Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2023

HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ!

Ngày 02 tháng 4:
“Việc quản lý, kỷ luật tài chính kém, tinh thần trách nhiệm kém, kiểm tra đôn đốc kém và cho rằng bốn cái đó mở cửa cho tham ô lãng phí”.

Cách đây 100 năm, ngày 2-4-1923, tại tư gia luật sư Phan Văn Trường ở Paris, Nguyễn Ái Quốc đã họp bàn với nhiều Việt kiều đang sống ở Pháp về việc thành lập một tổ chức lấy tên là “Hội Thân ái” để giúp đỡ những đồng bào Việt Nam sống trên đất Pháp. Sau cuộc họp này, hội đã được thành lập ngay trong tháng 4-1923.

Ngày 2-4-1924, Tập san “Inprekorr” của Quốc tế Cộng sản (bản tiếng Pháp) đăng bài “Chủ nghĩa đế quốc Pháp dám làm những gì?” của Nguyễn Ái Quốc. Sau khi thuật lại sự kiện thực dân Pháp đồng lõa với đế quốc Anh ở Ấn Độ hay chính sách đối với những người dân Tripôli đang trốn sang lánh nạn tại Tuynidi vì bị đế quốc Ý l.ùng b.ắt, bài báo kết luận bằng câu: “Chủ nghĩa đế quốc Pháp quả là không hề ngại ngùng nhúng tay vào những t.ội á.c b.ỉ ổ.i nhất”.

Cũng trong tháng 4-1924, trên Tạp chí “Quốc Tế Nông Dân”, Nguyễn Ái Quốc viết bài “Nông dân Bắc Phi”, trên cơ sở khảo sát nền văn hóa và đời sống của nông dân ở các nước đã trở thành thuộc địa của Pháp như Tuynidi, Marốc hay Angiêri... Tại đó: “Chế độ thuộc địa Pháp đã phá vỡ tính tập thể của dân bản xứ và thay vào đó bằng sự c.ướp đ.oạt t.rắng t.rợn... Bọn thực dân rốt cuộc là kẻ chiến thắng và những người dân bản xứ phải ngoan ngoãn phục tùng chúng và nhường đất cho chúng”. Bài báo cũng đưa ra câu hỏi: “Chế độ thuộc địa đem lại lợi ích gì cho những người nông dân nghèo nước Pháp? Không! Chỉ có những tên chính khách bẩn thỉu, những bọn con buôn tham lam và tư bản lớn được lợi mà thôi!”. Từ thực tiễn đó, tác giả liên hệ: “Khó có thể nói rằng ai trong số họ: người An Nam ở Đông Dương, người da đen ở Cônggô hay là Xênêgan, hay là người bản xứ ở Bắc Phi, bị b.óc l.ột nhiều hơn?”; rồi đi đến kết luận: “Người Bắc Phi sẽ biến khỏi mặt đất nếu giai cấp vô sản giác ngộ không đến cứu họ khỏi nền “văn minh” quái vật”.

Cũng trong khoảng thời gian này, Nguyễn Ái Quốc viết bài “Đoàn kết giai cấp”, thuật lại một sự kiện diễn ra trong phong trào công nhân ở Brazil (lúc này đang là thuộc địa của Bồ Đào Nha), để đi đến một kết luận quan trọng: “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người b.óc l.ột và giống người bị b.óc l.ột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.

Ngày 2-4-1960, chủ tọa phiên họp của Hội đồng Chính phủ, Bác nêu lên “tình trạng tham ô lãng phí nhắc từ lâu nhưng lâu nay không ai làm” và phân tích tình trạng đó xuất phát từ việc quản lý, kỷ luật tài chính kém, tinh thần trách nhiệm kém, kiểm tra đôn đốc kém và cho rằng “bốn cái đó mở cửa cho tham ô lãng phí”. Bác chỉ thị cho các bộ phải khắc phục tình trạng trên bằng cuộc vận động kết hợp với phong trào thi đua sản xuất, kết hợp tuyên truyền giáo dục, kỷ luật, thưởng phạt và tăng cường công tác kiểm tra./.
Theo sách: "Hành trình theo chân Bác"!
Yêu nước ST.

LÀM GÌ ĐỂ GIỮ VỮNG CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA!

         Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị của nước ta. Điều này đang thách thức nghiêm trọng chủ quyền chính trị (quyền tự quyết về mô hình, thể chế chính trị) của Việt Nam.

Toàn cầu hoá
là xu hướng tất yếu
của thời đại
Toàn cầu hóa là thuật ngữ dùng để mô tả sự tăng lên về mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, văn hóa và người dân, diễn ra thông qua thương mại xuyên biên giới về hàng hóa và dịch vụ, công nghệ và các dòng vốn đầu tư, con người và thông tin.

