Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2023

NGĂN CHẶN VIỆC SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI NHƯ MỘT CÔNG CỤ KÍCH ĐỘNG HẬN THÙ, CHIA RẼ ĐOÀN KẾT

 Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, Internet và mạng xã hội đang ảnh hưởng ngày càng lớn đến mọi mặt đời sống xã hội. Chúng ta không phủ nhận những tiện ích to lớn mà mạng xã hội đem lại cho cộng đồng. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng những ưu thế mà mạng xã hội đem lại để tăng cường tuyên truyền, xuyên tạc nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Hàng nghìn trang mạng xã hội, blog,… được các thế lực thù địch, phản động lập ra để sử dụng như một công cụ chủ lực trong tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt nhằm kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và thế giới.

​Từ những trang mạng xã hội có địa chỉ ở nước ngoài, rất nhiều thông tin, tài liệu bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt, xấu độc được lan truyền gây ảnh hưởng tiêu cực đến cộng đồng cư dân mạng. Những sự kiện “nóng”, những vấn đề nhạy cảm, phức tạp các thế lực thù địch, phản động tập trung thời gian gần đây là: mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước, nhất là các nước lớn, đặc biệt phản ứng của Việt Nam trước các sự kiện quốc tế, trong đó có cuộc xung đột vũ trang giữa Nga và Ukraine; tình hình ở Biển Đông; những vấn đề liên quan đến dân chủ, nhân quyền; cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; nội dung các kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương, Chính phủ, Quốc hội, công tác nhân sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam…Chẳng hạn như xung quanh cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine, trên mạng xã hội họ bịa chuyện cho rằng nước này, nước kia “rất thất vọng” khi Việt Nam bỏ phiếu trắng. Họ trích dẫn ý kiến cá nhân của người này, người kia trên mạng xã hội từ đó suy diễn cho rằng Việt Nam bị “gây sức ép” khi bỏ phiếu tại Liên hợp quốc. Rồi họ quy kết: Vấn đề chính là Việt Nam không thể tự chủ trong đường lối đối ngoại cũng như phải nhìn “sắc mặt” của các cường quốc để ứng xử. Cũng chính từ đây họ hoài nghi đặt câu hỏi: Có hay không việc Việt Nam ủng hộ dùng vũ lực để giải quyết những bất đồng giữa Nga và Ukraine?... nhằm lợi dụng sự kiện ở Ukraine để chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới.
​Còn nhiều nữa những dẫn chứng có thể chỉ ra cho thấy mạng xã hội đang bị các đối tượng thù địch, tư tưởng phản động triệt để khai thác biến thành công cụ tuyên truyền kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế. Cần khẳng định rằng, những hành động đó không chỉ trái pháp luật Việt Nam mà còn vi phạm công ước quốc tế. “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” năm 1966 quy định rất rõ về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Khoản 2, Điều 19 của Công ước quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ”. Tuy nhiên, cần nhớ rằng, những quyền ấy không phải là quyền tuyệt đối, quyền lợi phải gắn với trách nhiệm và phải có ràng buộc: Khoản 3, Điều 19 “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” năm 1966 ghi rõ: “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
​Không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, không một quốc gia nào dung túng, bao che cho những hành động sử dụng Internet, mạng xã hội làm công cụ xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet trên cơ sở tuân thủ Công ước quốc tế và pháp luật Việt Nam. Chính phủ Việt Nam luôn chủ động phối hợp, tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, phát triển Internet và các phương tiện truyền thông hiện đại. Nhưng Việt Nam cũng làm hết sức mình để ngăn chặn thông tin xấu, độc, thông tin vi phạm pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế. Việt Nam luôn mong muốn chung tay với các nước, các tổ chức quốc tế xây dựng môi trường Internet lành mạnh, an toàn, hữu ích ở Việt Nam và toàn cầu. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Việt Nam lên án mạnh mẽ, đấu tranh kiên quyết, không cho phép bất kỳ ai được lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet để tán phát những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, những luận điệu thù hận, phỉ báng, kích động có thể gây căng thẳng, gây chia rẽ đoàn kết và đưa đến xung đột. Mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng Internet, mạng xã hội và phương tiện truyền thông đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật./.
ST


Sự khẳng định nhất quán tư tưởng lấy dân làm gốc

 Đây là sự khẳng định nhất quán tư tưởng lấy dân làm gốc, người dân là chủ thể, là mục đích, là trung tâm của mọi quá trình phát triển. Thế nhưng trên một số trang mạng, thế lực thù địch và những kẻ phản động cố tình xuyên tạc rằng, phương châm “dân thụ hưởng”, hay “lấy dân làm gốc” mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra là không thực chất, chỉ là mị dân. Nhưng cho dù kẻ xấu có xuyên tạc thế nào thì cũng không thể phủ nhận thực tế rằng, người dân Việt Nam đã và đang thực sự thụ hưởng thành quả cách mạng…

CÓ MỘT DI TÍCH LỊCH SỬ VIỆT NAM RẤT NỔI TIẾNG TRÊN TIKTOK


Theo các bạn, địa điểm du lịch nào ở Việt Nam được xem nhiều nhất trên Tiktok? Không phải Đà Nẵng, Nha Trang, Hạ Long, Đà Lạt... Đó chính là địa đạo Củ Chi, một di tích lịch sử cách mạng nằm ở phía Tây Bắc của TP. Hồ Chí Minh.
Cách đây 2 tháng, blogger du lịch từ Tây Ban Nha đã đăng tải hành trình trải nghiệm địa đạo Củ Chi và video của anh nhanh chóng nhận được 40 triệu lượt xem, trở thành một trong những video review du lịch được xem nhiều nhất năm 2023 tính đến thời điểm hiện tại. Tài khoản Tiktoker chuyên review du lịch Việt Nam là @unseenvietnamtours cũng thu được hơn 31 triệu lượt xem từ một video trải nghiệm các cạm bẫy tại vùng đất địa đạo khói lửa này. Reviewer @akasa.dinarga cũng thu được hơn 24 triệu lượt xem từ một hành trình trải nghiệm địa đạo Củ Chi…
Ngoài ra, chỉ cần tìm kiếm từ khóa “Cu Chi Tunnels”, các bạn sẽ thấy rất nhiều những video về xứ địa đạo huyền thoại này với lượt xem rất khủng và phần lớn người xem lẫn người đăng tải là người nước ngoài.
Địa đạo Củ Chi đem lại trải nghiệm đặc biệt với du khách, đặc biệt là du khách phương Tây. Trên Reddit, có một meme về địa đạo Củ Chi cực kỳ nổi tiếng, meme này nói về việc một hướng dẫn Việt thò lên từ một cửa hầm địa đạo khiến một người cựu binh la hét, sợ chết khiếp trong vòng 10 phút.
Địa đạo Củ Chi xuất hiện hàng chục lần trên phim bom tấn Hollywood, trên các cuốn hồi ký, phim tài liệu… Vô tình hành động này đã PR cho công trình địa đạo Củ Chi.
Một đặc thù có lẽ là không đâu có trên thế giới là các du khách sẽ được trải nghiệm những “cạm bẫy” - cũng là một phương pháp chiến đấu rất nổi tiếng của các chiến sĩ du kích Việt Nam sử dụng trong cuộc chiến bất đối xứng với quân thù.
Một người bạn của mình làm du lịch tại Củ Chi cho biết phần lớn khách đặt tour đi Củ Chi có quốc tịch phương Tây. Họ đến đây vì muốn trải nghiệm một công trình lịch sử vô tiền khoáng hậu trên thế giới, một di tích độc đáo mà không tìm được ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới…
Một di tích mà độ kì vĩ, lớn lao, ý nghĩa lịch sử không hề thua kém các di tích, công trình lịch sử khác ở trên thế giới.

