đất nước, song bị tác động
không nhỏ của mặt trái cơ chế thị trường, sự tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự
thật và âm mưu phá hoại cách mạng của các thế lực phản động trong và ngoài nước,
nên nảy sinh nhiều suy nghĩ và hành động sai trái như: bệnh quan liêu,bệnh công
thần, bệnh thành tích, cạnh tranh không lành mạnh, gian dối, vi phạm pháp luật.
Do đó, Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Để phát triển phong trào thi đua, chúng ta
phải chống bệnh quan liêu, chống nạn tham ô, lãng phí. Vì bệnh quan liêu sẽ
ngăn trở phong trào thi đua, làm nó chậm tiến, và nạn tham ô, lãng phí sẽ làm
giảm bớt những kết quả của phong trào thi đua” Hai là, tính rộng khắp, “toàn
dân, toàn diện”, mọi người, mọi ngành cùng thi đua góp phần tạo nên môi trường
sống tích cực, vui vẻ, hình thành những động lực cho phát triển. “Người người thi
đua, Ngành ngành thi đua” “Người này thi đua với người khác. Nhà này thi đua
với nhà khác. Làng này thi đua với làng khác”; “Chúng ta còn phải cố gắng nữa,
để tiến bộ nữa. Còn phải tiếp tục phong trào thi đua ái quốc, để theo cho kịp
các nước tiên tiến trên thế giới”. Sự rộng khắp, mạnh mẽ từ mỗi người, mỗi
ngành sẽ tạo thành một không khí thi đua sôi nổi, mang tới những kết quả tốt nhất.
Từ đó, Hồ Chí Minh đặt niềm tin vào sức mạnh và kết quả của một phong trào rộng
lớn có tính chất toàn quốc - phong trào thi đua yêu nước. Tóm lại, có thể khẳng
định rằng, những dự báo, định hướng của Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước vẫn vẹn
nguyên giá trị. Soi chiếu theo tư tưởng của Người, công tác thi đua, khen
thưởng hiện nay nói chung, việc xây dựng các phong trào thi đua yêu nước nói
riêng muốn đạt kết quả tốt cần chú trọng tới một số vấn đề sau: Một là, nâng
cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền đặc biệt là người đứng đầu
trong chỉ đạo các phong trào thi đua yêu nước để thi đua thực chất mà không
hình thức; Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền các phong trào thi đua yêu
nước, nhất là tuyên truyền về những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình
tiên tiến trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân rộng các giá trị
tích cực, tạo không khí sôi nổi cho xã hội; Ba là, bảo đảm các quy trình xây
dựng phong trào thi đua một cách khoa học và hiệu quả để tránh hình thức hóa
các phong trào thi đua hoặc có tác dụng ngược.
LÊ TRỌNG HÙNG NHẬN GIẢI “PHÓNG VIÊN VỈA HÈ 68 THÁNG BA 2023 TẾT QUÝ MÃO” LẠI THÊM MỘT TRÒ HỀ CỦA MẤY TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ
Dù
đang ở trong trại giam để chấp hành bản án phạt tù 5 năm tù về tội “Làm, tàng
trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 117, khoản 1,
điểm a,b,c - Bộ luật Hình sự nhưng Lê Trọng Hùng, sinh năm 1979, trú tại phường
Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội được cho là vừa được trao cái gọi là
“Giải Phóng Viên Vỉa Hè 68 tháng ba 2023 Tết Quý Mão”.
Đây
là giải thưởng được Vietnam Infor cùng với tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới
(Pháp), Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (Hoa Kỳ) và Quỹ Tù Nhân Lương Tâm (Úc)
đứng ra hậu thuẫn, tổ chức nhằm “vinh danh” những kẻ có hoạt độ.ng chố.ng phá
đất nước dưới vỏ bọc là các “nhà báo độc lập” như Lê Trọng Hùng. Không biết
”giải thưởng” này có giá trị về mặt kinh tế như thế nào nhưng vợ của Lê Trọng
Hùng là Tử Đình Hương lại tỏ ra vô cùng tự hào, thậm chí còn được một số trang
mạng như “Việt tân” lăng xê gửi lời cảm ơn đến ban tổ chức cũng như những người
đã ủng hộ cho Hùng trong thời gian qua. Đúng là được cả vợ lẫn chồng kiểu “cá
mè một lứa”.
Nên
nhớ rằng, Lê Trọng Hùng là người đã nhận hành vi vi phạm pháp luật tại phiên
toà xét xử sơ thẩm vào ngày 31/12/2021 và hiện nay cũng đang trong thời gian
chấp hành án phạt tù 5 năm (5 năm quản chế sau khi chấp hành xong án phạt tù).
Việc cổ vũ hay trao các “giải thưởng” này nọ cũng chỉ là những chiêu bài để cho
các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí lợi dụng nhằm chống phá Nhà nước Việt Nam. Chưa kể đó lại
là “phóng viên vỉa
hè” nữa thì biết chất lượng của giải thưởng thế nào rồi./.
TỈNH TÁO, NHẬN DIỆN ĐÚNG CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Hơn
36 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất
nước phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đời sống nhân
dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.
Thế
nhưng, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn vẫn cố tình phủ nhận
những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là đổi mới trên lĩnh vực
chính trị, xã hội. Họ ra sức xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta trên tất cả
lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại...