Một trong những mặt trái của toàn cầu hóa đó là những tác động tiêu cực đối với chủ quyền quốc gia. Nói đến chủ quyền quốc gia là nói đến quyền lực tối cao của quốc gia trong việc quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại. Tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đối với chủ quyền quốc gia thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau:

Tác động đến chủ quyền chính trị: Toàn cầu hóa làm suy giảm quyền lực của chính phủ và nhà nước - quốc gia trong việc quản lý, điều hành nền kinh tế (nhất là đối với quản lý kinh tế vĩ mô). Cùng với các mối quan hệ kinh tế xuyên biên giới và sự hình thành các tổ chức, thiết chế kinh tế quốc tế và các chuẩn mực kinh tế toàn cầu, các quốc gia đã, đang và tiếp tục sẽ không còn được tự quyết một số vấn đề về kinh tế đối ngoại của mình.

Chẳng hạn, khi các quốc gia tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì phải tuân thủ các quy định, nguyên tắc trong thương mại quốc tế do WTO đề ra thay vì hành động theo ý chí riêng của mình. Cùng với đó, toàn cầu hóa cũng làm suy yếu quyền lực quốc gia trong việc tự quyết thể chế, cấu trúc chính trị. Rõ ràng, chính trị ngày càng bị định hướng bởi thị trường và khi mở cửa nền kinh tế để tham gia vào toàn cầu hóa thì nền chính trị trong nước cũng phải thích nghi với những áp lực từ thị trường xuyên quốc gia. Ví dụ, khi các nền kinh tế cùng tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu thì các quy định về thương mại quốc tế mà đã được các tổ chức kinh tế quốc tế thông qua phải được nội luật hóa thành luật pháp quốc gia của các nước thành viên (nghĩa là đồng bộ hóa luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế) hoặc các quốc gia buộc phải cải cách về kinh tế, chính trị để thuận lợi hóa việc trao đổi, buôn bán hàng hóa, dịch vụ với các nước trên thế giới.

Ngoài ra, toàn cầu hóa còn dẫn đến sự nhất thể hóa về chính trị mà sự hình thành Liên minh châu Âu (EU) là bằng chứng rõ ràng nhất. Sự ra đời của các thể chế, cấu trúc chính trị quốc tế đã góp phần quản lý, điều tiết các mối quan hệ xuyên quốc gia thông qua việc tạo ra một tiến trình xây dựng thể chế mà ở đó tổ chức mới là người quyết định các vấn đề chung liên quan đến tất cả các thành viên.

Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch còn lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị của nước ta. Điều này đang thách thức nghiêm trọng chủ quyền chính trị (quyền tự quyết về mô hình, thể chế chính trị) của Việt Nam.

Tác động đến chủ quyền kinh tế: Các mối quan hệ thương mại quốc tế, đầu tư và các mạng lưới kinh tế do các tập đoàn xuyên quốc gia tạo ra là một trong các đặc trưng của toàn cầu hóa kinh tế. Do đó, có thể nói các tập đoàn xuyên quốc gia mới là chủ thể chính vận hành hệ thống thương mại và đầu tư toàn cầu; các quốc gia đóng vai trò điều tiết, quản lý vĩ mô và tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư quốc tế (bằng chứng là các hiệp định thương mại tự do mà các nước tham gia nhằm mục đích chính là thuận lợi hóa hoạt động thương mại quốc tế - vốn chủ yếu do các tập đoàn xuyên quốc gia thực hiện). Cùng với đó là sự phát triển, mở rộng hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia, chủ quyền về tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia cũng ngày càng suy giảm. Thực tế cho thấy phần lớn quyền khai thác, kinh doanh các nguồn tài nguyên thiên nhiên chiến lược như dầu mỏ, kim loại quý hiếm,… chủ yếu thuộc về các tập đoàn xuyên quốc gia. Ngoài ra, hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia hiện nay cũng đang thách thức khả năng thu thuế của các chính phủ trên thế giới. Điều này có nghĩa là làm suy yếu khả năng quản lý, vận hành nền kinh tế của các chính phủ.

Bên cạnh những thuận lợi, những thời cơ, toàn cầu hoá cũng có những tác động tiêu cực đến chủ quyền quốc gia - dân tộc.
Với nhận thức toàn cầu hóa là xu thế lớn, tất yếu của thời đại và muốn phát triển chúng ta không thể đứng ngoài quá trình đó, Đảng ta đã chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chủ trương nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa “độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” - thực chất là bảo vệ chủ quyền quốc gia trong hội nhập quốc tế. 

Chủ trương này đã cho thấy, Đảng ta đã nhận thức rõ những nguy cơ, thách thức của toàn cầu hóa đối với chủ quyền quốc gia.

Trước tình hình mới, để bảo vệ chủ quyền quốc giatrong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cần phải có những giải pháp đồng bộ:

Một là, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Về mặt lý luận và cả thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh đó là con đường đúng đắn, là sự lựa chọn của lịch sử và phù hợp nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân ta. Thực tế cho thấy, để giữ vững độc lập, tự chủ thì cần bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa và kiên quyết đấu tranh chống lại những âm mưu lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo hay pháp trị… để can thiệp vào đời sống chính trị của nước ta. Liên quan đến vấn đề chế độ xã hội chủ nghĩa thì chúng ta tuyệt đối không cho phép bên ngoài can thiệp hay tranh cãi.