Cần vạch trần, phản bác những luận điệu sai trái về giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

 


        Dựng nước đi đôi với giữ nước là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, được Đảng ta đúc kết, khái quát từ thực tiễn lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến, kiến quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở kế thừa, vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm về đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tính chân lý, giá trị và ý nghĩa của hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được khẳng định từ thực tiễn cuộc sống, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Nó toát lên sức thuyết phục bởi cơ sở khoa học không thể chối cãi; nhờ đó, đã bác bỏ cách nhìn siêu hình và các quan điểm lệch lạc, sai trái về mối quan hệ này. Nhận rõ vị trí, vai trò quan trọng của giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trịđã tìm mọi cách ngăn chặn sự ảnh hưởng và kết quả giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong đời sống xã hội bằng “cách nhìn siêu hình” nhằm cản trở công cuộc đổi mới của nhân dân ta; muốn Đảng ta phạm sai lầm trongnhận thức và giải quyết lệch chuẩn mối quan hệ này, dẫn tới tự sụp đổ và thất bại. Vì vậy, trên các trang mạng xã hội đã xuất hiện nhiều luồng ý kiến khác nhau với các quan điểm đối lập nhau; song, chúng có chung một mục đích là xuyên tạc bản chất, vai trò, giá trị và ý nghĩa của hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hướng lái dư luận, nhận thức của nhân dân theo khuynh hướng: tuyệt đối hóa mặt này hoặc coi nhẹ mặt kia và ngược lại nhằm hạ thấp uy tín, vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc bản chất mối quan hệ bao trùm, cơ bản, xuyên suốt trong phát triển cách mạng Việt Nam; hướng lái nước ta đi theo con đường TBCN. Loại ý kiến thứ nhất là tập trungthổi phồng nguy cơ chiến tranh, xung đột quân sự; bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN và trong quan hệ của Việt Nam với các nước lớn, các nước truyền thống, láng giềng. Chúng cho rằng, nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh đang cận kề và nó có thể bùng phát thành nội chiến và chiến tranh. Loại ý kiến này đang gieo vào lòng người dân sự nghingờ, lo lắng về tương lai, vận mệnh của đất nước; gây áp lực lên xã hội, buộc Đảng ta phải dồn tiền của, công sức, các nguồn lực cho quốc phòng, an ninh, nhất là mua sắm vũ khí, trang bị quân sự để đối phó với nguy cơ chiến tranh, từ đó suy yếu về kinh tế. Ý kiến này lấy sự kiện xung đột quân sự Nga - Ucraina để “hù dọa” và kiến nghị Đảng, Nhà nước ta phải “chạy đua vũ trang”. Từ đó, hy vọng Đảng, Nhà nước ta lơ là, sao nhãng nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng đất nước dẫn đếnsự yếu kém về mặt xây dựng, chậm phát triển kinh tế; làm cho đời sống của nhân dân xuống cấp; gây sự bức xúc, phản đối mạnh mẽ từ nhân dân; bào mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tính ưu việt của chế độ XHCN. Đây là một trong những âm mưu thâm độc nhất của thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chúng ta cần nhận thức đúng và hết sức cảnh giác. Cùng với đó, chúng sử dụng chiêu trò “hù doạ” nguy cơ chiến tranh từ sự tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông để cáo buộc Đảng ta “sợ mất vai trò cầm quyền, lãnh đạo, buộc phải duy trì số đôngbinh lính quân đội và công an để trấn áp ở bên trong, đàn áp bên ngoài nhằm bảo vệ “lợi ích của các phe nhóm quân đội và công an”. Hơn thế, chúng đề cao thái quá vai trò của quốc phòng, an ninh; cho rằng “Đảng CSVN muốn tạo ra lãnh địa riêng” để dễ bề dùng tiền thuế của dân,dễ tham ô, tham nhũng vì không ai có quyền kiểm soát lĩnh vực “đặc biệt” là quân sự, an ninh. Từ đó, chúng vu khốngĐảng ta bao che, dung túng cho “quân đội làm suy yếu đất nước”. Hơn thế, chúng đặt ra yêu cầu “Đảng, Nhà nước phải chấm dứt việc cho phép quân đội làm kinh tế vì đó là một hình thức bóc lột sức lao động của binh lính”. Chúng tung tin rằng, “quân đội các nước TBCN không làm kinh tế, chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nên không có tham nhũng”. Từ đó, chia rẽ quân đội với công an, lực lượng vũ trang với nhân dân để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an. Ngược lại, một số ý kiến khác lại tập trung nhấn mạnh vai trò quyết định của yếu tố kinh tế, của sản xuất vật chất, coi “thắng hay thua” của Việt Nam là do kinh tế và sức mạnh của tiền bạc quyết địnhTính thâm độc của loại ý kiến này là “lấy độc trị độc”; nghĩa là lấy lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quyết định của sản xuất vật chất, của nhân tố kinh tế đối với sự phát triển của xã hội để khẳng định tính chất phụ thuộc của chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào kinh tế nhằm lừa gạt nhân dân, nhất là những người dân nhẹ dạ cả tin theo hướng ngụy biện, xuyên tạc sự thật này. Đây là một chiêu trò đánh tráo khái niệm, lừa bịp, mỵ dân. Vì thế, chúng cho rằng thế kỷ XXI là thế kỷ hòa bình, không có chiến tranh nên khuyên Đảng, Nhà nước ta phải coi nhẹ các yếu tố quốc phòng, an ninh và luận giải sự không cần thiết phải xây dựng quân đội, công an hiện đại; không cần thiết phải chi tiêu “khoản ngân sách kếch xù” để nuôi quân đội, công an và xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Chúng tuyên truyền “kinh tế mạnh sẽ chiến thắng” và yêu cầu Đảng, Nhà nước ta phải giảm mạnh quân số thường trực; tinh giảm tối đa quân đội và công an. Sự lý giải sai trái này đã trở thành chỗ dựa cho quan điểm “phi chính trị hóa” quân đội; phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Đây là loại quan điểm “độc hại” rất nguy hiểm, cần phải vạch trần bản chất xấu sa của nó, phải kiên quyết đấu tranh phản bác. Việc khuyến nghị Đảng, Nhà nước ta đầu tư cho cho các tập đoàn kinh tế lớn, các khu công nghiệp mũi nhọn, mở mang thị trường, phát triển thương nghiệp. Đồng thời, mở cửa, đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn với các công ty tư bản nước ngoài để thu hút vốn, đội ngũ chuyên gia đến làm việc tại Việt Nam, v.v.. Thoạt nghe thì quan điểm này có điểm hợp lý nhưng suy xét kỹ, chúng ta thấy rõ mưu đồ phủ nhận mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; làm cho nhân dân ta lơ là, mất cảnh giác, thực hiện thiên lệch hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trái ngược với quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, có ý kiến đã cáo buộc Đảng, Nhà nước ta không quan tâm đến giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nên đã gây lãng phí nhiều nguồn lực quý...Theo chúng, Đảng, Nhà nước ta phải từ bỏ sự độc quyền về lĩnh vực công nghiệp quốc phòng vì không cần thiết; cần học kinh nghiệm của các nước TBCN để tư nhân hóa lĩnh vực này. Cùng với đó, khuyến nghị Đảng, Nhà nước ta mở rộng dân chủ, nhân quyền, công khai hóa các thông tin trên báo chí, mạng xã hội, nhất là công khai các vấn đề về chủ quyền biển, đảo, biên giới đất liền của Việt Nam, cho rằng, Đảng ta“không được sợ Trung Quốc”; cần mở rộng mối quan hệ với NATO và phương Tây để tạo thế cân bằng chiến lược, v.v..Sự thật không thể chối cãi là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử hơn 37 năm đổi mới mà nhân dân ta đã dành được là một thực tế không thể xuyên tạc; không thể đảo ngược. Ai cũng biết rằng, đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế như ngày nay là nhờ Đảng, Nhà nước ta đã giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Mâu thuẫn, bất đồng, xung đột vũ trang và chiến tranh là điều nhân dân Việt Nam không bao giờ mong muốn. Vì thế, chúngta đã đứng lên cầm súng đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ Tổ quốc; đã nhậnthức đúng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc – hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.Vì thế, nhân dân ta có được cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc hôm nay là nhờ kết quả của quá trình nhận thức đúng và giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo. Nếu sai lầm trong giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì làm sao Nhân dân ta có được cơ đồ, thành quả cách mạng to lớn như bây giờ. Những người xuyên tạc mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược này đã phớt lờ điều ấy nên rơi vào sai lầm, thật đáng trách, đáng phải lên án. Theo đuôi kẻ xấu, một số người đòi Đảng ta phải “phi chính trị hóa” quân đội, xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” là phi lý, không thể chấp nhận.Sức mạnh chiến đấu của quân đội ta là sức mạnh tổng hợp, không chỉ là sự lớn mạnh của vũ khí, trang bị, mà còn là sức mạnh của nhân tố chính trị - tinh thần; là sự giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, suốt đời “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Vì vậy, Quân đội ta đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng là một nguyên tắc “bất di bất dịch”; là cội nguồn sức mạnh để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ai đó cho rằng một sốquân nhân cấp tá, cấp tướng đã thoái hoá, biến chất do vi phạm kỷ luật của Quân đội, pháp luật của Nhà nước để vu cáo Quân đội phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bôi đen phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là vô lý, chỉ “nhìn thấy cây mà không thấy rừng”, “chỉ biết một là không biết hai”. Cần phải thấy rằng một số rất ít quân nhân vi phạm kỷ luật chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh”. Nó không thể làm thay đổi bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.Việc một số cán bộ thoái hoá, biến chất và bị xử lý kỷ luật nghiêm minh là quy luật của sự đào thải, chính điều đó đã làm cho quân đội ta ngày càng vững mạnh; Nhân dân ta càng thêm yêu quý “Bộ đội Cụ Hồ”. Ở Việt Nam, việc Quân đội được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ tham gia sản xuất, phát triển kinh tế, thực hiện chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất là do đặc điểm lịch sử, tính tổ chức kỹ luật chặt chẽ của lực lượng vũ trang cách mạngvì nó thật sự cần thiết, lại liên quan trực tiếp đến chiến lược phòng thủ của đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, hoàn toàn không phải thích là làm như ai đó đã nói cho sướng miệng. Trên thực tế, sự kết hợp các chức năng của quân đội đã phát huy tốt vai trò, tác dụng, đem lại hiệu quả thiết thực trong phát triển một số lĩnh vực có liên quan đến công nghiệp quốc phòng, an ninh; biên giới; biển, đảo, phát triển kinh tế- xã hội, phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, đóng góp một phần kinh phí cho quốc phòng, an ninh, xoá đói giảm nghèo, phát triển đất nước. Mưu đồ xuyên tạc mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chỉ là cái cớ để các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Vì lẽ đó, chúng ta cần vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn xấu xa của chúng, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mơi.Lẽ phải và chân lý thuộc về chúng ta, trở thành niềm tin, lẽ sống của mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu CNXH. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là góp phần đập tan âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN và sự nghiệp đổi mới của Nhân dân ta do các thế lực thù địch chủ mưu./.