Thủ
đoạn tinh vi, khó lường
Về
chính trị: Trước hết, họ tập trung phê phán, xuyên tạc, chống phá Đảng Cộng sản
Việt Nam nắm quyền lãnh đạo đất nước, họ cho rằng, đó là “chế độ đảng trị”, độc
tài, mất dân chủ. Họ còn lợi dụng cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng” để xuyên
tạc rằng, đó là bằng chứng của vấn đề “Đảng đứng trên luật pháp”, “quyền lực xã
hội tập trung vào một số ít cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản”, “Đảng bao
biện làm thay Nhà nước”... Vấn đề Nhà nước, họ xuyên tạc rằng: “Nói là Nhà nước
pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng...”; “hệ thống
tổ chức, bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả”... Đối với Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội, họ cho rằng: “Hoạt động chỉ là
hình thức, kém hiệu quả”... Vấn đề xã hội, họ cho rằng: "Mất dân chủ, vi
phạm nhân quyền...".
Nhận
diện những vấn đề trên là một hoạt động khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, các đối
tượng thường sử dụng internet, mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter, Zalo...
và các phương tiện truyền thông khác như các đài phát thanh, truyền hình VOA,
RFA, BBC, RFI... để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá bằng những thủ đoạn hết
sức tinh vi, thâm độc, khó lường. Một trong những thủ đoạn nguy hiểm nhất mà họ
thường sử dụng, đó là mượn các thông tin, sự kiện có thật đã xảy ra, được công
bố trên các phương tiện thông tin đại chúng hay được phát tán thông qua mạng xã
hội để lồng ghép, biên tập, sửa chữa và thêm thắt các tình tiết ngụy tạo, bóp méo
rồi được tung ra như một dạng thông tin chính thống. Sau đó, thông qua các hình
thức tán phát, như bình luận theo chuyên đề, kể chuyện lịch sử, hội luận, ý
kiến chuyên gia, người trong cuộc, ngoài cuộc... để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo
lịch sử, bóp méo sự thật. Cuối cùng, thông qua sự tương tác, bình luận
(comment), ý kiến người đọc, người xem để định hướng dư luận theo ý đồ của họ.
Với những thủ đoạn tinh vi, dàn dựng khá bài bản, có thể họ đã lừa phỉnh được
một số người còn thiếu thông tin, nhận thức hạn chế, phiến diện. Thậm chí, có
cả một bộ phận cán bộ, đảng viên còn mơ hồ, dao động, đã cố tình hoặc vô ý cổ
xúy, tiếp sức cho các luận điệu sai trái, phản động, biểu hiện của "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa".
Từ
việc nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới
trên lĩnh vực chính trị - xã hội nói riêng, chúng ta thấy rằng,
vấn đề chính trị - xã hội ở Việt Nam luôn là mối quan tâm,
chống phá hàng đầu của các đối tượng này. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan
đến sự ổn định và phát triển đất nước. Mục tiêu sâu xa của chúng là gây mất ổn
định chính trị, xã hội, mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước, tất
yếu dẫn tới rối loạn chính trị-xã hội, khủng hoảng và sụp đổ, dẫn tới xóa bỏ
chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa
xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta.
Thực
tế sinh động, minh chứng thuyết phục
Thành
tựu sau hơn 36 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định tính đúng đắn, vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng,
nhân dân ta lựa chọn. Đó là, minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ những luận
điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Nhìn lại lịch
sử, những thành tựu đất nước đã đạt được trong công cuộc đổi mới, trong đó có
đổi mới chính trị - xã hội với bước đi, hình thức phù hợp
“toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
tổ chức và cán bộ”. Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có
thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về năng lực điều hành, quản lý đất nước có
nhiều chuyển biến mang tính đột phá. Hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ
thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng với quyết tâm
cao, hiệu quả thiết thực. Phát huy được mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ nhanh, hiệu quả các điểm nghẽn, vướng mắc;
đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả
hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; thực hiện
tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước; coi trọng chất
lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. Chính phủ và các bộ tập
trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề
lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và đạt kết quả
tích cực.
Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, với phương châm “Hướng mạnh về
cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội” đã phát huy tốt chức năng, vai trò bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân,
là cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố được lòng tin, sự gắn bó
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Những kết quả
tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ
nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động
của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, quyền làm chủ của nhân
dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ
đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn. Hệ
thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế,
tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn.
Những
kết quả đó khẳng định rằng đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn
như hiện nay. Mặt khác, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng,
Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ, như: Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới
kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm
nhiệm vụ. Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài
trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính
trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt; việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và
quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh
của đất nước chưa được phát huy đầy đủ... những hạn chế đó không thể ngày một,
ngày hai có thể khắc phục triệt để mà phải có một quá trình khắc phục kết hợp
với đổi mới lâu dài, khó khăn, phức tạp. Vấn đề là Đảng, Nhà nước đã thẳng thắn
nhìn nhận và khắc phục với quyết tâm cao nhất.
Từ
thực tiễn thành tựu và những hạn chế về đổi mới chính trị - xã
hội ở Việt Nam trong sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt
được là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô
hình phát triển đất nước là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm
không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền
tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, là luận cứ đanh thép
nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động,
thù địch, cơ hội chính trị thời gian qua./.