Hai là, chủ động tham gia xây dựng các cơ chế hợp tác khu vực và thế giới, đồng thờixây dựng các chuẩn mực chung của cộng đồng quốc tế. Hiện nay, chúng ta đã tham gia khoảng hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng nhất. Để bảo đảm chủ quyền quốc gia, Việt Nam cần chủ động tham gia xây dựng các chuẩn mực mới trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc chính đáng, phù hợp với đặc điểm, tình hình kinh tế - chính trị của đất nước và tuân thủ luật pháp quốc tế.

Ba là, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý các vấn đề xuyên biên giới. Với sự phát triển mạnh mẽ của các mối quan hệ xuyên quốc gia và những thách thức từ các tập đoàn xuyên quốc gia đặt ra, chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật cùng các cơ chế quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế để quản lý hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia cũng như nâng cao khả năng giải quyết các vấn đề kinh tế xuyên biên giới.

Bốn là, chúng ta cần đổi mới nhận thức và có cách tiếp cận toàn diện đối với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế không chỉ có tác động tiêu cực đối với chủ quyền quốc gia mà còn có tác động ở chiều ngược lại đó là góp phần củng cố độc lập, chủ quyền quốc gia. Chúng ta sẽ không thể giữ vững độc lập, tự chủ trong tình trạng đối đầu hoặc bị cô lập. 

Ngoài ra, thông qua việc tham gia vào các cơ chế hợp tác khu vực và thế giới sẽ giúp chúng ta khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền chính trị thế giới. Nguyên tắc cơ bản nhất trong quan hệ quốc tế đó chính là nguyên tắc chủ quyền, do đó, khi tham gia nền chính trị quốc tế nghĩa là các quốc gia cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia của nhau và cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau./.
Yêu nước ST.

Một mưu sâu, kế hiểm cần vạch trần, tiếp tục đấu tranh

  

Sự tái diễn mưu sâu, kế hiểm ở Việt Nam

Trước tình hình đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta cũng như trên thế giới vô cùng phức tạp như hiện nay, muốn bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đạt hiệu quả; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống hệ tư tưởng tư sản, lối sống thực dụng phương Tây và sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại mà những người chống cộng đang cố tình gieo rắc, thẩm thấu, muốn nó xâm nhập nhanh vào Việt Nam. Cùng với đó, chúng ta còn phải vạch trần sự giả dối và kiên quyết, kiên trì đấu tranh khắc phục những tàn dư tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản do chế độ cũ để lại, còn tồn tại dai dẳng ở nước ta, trong Quân đội ta.

Cùng với việc chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Đảng ta, những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta đang cố tình tấn công xuyên tạc bản chất của quân đội cách mạng, bôi nhọ thanh danh “Bộ đội Cụ Hồ”, tái diễn âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội nhằm tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, biến Quân đội hành đội quân vô dụng.

 Âm mưu cơ bản, xuyên suốt và lâu dài của các thế lực thù địch là đem hệ tư tưởng và chính trị tư sản, chủ nghĩa cơ hội – xét lại thay thế chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, họ cố tình làm cho Quân đội ta từ bỏ lý tưởng XHCN, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chấp nhận con đường TBCN theo sự sắp đặt của phương Tây và những người theo đuôi họ; làm cho Đảng, Nhà nước ta mất chỗ dựa vững chắc là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân để dễ bề thao túng chính trị vì mục đích phản động.

Chiêu thức “gây gió từ bên ngoài để tạo bão ở bên trong” là dùng loại vũ khí tư tưởng tư sản để tạo ra tâm lý hoảng sợ trước sức mạnh của kinh tế, quân sự, khoa học và công nghệ phương Tây với cách “đánh hội đồng” như kiểu NATO, EU và phương Tây đang áp dụng tấn công, bao vây, cấm vận, phong tỏa nước Nga hiện nay để “làm con ngáo ộp” đe dọa những người dân “yếu bóng vía” ở Việt Nam.

Từ đó, họ ra sức xuyên tạc chủ trương, đường lối đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Cổ suy cho chiêu trò này là việc sùng bái, ca ngợi một chiều sức mạnh của đồng đô la, của kinh tế thị trường và “sự phóng khoáng của nền dân chủ tư sản” và lối sống thực dụng phương Tây. Đây là cái cách mà những người đối lập với Đảng ta dùng nó để mê hoặc, làm lóa mắt không ít người dân “mơ mộng cuộc sống mới” bằng sự hấp dẫn của đồng đô la và lối sống thực dụng phương Tây cùng với ảo vọng “đổi đời”, “không cần làm vẫn sung sướng”. Họ hy vọng rằng, những tư tưởng tư sản bằng nhiều con đường khác nhau, nhất là thông qua mạng xã hội, sớm đến Việt Nam, xâm nhập, thẩm lậu nhanh chóng vào đầu óc người dân, nhất là cán bộ, chiến sĩ quân đội và lớp trẻ, biến họ thành những con người khác, ngưỡng mộ lối sống phương Tây, theo đuôi họ.