 

Không thể phủ mờ những nỗ lực trong bảo đảm bình đẳng giới ở Việt Nam

 


Lợi dụng vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam, trong đó xuyên tạc vấn đề bình đẳng giới là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động. Trong dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, các luận điệu này lại được dịp “bung nở” trên nhiều diễn đàn, mạng xã hội của các tổ chức, đối tượng chống phá.

Các thế lực thù địch, tổ chức phản động sống lưu vong ở nước ngoài, các hãng truyền thông định kiến với Việt Nam đã đăng, phát tán nhiều bài viết, hình ảnh, video cố tình xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về bình đẳng giới. Họ phủ nhận những nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm bình đẳng giới, vu cáo Việt Nam không có bình đẳng giới, Việt Nam phân biệt đối xử với phụ nữ, quyền của phụ nữ Việt Nam “bị đối xử nghiêm trọng, bị bỏ rơi”. Họ rêu rao, dưới chế độ “đảng trị”, phụ nữ bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế và “Đảng chỉ đưa ra những con số mị dân, lừa bịp chị em”, cho rằng, bị phân biệt đối xử là “nỗi thống khổ của phụ nữ dưới chế độ đảng trị”! Đây là những luận điệu sai trái, xuyên tạc của những kẻ đội lốt dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam. Tung ra những luận điệu xảo trá như vậy, mục đích của các thế lực thù địch nhằm gây ra sự phân tâm, hoài nghi của nhân dân, trong đó có một bộ phận phụ nữ về các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề bình đẳng giới, công tác phụ nữ. Từ đó, họ cố gắng gieo rắc tâm lý mặc cảm, tự ti đối với phụ nữ, làm cho phụ nữ thiếu tin tưởng về vị trí, vai trò của mình đối với gia đình, cộng đồng xã hội. Tìm cách gieo rắc tư tưởng bị phân biệt, kỳ thị, làm giảm sự chung tay, cống hiến đóng góp của phụ nữ trên các lĩnh vực đời sống xã hội, thậm chí gây tư tưởng chia rẽ giữa phụ nữ các vùng miền, phụ nữ giữa các thành phần, dân tộc. Không những vậy, các thế lực thù địch còn ra sức cổ xúy, thúc đẩy việc hình thành các tổ chức, hội, nhóm đối lập do các đối tượng chống đối là phụ nữ cầm đầu hoặc có sự tham gia của phụ nữ như “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội dân oan” … Những hội nhóm lấy danh nghĩa giúp đưa tiếng nói, ý chí, nguyện vọng của nhân dân vào đóng góp xây dựng đất nước, kêu gọi quyền lợi cho phụ nữ nhưng thực chất đây là số hội nhóm có thái độ, hành động chống phá đất nước quyết liệt, được sự hậu thuẫn, hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, tổ chức, cá nhân phản động sống lưu vong ở nước ngoài. Số này núp dưới danh nghĩa, vỏ bọc “phản biện xã hội” để phản bội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý xã hội của Nhà nước cũng như tầm quan trọng của các tổ chức chính trị – xã hội, có những việc làm đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

 

 

Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ nam – nữ bình quyền là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Bình đẳng giới và trao quyền năng cho phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn là một trong những mục tiêu chiến lược, lâu dài, quan trọng của Đảng, Nhà nước ta.

Về pháp lý, Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp luật và chính sách khá toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới được khẳng định trong Điều 26, Hiến pháp 2013: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”. Cùng với đó, hệ thống văn bản pháp luật từng bước cụ thể hóa Hiến pháp được hoàn thiện theo hướng bình đẳng giới như: Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh, chữa bệnh… Hệ thống chính sách, pháp luật nước ta đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, chúng ta đã tham gia ký kết nhiều công ước quốc tế và các chương trình nghị sự lớn về quyền của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới. Về chính trị, Việt Nam chủ trương khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy cơ quan công quyền. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đề cao, phát huy vai trò của phụ nữ như: Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ…Về kinh tế, từ nhiều năm trước, Chính phủ ban hành nhiều nghị định ưu tiên hỗ trợ đối với phụ nữ như Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 về tiền lương, khẳng định quyền bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong việc trả lương; Nghị định số 33/2003/NĐ-CP ngày 02/4/2003 của Chính phủ quy định không được xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi và cả với lao động nam đang phải nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi; Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ quy định về những chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho các đối tượng là lao động nữ… Mặt khác, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội tạo tiền đề để thực thi bình đẳng giới ngày càng hiệu quả hơn, các chính sách liên quan đến vai trò, vị trí của nam và nữ đều được thực hiện bình đẳng như nhau. Về xã hội, Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”; Đề án thúc đẩy phụ nữ tham gia phát triển kinh tế, tăng thu nhập cũng như kết nối, mở rộng liên kết, khuyến khích ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ cho phụ nữ và Quyết định số 938/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 – 2027, được Chính phủ ban hành ngày 30/6/2017… Các đề án này nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát huy vai trò chủ động của phụ nữ trong ứng phó và tham gia giải quyết có hiệu quả một số vấn đề xã hội, đề án hướng tới mục tiêu giảm thiểu những tác động tiêu cực, nâng cao chất lượng cuộc sống phụ nữ, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Những năm qua, Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ với một chiến lược rõ ràng, nhất quán và phù hợp với thực tiễn. Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành sớm nhất mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới, nâng cao vị thế cho phụ nữ và hiện đang nỗ lực thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030, trong đó có các mục tiêu về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái. Trên phương diện kinh tế, phụ nữ Việt Nam đang ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò của mình, có cơ hội để mang lại thu nhập cao hơn. Điều đó góp phần quan trọng giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thập kỷ qua. Số doanh nghiệp do nữ giới lãnh đạo, điều hành, quản lý thành công ngày càng tăng cho thấy sự phấn đấu, trưởng thành, tiến bộ của phụ nữ, mặt khác khẳng định bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế. Theo khảo sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam năm 2021, cứ 4 doanh nghiệp tư nhân sẽ có 1 doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo, nữ giới đóng góp tới 40% của cải cho nền kinh tế Việt Nam. Báo cáo chỉ số nữ doanh nhân Mastercard (MIWE) năm 2021 cho thấy, số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tại Việt Nam ở mức 26,5%, xếp thứ 9 trên 58 nền kinh tế được nghiên cứu về số lượng phụ nữ trong vai trò lãnh đạo. Trong lĩnh vực chính trị, theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới. Hiện nay, trên tất cả các lĩnh vực đều có sự cống hiến của nữ giới, chất lượng, hiệu quả, uy tín của cán bộ nữ đã ngày càng chứng tỏ nỗ lực cá nhân phụ nữ cũng như vai trò của các cấp, các ngành trong quá trình thực hiện bình đẳng giới. Sau Đại hội Đảng các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cán bộ nữ tham gia cấp uỷ các cấp tăng cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, tỷ lệ nữ ủy viên BCH Đảng bộ cấp tỉnh trung bình toàn quốc đạt 16%; có 61/63 tỉnh, thành phố có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Trong Quốc hội, số lượng đại biểu nữ nhiệm kỳ khóa XV là 30,26%, tăng 3,54% so với khoá XIV (26,72%). Kết quả bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 cũng ghi nhận sự tăng lên của các nữ đại biểu, trong đó tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt 29% (so với 26,5% của nhiệm kỳ trước). Đối với văn hóa, giáo dục, phụ nữ Việt Nam ngày càng phát huy vai trò không thể thiếu trong xây dựng văn hóa con người Việt Nam, văn hóa gia đình, nếp sống khu dân cư, tích cực tham gia bài trừ các tập tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, có những cống hiến to lớn trong đánh thức tiềm năng văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Đặc biệt, trong giáo dục phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế, vai trò có đầy đủ phẩm chất, năng lực trình độ để đảm nhận các vị trí quản lý, nhà giáo dục có trình độ học vấn cao. Ông Jesper Morch, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đã đánh giá: “Việt Nam là nước dẫn đầu khu vực châu Á-Thái Bình Dương về các chỉ số về bình đẳng giới qua việc cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục tới các trẻ em gái, trẻ em trai, phụ nữ và nam giới. Sự chênh lệnh về tỷ lệ nhập học giữa các em nữ và các em nam là rất thấp”. Mặt khác, trong triển khai công tác đối ngoại của Việt Nam thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ luôn là một trong những ưu tiên. Việt Nam cũng đã cử các nữ sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Liên quan đến vấn đề này, Đại sứ vương quốc Anh, Gareth Ward trong năm đầu tiên làm đại sứ Anh tại Việt Nam (năm 2019) chia sẻ: “Tôi đã được gặp nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt trong nhiều lĩnh vực khác nhau… Tôi cũng đã gặp một nhóm nữ chiến sĩ thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, những người sẽ đại diện cho Việt Nam tham gia một trong những phái bộ gìn giữ hòa bình nguy hiểm nhất của Liên hợp quốc tại Nam Sudan, góp phần vào hòa bình, ổn định và an ninh toàn cầu”. Những kết quả này là minh chứng rõ nét cho thành tựu nổi bật của việc bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây cũng là cơ sở đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch xung quanh vấn đề này.

 

Lãnh đạo bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên

 


Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định các phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó có phương thức lãnh đạo bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Nhất là sự gương mẫu của người đứng đầu.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định một trong những nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh nghiệm thành công của Đảng là: “Đề cao trách nhiệm của cấp ủy, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu các cấp; phát huy dân chủ; tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, góp phần nâng cao vị thế cầm quyền, khẳng định vai trò lãnh đạo, đường lối đúng đắn của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng”. Trong khi đó, với âm mưu thâm độc và thủ đoạn trắng trợn, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã tìm mọi cách để phá hoại Đảng Cộng sản Việt Nam và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Trong đó, chúng xuyên tạc, vu cáo đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, cho rằng cán bộ, đảng viên, thiếu gương mẫu, không chịu rèn luyện, chỉ chuyên tham nhũng tiêu cực, còn Đảng thì bao che hoặc có xử lý thì cũng chỉ là đấu đá nội bộ. Chúng quy kết đó là bản chất của Đảng Cộng sản để từ đó chia rẽ, khích động hòng phá vỡ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhân dân với Đảng. Nhưng sự chống phá trên đã bị “bóc mẽ”, chứng minh là sai trái bởi thực tế lịch sử của Đảng Cộng sản và cách mạng Việt Nam. Trong quá xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò đảng viên luôn được Hồ Chủ tịch và Đảng quan tâm, chú trọng. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”. Và bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương ngời sáng cho sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong duy trì, phát triển sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên của Đảng. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên tiên phong gương mẫu trong kháng chiến cũng như hòa bình, trong bảo vệ cũng như xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên thể hiện trong lời nói, việc làm, đóng vai trò hết sức quan trọng để Đảng vững vàng lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trước hết sự gương mẫu được duy trì tốt trong nội bộ Đảng, thể hiện khi gương mẫu thực hiện nghiêm túc đường lối, chính sách, quy định của Đảng. Hồ Chủ tịch thường xuyên yêu cầu toàn thể đảng viên phải chấp hành theo đúng Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất của Đảng và sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương. Trong đó Người đặc biệt nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải lưu ý đến nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê  bình; nếu mỗi cán bộ, đảng viên tích cực tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như rửa mặt hằng ngày thì Đảng sẽ không có bệnh sẽvô cùng khỏe mạnh. Đồng thời với gương mẫu trong Đảng, cán bộ, đảng viên còn phải gương mẫu trong quan hệ với nhân dân, thực hiện đúng tinh thần Đảng là người dầy tớ của nhân dân, “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Khi nói chuyện tại lớp chỉnh huấn cán bộ trí thức vào tháng 8 - 1953, Hồ Chủ tịch căn dặn: “Đảng giáo dục đảng viên phải gần gũi nhân dân, cán bộ ngoài Đảng; phải thật thà, không lên mặt, biết sao nói vậy; không biết phải học hỏi quần chúng nhân dân, không giấu dốt. Đối với mọi người, phải thật thà chân thành, không khách sáo, ngoại giao. Làm như thế thì cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng tin nhau, đoàn kết, học hỏi lẫn nhau để cùng tiến bộ”. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên cần duy trì nghiêm túc ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, trong từng gia đình để tạo môi trường lành mạnh từ gia đình ra cộng đồng xã hội. Vừa qua, có một số cán bộ, đảng viên khi sinh hoạt nơi cộng đồng, tham gia giao thông đã có những lời nói, việc làm thiếu gương mẫu, bị dư luận phê phán, tổ chức đảng đã thi hành kỷ luật kịp thời nghiêm túc để ngăn ngừa, khắc phục, sửa chữa. Những năm gần đây, Đảng ta và dư luận xã hội rất quan tâm đến sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Yêu cầu đặt ra cho bản thân từng cán bộ, đảng viên phải tự giác gương mẫu không vi phạm và đồng thời phải chủ động, tích cực tuyên truyền vận động để cấp dưới và người dân học tập, làm theo. Về vấn đề này, tháng 10 - 1951, Hồ Chủ tịch từng dạy đội ngũ cán bộ trong Quân đội nhân dân Việt Nam: “Các chú không lấy của công làm của tư, không lấy chiến lợi phẩm về cho gia đình bè bạn mới chỉ là Liêm một nửa. Các chú phải dạy cho bộ đội và khuyến khích nhân dân không lấy của công, không lấy chiến lợi phẩm làm của riêng mới thật là Liêm”. Để cán bộ, đảng viên thực hiện hiệu quả tính tiên phong gương mẫu, đòi hỏi các tổ chức đảng, hệ thống chính trị và nhân dân có cơ chế chính sách, quy định, cách làm phù hợp, tích cực, tạo thuận lợi, giúp đỡ, đồng hành cùng cán bộ, đảng viên trong tiên phong, gương mẫu. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người Đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”. Đặc biệt phải tích cực bảo vệ những cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm. Cần khen thưởng, giúp đỡ đảng viên như lời Hồ Chủ tịch từ tháng 10 - 1947: “Cũng vì lợi ích của dân tộc, mà Đảng cần phải khuyến khích và khen thưởng những ưu điểm và tài năng của đảng viên. Cần phải giúp cho họ học hành, giúp cho họ làm việc và tùy theo hoàn cảnh mà giúp họ về mặt sinh hoạt, trong lúc ốm đau. Khiến cho họ ham làm việc, vui làm việc”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng đề ra: “Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Nhưng quyết định nhất vẫn là sự tự giác rèn luyện phấn đấu thật sự gương mẫu của mỗi đảng viên trên cương vị, chức trách, nhiệm vụ của mình. Tự thân vận động luôn đem lại hiệu quả thiết thực về nhiều mặt cho đảng viên trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, mọi cương vị, nhất là với những cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Đây cũng là kinh nghiệm, là mục tiêu, yêu cầu thực tiễn và phương pháp lãnh đạo mà Đảng đã xác định là phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Chúng ta tin tưởng và kỳ vọng vào thành công của sự lãnh đạo của Đảng, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng : “Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”.