Thế nhưng, do mất cảnh giác, một số cơ quan kinh tế và báo chí ở nước ta đôi khi đã đăng tải những thông tin có lợi cho đối phương một cách vô ý thức, đã ca ngợi không công cho CNTB và phương Tây. Sự mập mờ, không phân biệt rõ đúng sai, lợi và hại trong thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước ta: Việt Nam sẵn sàng làm bạn, làm đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, thông qua con đường mở cửa, hội nhập quốc tế, thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA), đã bị các thế lực thù địch lợi dụng đưa hệ tư tưởng tư sản, các sản phẩm văn hóa xấu độc và lối sống thực dụng của phương Tây xâm nhập vào nước ta.

Điều này ít nhiều đã làm cho không ít người dân, nhất là một số người có học thức, đã từng “Tây học” có tâm lý “dị ứng” với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật, các nguyên của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cho rằng học thuyết này đã lỗi thời, không phù hợp với Việt Nam, cần “thay máu cho hệ tư tưởng”… Từ đó, tán phát, làm lây lan hệ tư tưởng tư sản và lối sống thực dụng phương Tây với sự kích hoạt những ham thích mù quáng cũng như sự ham muốn, khoái lạc một cách thiếu tỉnh táo, thiếu óc phê phán, thiếu phản biện đối với một số sản phẩm trí tuệ, văn hóa mà phương Tây cho là “cấp tiến”, là “mốt”, hết lời ca ngợi, đang tìm mọi cách du nhập, thẩm lậu vào nước ta.

Không bao giờ mắc mưu của địch

Quân đội là một xã hội thu nhỏ và đương nhiên, nó cũng bị ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng tư sản và nọc độc của các sản phẩm văn hóa độc hại và lối sống thực dụng của phương Tây, dù chưa phải là nhiều bởi con em bộ đội từ nhân dân mà ra, từ xã hội mà vào quân đội. Song, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, xét một cách tổng thể, sự xâm nhập trực tiếp của hệ tư tưởng tư sản và văn hóa phương Tây vào Quân đội tất nhiên là khó khăn hơn so với môi trường và đời sống dân sự. Bởi, Quân đội ta có kỷ luật “sắt”, đã có bề dày lịch sử truyền thống gần 80 năm theo Đảng “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Hơn thế, Quân đội ta đã trải qua “thử lửa chiến tranh” nên bản lĩnh rất kiện định vũng vàng, vì thế chẳng có thế lực thù địch nào có thể lung lạc được bản chất, nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của người quân nhân cách mạng. Cho nên, các thế lực thù địch đã và đang cố gắng tìm mô thức, thủ đoạn mới nhằm pha loãng chính trị của Đảng ta trong Quân đội bằng cách bôi đen hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, xuyên tạc bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội; từ đó tạo ra sự thờ ơ về chính trị trong toàn quân đến mức có thể thực hiện được âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, “phi đảng cộng sản” Nhà nước Việt Nam.

Điệp khúc này đã diễn trong quân đội Liên Xô và quân đội các nước Đông Âu trước đây. Bây giờ họ muốn tái diễn nó ở Việt Nam nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” thông qua thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội nhằm vô hiệu hóa Quân đội ta, đe dọa sự mất còn của Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Chúng ta đã dự lường hết những biến chứng, các kịch bản mà họ rắp tâm thực hiện để chia rẽ, gây sự khủng hoảng về lãnh đạo trong nội bộ Đảng, Nhà nước ta với sự hình thành các phe phái, các nhóm lợi ích, cũng như sự khác biệt về quan điểm chính trị trong hạt nhân lãnh đạo của Đảng.

Với cách nhìn đó, các thế lực thù địch đã nhầm to và thất vọng về sự kiên định, không bị tha hóa, biến chất của Đảng ta trong Quân đội. Đảng ta đứng vững, không bao giờ mắc mưu “diễn biến hòa bình”, bị “phi chính trị hóa” quân đội. Rõ ràng, kịch bản này không thể thực hiện ở Việt Nam bởi sự lãnh đạo của Đảng ta thể hiện rõ sự đoàn kết, nhất trí cao; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đều ý thức rõ ràng về sự đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng, trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đảng ta đã giữ gìn sự trong sáng như giữ gìn con ngươi của mắt mình khi tuyên truyền và đem lại nhận thức chung cho toàn xã hội; mọi người dân đều nhận thức rõ: bất cứ ai, thế lực nào có hành vi chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì đó là một tội ác và nó lập tức bị lên án, phán xét theo đạo lý và pháp lý Việt Nam.

Cho nên lề thói thực dụng chủ nghĩa và hệ tư tưởng tư sản, các sản phẩm văn hóa độc hại của phương Tây được các thế lực thù địch sử dụng nhằm pha loãng môi trường chính trị ở Việt Nam; qua đó phá hoại chính trị, tư tưởng, tổ chức quân đội đã bị quân và dân ta tẩy chay, luôn đề phòng, cảnh giác cao; không bao giờ mắc mưu địch. Những người chống cộng đã chủ quan, nhầm lẫn và tự chuốc lấy thất bại bởi các âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam đã bất thành.