 

Lấp khoảng trống, không để sự thật bị xuyên tạc


Tham nhũng, tiêu cực không chỉ gây phương hại đến uy tín của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị mà còn gây ra những tổn thất nghiêm trọng về kinh tế, phá hoại những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Chính vì vậy, Đảng ta đã xác định phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây chính là tiền đề, là điều kiện để phát triển kinh tế-xã hội được tốt hơn.

Thực tế cho thấy sau 10 năm hoạt động, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban đã có những chỉ đạo quyết liệt, có những bước đột phá trong cuộc chiến với “quốc nạn” với “giặc nội xâm”. Với quan điểm, chủ trương xử lý “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, trong giai đoạn này đã có hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý bị trừng phạt nghiêm khắc dưới “thanh bảo kiếm” kỷ luật Đảng. Khi Đảng và Nhà nước càng chống tham nhũng quyết liệt bao nhiêu thì những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ cuộc chiến chống “giặc nội xâm” lại xuất hiện với tần suất ngày càng nhiều bấy nhiêu. Mỗi khi có vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực lớn được phát hiện, cán bộ lãnh đạo cấp cao bị xử lý kỷ luật thì trên nhiều trang mạng của các tổ chức phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ, các hãng truyền thông nước ngoài không có thiện cảm với Việt Nam như: RFA, VOA, RFI, BBC News Tiếng Việt, Tiếng Dân… cùng các đối tượng cơ hội chính trị đã lợi dụng triệt để vào công nghệ truyền thông, internet và các trang mạng xã hội phát tán bài viết, hình ảnh xuyên tạc, bịa đặt cuộc chiến chống “giặc nội xâm” của Đảng Cộng sản Việt Nam thực chất là “thanh trừng nội bộ”, là “cuộc đấu đá phe phái, triệt hạ lẫn nhau”, “Cộng sản Việt Nam đang đánh trận giả chứ không phải thực sự là để chống tham nhũng”… reo rắc sự hoài nghi trong nội bộ, trong dư luận, chia rẽ cán bộ, đảng viên, chính quyền với nhân dân, gây ảnh hưởng tới quá trình hội nhập và phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Từ đó kêu gọi muốn chống tham nhũng thì phải “thay đổi chế độ, phải đa nguyên, đa đảng, phải xây dựng xã hội dân sự…”. Đây không chỉ là cuộc chơi “con chữ” mà là “cuộc chiến thông tin” trên không gian mạng. Các thủ đoạn chống phá này ngày càng bài bản hơn, thâm hiểm hơn, có sự phối hợp giữa cá nhân, tổ chức ở trong nước với nước ngoài. Không chỉ có người dân bị tác động tới suy nghĩ, nhận thức, mà ngay cả một số cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị kém cũng dễ bị rơi vào dòng xoáy của hiện tượng suy thoái về tư tưởng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đã trở thành vấn đề không nhỏ và rất nguy hiểm. Hiện nay, trong đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ về cuộc chiến chống “giặc nội xâm” đang lộ rõ một “khoảng trống” rất lớn. Đó là chúng ta đang thiếu một hệ thống tuyên truyền phản kích lại việc phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch. Các cơ quan truyền thông, báo chí rất lúng túng, rơi vào thế bị động không biết phải xử lý thông tin đó thế nào, dẫn tới gần như bỏ ngỏ thông tin, không kịp thời đưa ra tiếng nói phản bác. Việc tự tạo “khoảng lặng, khoảng trống” về thông tin, tuyên truyền đã tạo điều kiện cho sự phản tuyên truyền của các đối tượng thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị tự do tung hoành, lèo lái thông tin, dẫn dắt độc giả đi từ hoang mang đến hồ nghi, dần dà suy giảm niềm tin và không tin vào những nguồn tin chính thống. Mặc dù những điều đó là không chính xác, không đúng bản chất của sự việc, nhưng vẫn được đông đảo người dân tìm đọc. Tất nhiên, giữa thông tin xuyên tạc và thông tin phản bác bao giờ cũng có độ trễ nhất định về thời gian, nhưng không thể đến hằng tuần được? Vì sau đó, sự quan tâm của công chúng đã chuyển qua vấn đề khác và xã hội đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi các loại thông tin xuyên tạc, bịa đặt, hiệu quả của các thông tin chính thống sẽ mất tác dụng, đồng nghĩa với niềm tin của người dân bị suy giảm. Như vậy, để những thông tin chính thống, đúng sự thật không được đi sau mạng xã hội để không tạo ra những “khoảng lặng, khoảng trống” trong thông tin, tuyên truyền thì cần phải xây dựng ngay một hệ thống tuyên truyền phản kích có khả năng tác nghiệp trên không gian mạng, dựa trên cơ sở lấy các cơ quan truyền thông, báo chí cùng đội ngũ các nhà xã hội học, chuyên gia lý luận chính trị làm lực lượng nòng cốt. Đây luôn phải được coi là nhiệm vụ chính trị đặc biệt cần thiết và cần tập trung cải cách để có tư duy lý luận mới theo tinh thần “cọ xát và đối thoại”, “phân tích và tranh luận” thì mới đủ sức cạnh tranh và đè bẹp nhưng thông tin thất thiệt, xuyên tạc, bịa đặt. Các cơ quan chức năng, đơn vị, địa phương phải loại bỏ các rào cản, tạo môi trường cho thông tin được công khai, minh bạch, kịp thời cho truyền thông, báo chí thông báo công khai các kết quả xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực để giải tỏa những băn khoăn cho người dân, cộng thêm với việc áp dụng chế tài xử lý nghiêm khắc đối với hành vi cản trở, bưng bít thông tin. Mỗi người dân không nên hùa theo những quan điểm mang tính trào lưu, cần phải tỉnh táo, cần biết “gạn đục khơi trong”, nhận rõ tính hai mặt của dư luận xã hội, cảnh giác với những thông tin xấu độc…Các cơ quan truyên thông, báo chí, đội ngũ trí thức, các học giả cần đi trước một bước, chủ động tiếp cận, khai thác thông tin và phối hợp các cơ quan chức năng sử dụng công nghệ mạng, truyền thông mạng để kịp thời công bố tin, bài viết đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái có tầm lý luận, mang ý nghĩa thực tiễn, có tính thuyết phục, góp phần củng cố và bảo vệ đời sống tinh thần của xã hội; kịp thời biểu dương những tập thể, cá nhân tích cực, lan tỏa những điều tốt đẹp ra toàn xã hội; phải lưu ý, các bài viết phản bác không phải chỉ để “dành tặng” các thế lực thù địch mà còn để giáo dục, thuyết phục đông đảo quần chúng, bạn đọc nhận rõ bản chất, sự nguy hại của quan điểm sai trái, thù địch, cùng đấu tranh, ủng hộ, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Cũng rất cần xây dựng, thiết lập các diễn đàn để trao đổi, thảo luận trên các phương tiện truyền thông, nhất là lập diễn đàn trên không gian mạng để tạo môi trường thuận lợi, phát huy dân chủ để cán bộ, đảng viên và nhân dân chủ động thể hiện, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, quan điểm, đề đạt kiến nghị… nhằm huy động trí tuệ, sáng kiến, tâm huyết, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân vào quá trình bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải tự rèn luyện, tu dưỡng liêm chính từ suy nghĩ tới hành động để quần chúng nhân dân cùng phấn đấu, học tập làm theo. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cũng phải là một tuyên truyền viên tích cực cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, chống các luận điệu sai trái, thù địch. Mỗi người dân không nên hùa theo những quan điểm mang tính trào lưu, cần phải tỉnh táo, cần biết “gạn đục khơi trong”, nhận rõ tính hai mặt của dư luận xã hội, cảnh giác với những thông tin xấu độc, không chia sẻ bừa bãi trên mạng xã hội một cách vô cảm, thiếu trách nhiệm để rồi vô tình vi phạm pháp luật, tiếp tay cho các hoạt động chống phá.

 

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số

 


         Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái thù địch hiện nay đối diện nhiều khó khăn, phức tạp do việc các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng công nghệ số để xuyên tạc, hướng lái, lan toả thông tin xấu độc với các thủ đoạn nguy hiểm.

         Thời đại công nghệ số 4.0 làm thay đổi tư duy, nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người với thế giới chung quanh. Con người tiếp cận với tri thức nhanh chóng hơn, mở ra khả năng tương tác; phương thức tác động của chính quyền với người dân đa dạng hơn, nhất là thông qua mạng xã hội. Từ những tiến bộ về khoa học và công nghệ sẽ xuất hiện nhiều hơn một số xu thế mang tính phổ quát bên cạnh những giá trị chung, truyền thống trong quan hệ xã hội ở các quốc gia nói chung với nhiều mức độ, đặc điểm khác nhau. Đó là xu thế dân chủ hóa đi đôi với cá thể hóa; xu thế đổi mới quản lý, quản trị quốc gia và trách nhiệm giải trình (chuyển đổi hệ thống hành chính mạnh mẽ sang chính phủ điện tử; phân cấp, phân quyền, minh bạch hóa thông tin; tăng cường nguồn lực cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả); xu thế tăng cường vai trò giám sát của người dân đối với hoạt động của bộ máy công quyền. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các hoạt động phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn công nghệ số được các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng, thực hiện tinh vi và xảo quyệt, nguy hiểm hơn. Trong thời đại công nghệ số đang phát triển như vũ bão, các thế lực thù địch, phản động tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước ta hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước, gây hoang mang trong dư luận xã hội. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ nhằm tận dụng đa dạng các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là các mạng xã hội, xuất bản báo chí điện tử ở nước ngoài. Tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chống phá Việt Nam (như VOA tiếng Việt, RFA, RFI, BBC Việt ngữ, HRW…) để tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa đảng, hạ bệ uy tín lãnh tụ, gây nghi kỵ, chia rẽ nội bộ; triệt để khai thác các sự kiện chính trị, ngoại giao, những vấn đề nhân sự, nội bộ với các thông tin chưa được kiểm chứng để mở các chiến dịch tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước ta. Thời gian qua, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, hình thức thể hiện của tự do ngôn luận có sự biến đổi lớn. Internet, mạng xã hội trở thành công cụ phổ biến để mọi cá nhân, tổ chức bày tỏ quan điểm, tư tưởng, truyền bá thông tin, thể hiện quyền tự do ngôn luận. Sức lan tỏa và ảnh hưởng của nó rất mạnh mẽ và nhanh chóng, tạo được sự chú ý, quan tâm theo dõi của số đông người dân, nhất là những người có ảnh hưởng trong xã hội. Chỉ cần sở hữu phương tiện điện tử (điện thoại thông minh, laptop) có kết nối Internet, cá nhân có quyền tự do truyền đạt thông tin, ý kiến của mình đến người khác mọi nơi, mọi lúc. Tình trạng các hội, nhóm chia sẻ những thông tin tiêu cực, thông tin sai trái, tin không rõ nguồn, chưa được kiểm chứng… xuất hiện trên không gian mạng có xu hướng ngày càng gia tăng gây tác động xấu đối với người sử dụng mạng nói riêng và việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội nói chung. Thực tế này đang đòi hỏi các cơ quan chức năng cần sớm có các biện pháp ngăn chặn hiệu quả cũng như đặt ra yêu cầu mỗi người dân khi tham gia mạng xã hội phải hết sức tỉnh táo để không trở thành nạn nhân của “thế giới ảo”. Thông qua các hội, nhóm, người dùng có thể tự do bày tỏ ý kiến, quan điểm, đăng tải hay lan truyền thông tin, hình ảnh thông qua tài khoản cá nhân của mình. Điều này mang đến những nguy cơ khi quyền này bị lạm dụng, nhất là khi những người đăng tải thông tin trên không gian mạng có quan điểm sai trái, thái độ cực đoan, có tư tưởng kỳ thị, nhận thức pháp luật chưa đầy đủ dẫn đến bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động. Hoặc vì động cơ cá nhân, một số trường hợp đã đăng tải thông tin sai sự thật, xâm phạm đến lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Việc lợi dụng các quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng đã và đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn cho cộng đồng. Theo dữ liệu thống kê từ We are Social, tính đến tháng 1/2022, Việt Nam có 76,95 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 78,1% tổng dân số. Chỉ tính trong hai năm 2021, 2022, số người dùng mạng xã hội ở Việt Nam đã tăng 5 triệu người (6,9%). Với độ phủ sóng rộng cùng một lượng lớn thời gian hoạt động và tương tác trên không gian mạng, những gì người sử dụng thu nhận được sẽ tác động không nhỏ đến việc hình thành tư tưởng và phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống, nhất là ở nhóm đối tượng vị thành niên – lứa tuổi dễ đi theo những luồng tư tưởng mới, dễ bị tổn thương và kích động tâm lý. Thông qua các nền tảng không gian mạng trong thời đại số, các thế lực thù địch sử dụng những tin, bài, hình ảnh của báo chí chính thống trong nước, sau đó tô vẽ thêm bớt, đưa ra những nội dung thật giả lẫn lộn, sai lệch để đưa lên mạng xã hội. Chúng lập ra những trang/tài khoản núp dưới danh xưng của các cơ quan của Đảng, Chính phủ, lãnh đạo cấp cao nhằm lôi kéo tâm lý hiếu kỳ của công chúng, đánh vào khoảng trống thông tin mà báo chí chính thống trong nước chưa đăng tải hoặc cần thời gian kiểm duyệt thông tin; ngụy tạo các bài viết dưới những tiêu đề giật gân liên quan đến những vấn đề đang được dư luận quan tâm… Những thủ đoạn lợi dụng nền tảng số nêu trên của các thế lực thù địch, phản động, phần tử bất mãn đã dẫn dụ và lừa dối được một bộ phận người dân, nhất là những người có tâm lý hiếu kỳ, tò mò muốn dò tìm các thông tin không chính thống. Những cái “bẫy thông tin” mà các đối tượng thù địch, phản động, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam tung ra cũng đã khiến cho nhiều người nước ngoài không phân biệt được thật giả và bị những dòng thông tin sai lệch này dẫn dắt. Tình hình trên cho thấy, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong thời đại công nghệ số hiện nay là rất khó khăn, phức tạp. Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” được hình thành trên cơ sở tổng kết thực tiễn gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Nghị quyết số 35-NQ/TW nêu rõ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị – xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị là một trong những nội dung trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đảng ta xác định trong Văn kiện Đại hội XIII. Việc tăng cường, đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh chống các luận điệu sai trái, xuyên tạc không chỉ nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ và sự ổn định của đất nước mà còn nhằm bảo vệ uy tín, hình ảnh Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Thực tế, những quan điểm thù địch, xuyên tạc bản chất của Nhà nước Việt Nam XHCN hướng tới mục tiêu làm thay đổi bản chất dân chủ của Nhà nước, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm làm chệch hướng. Bên cạnh các quy định của pháp luật, các biện pháp quản lý không gian mạng từ cơ quan có thẩm quyền thì vai trò của dư luận xã hội trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi đạo đức của con người thông qua cơ chế giám sát cũng hết sức cần thiết. Cần nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo, định hướng, đảm bảo sự lãnh đạo tập trung, thống nhất để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhất là sức mạnh tổng hợp của các “binh chủng” công tác tư tưởng để thực hiện thắng lợi đồng thời cả hai mục tiêu: Bảo vệ, phát triển, vận dụng sáng tạo nền tảng tư tưởng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trách nhiệm của người sử dụng mạng internet, nâng cao khả năng nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông tin của người dân và cộng đồng, hình thành thói quen hành xử tích cực trên môi trường mạng. Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài để mỗi người dân trở thành bộ lọc thông tin hiệu quả cho chính mình và cộng đồng. Mỗi người khi sử dụng mạng internet cần đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện rõ âm mưu, bản chất của các thế lực thù địch để không tin, không bị lôi kéo, dẫn dắt trước các thông tin xấu, độc.