Cần nói cho rõ rằng, điều mong muốn của các thế lực thù địch là thông qua tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản, gieo rắc lối sống thực dụng, các sản phẩm văn hóa phương Tây vào Quân đội là cố tình làm tăng lên số lượng những tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp của Quân đội ta có tư tưởng và lợi ích theo lề thói thực dụng và lợi ích nhóm trong Quân đội. Những người chống cộng đã hy vọng là đến một lúc nào đó sức mạnh của đồng đô la có thể phát huy tác dụng, mua chuộc được những người đứng đầu Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; từ đó làm biến dạng tổ chức Quân đội, hiện thực hóa âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội; gạt bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ra khỏi Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sự khoét sâu mâu thuẫn giữa cấp trên và cấp dưới, giữa đồng cấp với nhau, giữa các đơn vị với nhau…sẽ làm mất dần tinh thần đoàn kết nhất trí, sự tương thân, tương trợ lẫn nhau của một đội quân cách mạng. Theo đó, mục tiêu, lý tưởng, sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong Quân đội ta, của các chi bộ, tổ đảng chỉ còn lại quan hệ bằng lợi ích vật chất lạnh lùng theo lợi ích nhóm. Đến lúc ấy, hệ tư tưởng tư sản và sác sản phẩm văn hóa xấu độc của phương Tây chiếm lĩnh trận địa tư tưởng, văn hóa trong Quân đội; lề thói thực dụng chủ nghĩa sẽ giương oai, tác quái, làm cho sức mạnh chiến đấu của Quân đội suy giảm nghiêm trọng; sợi dây thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân và Quân đội sẽ bị cắt đứt; Đảng sẽ “chênh vênh” vì mất chỗ dựa. Cái điệp khúc “đánh bại quân đội Liên Xô” được tái diễn ở Việt Nam có thể thành công.

Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – bí kíp mọi thành công

Các thế lực thù địch hy vọng rằng, trong các tổ chức đảng và công tác đảng, công tác chính trị của Quân đội sẽ không còn hiệu lực, sẽ không còn sự tự phê bình và phê bình; các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và cuộc vận động “phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” chỉ còn là khẩu hiệu trên giấy. Sự toan tính thực dụng lan tràn từ trên xuống dưới, khi mỗi quân nhân chỉ lấy lợi ích làm động cơ phục vụ. Điều đó sẽ dẫn đến thái độ, hành vi cầm chừng, các quân nhân cũng chỉ nghĩ làm gì và làm như thế nào để mình có lợi sẽ thay thế sự trung thực, dũng cảm đấu tranh vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng.

Chúng ta đã nhận diện rất rõ âm mưu thâm độc của chiêu trò “phi chính trị hóa” quân đội – một đòn đánh thâm sâu, cốt để tách sự lãnh đạo của Đảng ra khỏi Quân đội ta, làm cho Quân đội bị lạc đường, chệch hướng XHCN, Quân đội trở nên vô dụng; lúc đó, các thế lực thù địch sẽ nhanh chóng hạ gục Đảng, tước bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội ta.

Bài học này đã được áp dụng thành công ở Liên Xô và Đông Âu nhưng các thế lực thù địch không thể áp dụng ở Việt Nam và họ đã thất bại thảm hại khi cuộc đấu tranh chống “phi chính trị hóa”, “phi đảng hóa” ở Việt Nam đã trở thành nhiệm vụ chính trị quan trọng của mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta. Trong đó, sự kỳ vọng áp đặt sự thống trị của hệ tư tưởng tư sản của phương Tây lên xã hội Việt Nam đã thất bại thảm hại.

Chúng ta đã luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Quân đội và trong xã hội Việt Nam. Cùng với đó, chúng ta đã giáng cho chủ nghĩa thực dụng và văn hóa phương Tây những đòn chí mạng. Nguy cơ đe dọa, làm suy yếu và phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của “Bộ đội Cụ Hồ” đã hoàn toàn thất bại.

Một đội quân có truyền thống, bản chất cách mạng gần 80 năm, đã “đánh đông dẹp tây”; làm cho hai đế quốc đầu sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã phải cuốn cờ, rút hết quân về nước. Một quân đội như như thế thật anh hùng, đâu dễ “bắt nạt”, một quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân thì chắc chắn không cho phép bất cứ thế lực nào thực hiện “phi đảng cộng sản” trong xã hội Việt Nam; “phi chính trị hóa” trong Quân đội ta. Đó là một điều chắc chắn./.


Quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên để xây dựng Đảng vững mạnh

 Quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên là một khâu rất quan trọng của công tác đảng viên, có tác động nhiều mặt đến các khâu khác của công tác đảng viên như đánh giá, phân tích chất lượng, khen thưởng, kỷ luật, xây dựng kế hoạch công tác đảng viên. Do đó, quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên góp phần quan trọng để xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, vì sức mạnh của toàn Đảng là do sức mạnh của đội ngũ đảng viên tạo nên.

Quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên là một nội dung, biện pháp cơ bản, quan trọng trong công tác xây dựng Đảng góp phần củng cố đội ngũ,nâng cao chất lượng đảng viên. Với phương châm “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, thời gian qua, nhiều quy định, hướng dẫn, biện pháp đã được ban hành để quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên như: Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21/01/2019 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; Quy định số 213-QĐ/TW ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị quy định về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương “về những điều đảng viên không được làm”; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tăng cường củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới; quy định, hướng dẫn về phát thẻ, đổi thẻ và quản lý thẻ đảng viên; quy định, hướng dẫn về quản lý hồ sơ đảng viên; quy định, hướng dẫn về giới thiệu sinh hoạt đảng; quy định về xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu đảng viên; quy định quản lý đảng viên đi công tác, học tập tiếp xúc với người nước ngoài…

Nhìn chung, cấp ủy và tổ chức đảng các cấp đã tích cực, chủ động cụ thể hóa tiêu chuẩn đảng viên, đề ra các chủ trương, biện pháp phù hợp về giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, phân công công tác, quản lý, đánh giá chất lượng đảng viên, đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Việc quản lý đảng viên trước hết được thông qua sinh hoạt chi bộ hằng tháng. Đối với những đảng viên đi làm ăn xa, cấp ủy cơ sở đã thực hiện nghiêm túc việc hướng dẫn các đảng viên thực hiện đúng quy trình, thủ tục đăng ký tạm trú với chính quyền nơi đến, giữ gìn tư cách đảng viên, đóng đảng phí đầy đủ; hết thời gian đều có nhận xét của cơ quan, chính quyền địa phương ở nơi đã tạm trú.

Phần lớn đảng viên vững vàng về tư tưởng, chính trị, trung thành với sự nghiệp cách mạng, tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng, phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu của người đảng viên. Kết quả công tác quản lý đảng viên là một nội dung, biện pháp cơ bản, quan trọng trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng đảng viên và hoạt động của chi bộ.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn một số hạn chế: “Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên chưa được quan tâm đúng mức; việc rà soát, sàng lọc đảng viên chưa thường xuyên, thiếu cương quyết. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút, số đảng viên bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng”.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên,mỗi cấp ủy Đảng cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, các cấp uỷ cần có nhận thức đúng về công tác quản lý đảng viên. Đólà quản lý toàn diện về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, quản lý công việc, quản lý sinh hoạt, đời sống, quan hệ xã hội cả ở cơ quan và nơi cư trú, kết hợp việc quản lý đảng viên của tổ chức đảng với sự tham gia quản lý của chính quyền, đoàn thể, đề cao tinh thần tự quản của đảng viên. Ngoài những nội dung đó, hiện nay các cấp ủy, tổ chức đảng cần quan tâm quản lý số đảng viên đi làm ăn xa, số đảng viên làm việc ở những cơ quan quan trọng của Đảng và Nhà nước. Cấp ủy thường xuyên kiểm tra, giám sát đảng viên về lập trường tư tưởng, quan điểm chính trị, ý thức chấp hành chỉ thị, Nghị quyết, chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; về hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công; mối quan hệ giữa đảng viên với quần chúng. Cần căn cứ vào quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương “về những điều đảng viên không được làm” để quản lý đảng viên cho tốt.

Thứ hai, mỗi đảng viên phải xây dựng kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để chi bộ kiểm tra, giám sát thực hiện. Đây là biện pháp quan trọng thể hiện tính tích cực, chủ động và khoa học trong công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên của Đảng. Kế hoạch thực hiện và chương trình hành động, rèn luyện của đảng viên phải trên cơ sở nghị quyết của chi bộ, tình hình nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình và chức trách nhiệm vụ được giao; căn cứ vào tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, điểm mạnh, điểm yếu và khả năng của từng cá nhân. Kế hoạch cần cụ thể, chỉ rõ nội dung đăng ký, thời gian hoàn thành, tự đánh giá kết quả thực hiện nhằm bảo đảm sự chặt chẽ nghiêm túc và làm cơ sở để chi bộ theo dõi, nhận xét, đánh giá cuối năm cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho từng cá nhân thực hiện tốt kế hoạch đề ra.

Thứ ba, thực hiện đúng việc giới thiệu và quản lý đảng viên đang công tác về nơi cư trú (Quy định số 213-QĐ/TW ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị quy định về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú). Cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên công tác cần chủ động liên hệ giới thiệu đảng viên với chi ủy hoặc đảng ủy cơ sở nơi đảng viên cư trú; có kế hoạch kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện các nghĩa vụ công dân nơi cư trú; đại diện cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đang công tác cần định kỳ hằng năm và khi cần thiết tiến hành trao đổi ý kiến với đại diện cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đang cư trú để nắm tình hình đảng viên. Cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên cư trú cần chủ động nắm chắc số lượng đảng viên, họ tên, địa chỉ công tác… của từng đảng viên cư trú ở phường, xã, khu dân cư của mình. Định kỳ và khi cần thông báo cho đảng viên biết tình hình, nhiệm vụ của địa phương có liên quan để đảng viên nắm được thông tin, gương mẫu thực hiện, vận động gia đình và nhân dân thực hiện. Định kỳ hằng năm hoặc khi cần thông báo với cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đang công tác về tình hình đảng viên thực hiện nhiệm vụ ở nơi cư trú; đề nghị biểu dương những đảng viên thực hiện tốt và góp ý kiến với những đảng viên chưa thực hiện tốt hoặc có thiếu sót, khuyết điểm ở nơi cư trú. Thực hiện tốt quy định này sẽ tạo điều kiện cho đảng viên gần gũi với nhân dân, góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; khắc phục những biểu hiện sống xa dân, thiếu trách nhiệm trong công việc của dân nơi cư trú.