 

Nỗ lực thúc đẩy quyền con người

 


Sáng 27-2, tại Geneva, Thụy Sĩ, Phó thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam dự khai mạc và phát biểu tại Phiên họp cấp cao Khóa họp thường kỳ lần thứ 52 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ). Nội dung phiên họp đề cập đến những vấn đề thời sự, cấp thiết hiện nay và những ưu tiên của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên toàn thế giới.

Phát biểu tại Phiên họp cấp cao, Phó thủ tướng Trần Lưu Quang thông báo về quyết tâm, những nỗ lực, đồng thời đề cao những thành tựu của Việt Nam trong đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người.

Phó thủ tướng Trần Lưu Quang khẳng định phương châm của Việt Nam tham gia Hội đồng Nhân quyền là “Tôn trọng và hiểu biết. Đối thoại và hợp tác. Tất cả các quyền con người cho tất cả mọi người”. Từ đó, Trưởng đoàn Việt Nam kêu gọi các nước cần thông hiểu và tôn trọng những đặc thù riêng của nhau, cùng đoàn kết, đối thoại và hợp tác để giải quyết những vấn đề toàn cầu trên cơ sở đề cao chủ nghĩa đa phương, tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ. Để bảo đảm sự thụ hưởng đầy đủ các quyền con người trên phạm vi toàn cầu, Hội đồng Nhân quyền LHQ cần đóng vai trò trung tâm trong thúc đẩy sự đối thoại một cách xây dựng, bình đẳng và hợp tác hiệu quả giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau và với cách tiếp cận tổng thể.

 

THI ĐUA YÊU NƯỚC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 


Thi đua là yêu nước và yêu nước thì phải thi đua. Mỗi người tốt, mỗi việc làm tốt là một bông hoa đẹp. Mong ước của Bác Hồ là làm sao để nhân rộng vườn hoa đẹp đó. Đây chính là tư tưởng xuyên suốt của Người về mục đích và yêu cầu phải xây dựng các phong trào thi đua ái quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc vào năm 1948. Bắt đầu từ thời điểm đó, thi đua yêu nước thực sự đã trở thành một phong trào sôi nổi, rộng khắp, lôi cuốn tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề tham gia, góp phần không nhỏ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, việc triển khai các phong trào thi đua ái quốc lại có thêm những sứ mệnh mới. Cùng với việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, nêu ra các căn bệnh “mãn tính” thì cũng cần có những nhân tố điển hình tiên tiến, cách làm hay, việc làm tốt để nhân lên những giá trị nhân văn, bác ái; mang lại không khí sôi nổi, lạc quan cho toàn xã hội. Việc nghiên cứu tư tưởng thi đua yêu nước của Hồ Chí Minh để có nhận thức đúng, từ đó vận dụng vào thực tiễn xây dựng và triển khai các phong trào thi đua yêu nước cũng như công tác thi đua, khen thưởng trong bối cảnh hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng. Hồ Chí Minh luôn đề vao vai trò của thi đua ái quốc. Người cho rằng, thi đua chính là cách tốt nhất để nâng cao hơn nữa những truyền thống oanh liệt, đoàn kết các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng và để làm được điều đó chỉ có cách thức phát động các phong trào thi đua. Người nói: “Cuộc Thi đua ái quốc sẽ đưa chúng ta lên một trình độ cao hơn trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, nó sẽ đưa chúng ta mau đến chỗ thành công”. Phong trào thi đua ái quốc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động với mong muốn đạt được kết quả cao nhất chính là: “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc” Mục tiêu này được nhấn mạnh trong suốt tiến trình cách mạng do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ngày nay, với khẩu hiệu “Ðoàn kết, sáng tạo, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào thi đua yêu nước với mục tiêu xuyên suốt là phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị vào thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, nhiệm vụ cách mạng có thể thay đổi nhưng mục tiêu cuối cùng hướng tới những giá trị cốt lõi “độc lập, tự do, hạnh phúc” là không bao giờ thay đổi. Theo Hồ Chí Minh, thi đua từ công việc hằng ngày của mỗi người. Đây là vấn đề rất cơ bản thuộc về cơ sở, gốc rễ, nền tảng của thi đua. Chính trên nền tảng này mà các phong trào thi đua sẽ được nảy sinh và diễn ra liên tục. Công việc hằng ngày là nền tảng của thi đua, song không phải ai cũng hiểu rõ, hiểu đúng bản chất vấn đề. Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chỉ ra một số nhận thức sai lầm trong thực hiện các phong trào thi đua như: “Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc làm hàng ngày. Thật ra, công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ: Từ trước đến giờ ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch sẽ, cho hợp vệ sinh, cho khỏi đau ốm” Một là, hình thành văn hóa thi đua, tạo ra các giá trị nhân văn để hình thành một xã hội tốt đẹp với những chuẩn mực đạo đức làm nền tảng. Theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, với mục tiêu mang đến hạnh phúc cho con người thì yếu tố xã hội tốt đẹp, môi trường đáng sống cũng là một trong những tiêu chí mang lại hạnh phúc cho con người. Do đó, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong thi đua yêu nước vẫn còn nguyên giá trị trong hiện tại, khi chúng ta ra sức xây dựng và bảo vệ đất nước, song bị tác động không nhỏ của mặt trái cơ chế thị trường, sự tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật và âm mưu phá hoại cách mạng của các thế lực phản động trong và ngoài nước, nên nảy sinh nhiều suy nghĩ và hành động sai trái như: bệnh quan liêu,bệnh công thần, bệnh thành tích, cạnh tranh không lành mạnh, gian dối, vi phạm pháp luật. Do đó, Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Để phát triển phong trào thi đua, chúng ta phải chống bệnh quan liêu, chống nạn tham ô, lãng phí. Vì bệnh quan liêu sẽ ngăn trở phong trào thi đua, làm nó chậm tiến, và nạn tham ô, lãng phí sẽ làm giảm bớt những kết quả của phong trào thi đua” Hai là, tính rộng khắp, “toàn dân, toàn diện”, mọi người, mọi ngành cùng thi đua góp phần tạo nên môi trường sống tích cực, vui vẻ, hình thành những động lực cho phát triển. “Người người thi đua, Ngành ngành thi đua” “Người này thi đua với người khác. Nhà này thi đua với nhà khác. Làng này thi đua với làng khác”; “Chúng ta còn phải cố gắng nữa, để tiến bộ nữa. Còn phải tiếp tục phong trào thi đua ái quốc, để theo cho kịp các nước tiên tiến trên thế giới”. Sự rộng khắp, mạnh mẽ từ mỗi người, mỗi ngành sẽ tạo thành một không khí thi đua sôi nổi, mang tới những kết quả tốt nhất. Từ đó, Hồ Chí Minh đặt niềm tin vào sức mạnh và kết quả của một phong trào rộng lớn có tính chất toàn quốc - phong trào thi đua yêu nước. Tóm lại, có thể khẳng định rằng, những dự báo, định hướng của Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước vẫn vẹn nguyên giá trị. Soi chiếu theo tư tưởng của Người, công tác thi đua, khen thưởng hiện nay nói chung, việc xây dựng các phong trào thi đua yêu nước nói riêng muốn đạt kết quả tốt cần chú trọng tới một số vấn đề sau: Một là, nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền đặc biệt là người đứng đầu trong chỉ đạo các phong trào thi đua yêu nước để thi đua thực chất mà không hình thức; Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền các phong trào thi đua yêu nước, nhất là tuyên truyền về những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân rộng các giá trị tích cực, tạo không khí sôi nổi cho xã hội; Ba là, bảo đảm các quy trình xây dựng phong trào thi đua một cách khoa học và hiệu quả để tránh hình thức hóa các phong trào thi đua hoặc có tác dụng ngược.