Thứ tư, phân công nhiệm vụ hợp lý cho đảng viên để buộc đảng viên phải có trách nhiệm với dân, với cơ quan đơn vị, địa phương, và cũng để thử thách, rèn luyện đảng viên. Có phân công, giao nhiệm vụ thì mới có nội dung để kiểm tra, giám sát và đánh giá đảng viên. Mọi đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, bao gồm nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định, nhiệm vụ do tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị và các đoàn thể chính trị – xã hội phân công. Các cấp uỷ, chi bộ phải có kế hoạch phân công nhiệm vụ cho đảng viên cụ thể, sát hợp, ghi thành biên bản, vào sổ phân công đảng viên. Hằng tháng, trong sinh hoạt chi bộ, chi uỷ phải kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ đã được phân công. Cuối năm, phải căn cứ vào đó mà đánh giá, phân loại. Muốn chi bộ tốt, đảng bộ tốt thì phải luôn rà soát nhiệm vụ, luôn kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm để làm cho tốt hơn.

Vì thế, các chi bộ cần bảo đảm là tất cả các đảng viên đều phải tham gia công việc của Đảng, đều phải được phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, phù hợp với khả năng, điều kiện của từng đảng viên ngay từ đầu năm. Đảng viên xây dựng kế hoạch thực hiện, cuối năm tự đánh giá kết quả thực hiện và tự đánh giá bản thân. Chi bộ có trách nhiệm theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ. Lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ đưa vào nội dung đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm và làm căn cứ đề ra chủ trương, biện pháp giáo dục, rèn luyện đảng viên – đây cũng là cơ sở xét khen thưởng, kỷ luật, bố trí sử dụng đảng viên.

“Dân thụ hưởng” không phải là khẩu hiệu suông

 Văn kiện Đại hội XIII của Đảng bổ sung thêm chủ trương “dân thụ hưởng” vào nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đây là sự khẳng định nhất quán tư tưởng lấy dân làm gốc, người dân là chủ thể, là mục đích, là trung tâm của mọi quá trình phát triển. Thế nhưng trên một số trang mạng, thế lực thù địch và những kẻ phản động cố tình xuyên tạc rằng, phương châm “dân thụ hưởng”, hay “lấy dân làm gốc” mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra là không thực chất, chỉ là mị dân. Nhưng cho dù kẻ xấu có xuyên tạc thế nào thì cũng không thể phủ nhận thực tế rằng, người dân Việt Nam đã và đang thực sự thụ hưởng thành quả cách mạng…

 

ĐẤU TRANH BẢO VỆ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

                                                                    

Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng Internet, các trang mạng xã hội để đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu… nhất là vấn đề lý luận nền tảng tưởng của Đảng.

Các thế lực thù địch đang sử dụng nhiều phương tiện với nhiều thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trên một số hướng sau: Phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng: xuyên tạc, phản bác, phủ định Học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; Phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên CNXH của Đảng và Nhà nước ta: Các thế lực thù địch phê phán triệt để CNXH hiện thực, bác bỏ con đường đi lên XHCN, công khai ca ngợi con đường TBCN; Phủ nhận thành quả và vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo; Chúng phản bác Cương lĩnh, quan điểm và nguyên tắc cơ bản của Đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng; Các thế lực thù địch bằng mọi cách tác động vào nội bộ các cơ quan chính phủ Việt Nam, dựng chuyện có phái này, phái nọ, trong các cơ quan Đảng, Nhà nước nhằm tạo ra nghi ngờ nhau trong nội bộ, làm suy giảm đoàn kết trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân...Các thế lực thù địch tìm mọi cách bịa đặt, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước; Phủ định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; Các thế lực thù địch đã  xuyên tạc tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam, phủ nhận những thành tựu to lớn của nhân dân Việt Nam  trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời thổi phồng những yếu kém, khuyết điểm của Nhà nước Việt Nam trong quản lý kinh tế - xã hội, coi tệ quan liêu, tham nhũng là khuyết tật không thể khắc phục được trong xã hội XHCN… Và thực tiễn đã chứng minh rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng thì đất nước ta ngày càng giàu mạnh, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc hơn nhất là công cuộc phòng chống tham nhũng hiệu quả càng cao.

Để  đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội hiện nay cần phải đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung thông tin chính thống, đảm bảo phong phú, đa dạng, nhiều cấp độ, tùy theo đối tượng để cung cấp, phổ biến, truyền tải. Đồng thời luôn xây dựng bản lĩnh vững vàng, có nhận thức đúng đắn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Loại bỏ những thông tin xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch ra khỏi không gian mạng bằng cách tạo môi trường trong sạch về thông tin.