 

LÊ TRỌNG HÙNG NHẬN GIẢI “PHÓNG VIÊN VỈA HÈ 68 THÁNG BA 2023 TẾT QUÝ MÃO” LẠI THÊM MỘT TRÒ HỀ CỦA MẤY TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ

 

Dù đang ở trong trại giam để chấp hành bản án phạt tù 5 năm tù về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 117, khoản 1, điểm a,b,c - Bộ luật Hình sự nhưng Lê Trọng Hùng, sinh năm 1979, trú tại phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội được cho là vừa được trao cái gọi là “Giải Phóng Viên Vỉa Hè 68 tháng ba 2023 Tết Quý Mão”.

Đây là giải thưởng được Vietnam Infor cùng với tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (Pháp), Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (Hoa Kỳ) và Quỹ Tù Nhân Lương Tâm (Úc) đứng ra hậu thuẫn, tổ chức nhằm “vinh danh” những kẻ có hoạt độ.ng chố.ng phá đất nước dưới vỏ bọc là các “nhà báo độc lập” như Lê Trọng Hùng. Không biết ”giải thưởng” này có giá trị về mặt kinh tế như thế nào nhưng vợ của Lê Trọng Hùng là Tử Đình Hương lại tỏ ra vô cùng tự hào, thậm chí còn được một số trang mạng như “Việt tân” lăng xê gửi lời cảm ơn đến ban tổ chức cũng như những người đã ủng hộ cho Hùng trong thời gian qua. Đúng là được cả vợ lẫn chồng kiểu “cá mè một lứa”.

Nên nhớ rằng, Lê Trọng Hùng là người đã nhận hành vi vi phạm pháp luật tại phiên toà xét xử sơ thẩm vào ngày 31/12/2021 và hiện nay cũng đang trong thời gian chấp hành án phạt tù 5 năm (5 năm quản chế sau khi chấp hành xong án phạt tù). Việc cổ vũ hay trao các “giải thưởng” này nọ cũng chỉ là những chiêu bài để cho các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí lợi dụng nhằm chống phá Nhà nước Việt Nam. Chưa kể đó lại là “phóng viên vỉa hè” nữa thì biết chất lượng của giải thưởng thế nào rồi./.

TỈNH TÁO, NHẬN DIỆN ĐÚNG CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

 

Hơn 36 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn vẫn cố tình phủ nhận những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là đổi mới trên lĩnh vực chính trị, xã hội. Họ ra sức xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta trên tất cả lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...

Thủ đoạn tinh vi, khó lường

Về chính trị: Trước hết, họ tập trung phê phán, xuyên tạc, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo đất nước, họ cho rằng, đó là “chế độ đảng trị”, độc tài, mất dân chủ. Họ còn lợi dụng cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng” để xuyên tạc rằng, đó là bằng chứng của vấn đề “Đảng đứng trên luật pháp”, “quyền lực xã hội tập trung vào một số ít cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản”, “Đảng bao biện làm thay Nhà nước”... Vấn đề Nhà nước, họ xuyên tạc rằng: “Nói là Nhà nước pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng...”; “hệ thống tổ chức, bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả”... Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, họ cho rằng: “Hoạt động chỉ là hình thức, kém hiệu quả”... Vấn đề xã hội, họ cho rằng: "Mất dân chủ, vi phạm nhân quyền...".

Nhận diện những vấn đề trên là một hoạt động khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, các đối tượng thường sử dụng internet, mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter, Zalo... và các phương tiện truyền thông khác như các đài phát thanh, truyền hình VOA, RFA, BBC, RFI... để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó lường. Một trong những thủ đoạn nguy hiểm nhất mà họ thường sử dụng, đó là mượn các thông tin, sự kiện có thật đã xảy ra, được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng hay được phát tán thông qua mạng xã hội để lồng ghép, biên tập, sửa chữa và thêm thắt các tình tiết ngụy tạo, bóp méo rồi được tung ra như một dạng thông tin chính thống. Sau đó, thông qua các hình thức tán phát, như bình luận theo chuyên đề, kể chuyện lịch sử, hội luận, ý kiến chuyên gia, người trong cuộc, ngoài cuộc... để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo lịch sử, bóp méo sự thật. Cuối cùng, thông qua sự tương tác, bình luận (comment), ý kiến người đọc, người xem để định hướng dư luận theo ý đồ của họ. Với những thủ đoạn tinh vi, dàn dựng khá bài bản, có thể họ đã lừa phỉnh được một số người còn thiếu thông tin, nhận thức hạn chế, phiến diện. Thậm chí, có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên còn mơ hồ, dao động, đã cố tình hoặc vô ý cổ xúy, tiếp sức cho các luận điệu sai trái, phản động, biểu hiện của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Từ việc nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới trên lĩnh vực chính trị - xã hội nói riêng, chúng ta thấy rằng, vấn đề chính trị - xã hội ở Việt Nam luôn là mối quan tâm, chống phá hàng đầu của các đối tượng này. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước. Mục tiêu sâu xa của chúng là gây mất ổn định chính trị, xã hội, mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước, tất yếu dẫn tới rối loạn chính trị-xã hội, khủng hoảng và sụp đổ, dẫn tới xóa bỏ chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta.

Thực tế sinh động, minh chứng thuyết phục

Thành tựu sau hơn 36 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn. Đó là, minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Nhìn lại lịch sử, những thành tựu đất nước đã đạt được trong công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới chính trị - xã hội với bước đi, hình thức phù hợp “toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về năng lực điều hành, quản lý đất nước có nhiều chuyển biến mang tính đột phá. Hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng với quyết tâm cao, hiệu quả thiết thực. Phát huy được mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ nhanh, hiệu quả các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và đạt kết quả tích cực.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, với phương châm “Hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội” đã phát huy tốt chức năng, vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố được lòng tin, sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn.

Những kết quả đó khẳng định rằng đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn như hiện nay. Mặt khác, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ, như: Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy đầy đủ... những hạn chế đó không thể ngày một, ngày hai có thể khắc phục triệt để mà phải có một quá trình khắc phục kết hợp với đổi mới lâu dài, khó khăn, phức tạp. Vấn đề là Đảng, Nhà nước đã thẳng thắn nhìn nhận và khắc phục với quyết tâm cao nhất.

Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế về đổi mới chính trị - xã hội ở Việt Nam trong sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển đất nước là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, là luận cứ đanh thép nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị thời gian qua./.