                                                                                              NHK

 

Khuyến khích, bảo vệ cán bộ "6 dám"

 Bảo vệ những cán bộ “6 dám”, gồm “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám nói, dám đột phá sáng tạo và dám đương đầu với khó khăn, thử thách”, là một nội dung mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Tiếp đó, ngày 22/9/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận 14 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, trong đó “khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá”. Trên tinh thần của Kết luận 14, mới đây Bộ Nội vụ đã công bố và tổ chức nhiều hội thảo lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Nghị định quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.

Kết luận 14 được ban hành đã mở ra một chủ trương đúng đắn và hết sức cần thiết, cấp bách trong bối cảnh Đại hội XIII của Đảng đặt ra mục tiêu đưa nước ta đến năm 2030 trở thành nước có nền công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại và vượt qua mức thu nhập trung bình; năm 2045 trở thành nước có thu nhập cao, phồn vinh, hạnh phúc. Yêu cầu đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm chắc chắn sẽ là động lực lớn, thúc đẩy chúng ta đạt được những mục tiêu đó.

Nếu xét về phẩm chất đạo đức gắn với trách nhiệm, thì đội ngũ cán bộ có thể chia thành 3 loại: Thứ nhất là những cán bộ, đảng viên gương mẫu, dám nghĩ, dám làm, không lùi bước trước khó khăn. Thứ hai, là những người có tư tưởng trông chờ, thụ động, né tránh việc khó, không có tinh thần đổi mới, sáng tạo, chịu trách nhiệm, mà chỉ vo tròn, “giữ ghế”. Và thứ ba, là những cán bộ thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền để thu lợi cá nhân.

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đẩy mạnh nỗ lực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đưa ra ánh sáng nhiều cán bộ, đảng viên thuộc nhóm thứ ba. Tuy nhiên, nhóm thứ hai thì dường như vẫn “vô can”. Quan điểm “làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, không làm không sai” được nhóm này coi là “kim chỉ nam”.

Nhìn ra lĩnh vực tư nhân, các doanh nghiệp ngày nay đang thể hiện tính năng động, sáng tạo rất mạnh mẽ, áp dụng nhiều sáng kiến, ý tưởng mới dựa trên những nghiên cứu thực tiễn, để đạt được những bước tiến vượt bậc. Trong khi đó, ở lĩnh vực công, tình trạng trì trệ, không dám làm, dám chịu trách nhiệm đã trở thành một “căn bệnh” thâm căn cố đế. Chuyện một bộ phận cán bộ, đảng viên thường “rỉ tai” nhau “bây giờ làm gì cũng sợ sai, làm xong rồi cũng không biết có sai hay không” không phải là cá biệt.

Cán bộ biết sợ sai là tốt, nhưng sợ đến mức không dám làm, không dám hành động vì sợ gánh trách nhiệm thì lại là một vấn đề đáng lên án. “Sợ sai” ở đây phải hiểu là người cán bộ giữ được phẩm chất đạo đức trong sáng, liêm chính, nắm vững quy định về luật pháp, hiểu biết về chuyên môn để không sai phạm, vi phạm. Chứ không phải “sợ sai” là đồng nghĩa luôn với thụ động, làm việc gì cũng theo lối mòn, “bó gối” chờ chỉ đạo, hoặc đùn đẩy trách nhiệm sang bộ phận khác. “Sợ sai” như vậy đồng nghĩa với gây trì trệ, kìm hãm sự phát triển của tập thể, và rộng ra là cả đất nước.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Tư tưởng bảo thủ như những sợi dây cột chân cột tay người ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám làm”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng từng tuyên bố rất rõ: “Ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm”.

Cán bộ “sợ sai”, không dám nghĩ dám làm, có thể xuất phát từ nguyên nhân trình độ, năng lực kém, lại không chịu học tập, tự trau dồi, bồi dưỡng, chỉ bo bo giữ ghế, đùn trách nhiệm cho người khác. Những cán bộ như vậy thì cần phải loại bỏ khỏi đội ngũ.

Nhưng đáng tiếc nhất là cán bộ có trình độ, năng lực, nhưng không dám nghĩ dám làm, sợ gánh trách nhiệm do “cơ chế”. Thời gian qua, việc khởi tố, kết án một loạt cán bộ, đảng viên, kể cả những cán bộ cấp cao, đã khôi phục được lòng tin mạnh mẽ của quần chúng nhân dân vào Đảng. Nhưng với một bộ phận cán bộ, đảng viên còn non về bản lĩnh, thì chiến dịch chống tham nhũng, tiêu cực càng khiến họ bất an, rút sâu hơn vào vỏ bọc an toàn.

Chính vì vậy, dự thảo Nghị định mới của Chính phủ về khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung là một bước đi cần thiết để cởi bỏ sự bó buộc trong tinh thần của những người cán bộ có năng lực, muốn áp dụng những sáng tạo, đổi mới vào công việc để đạt được hiệu quả, lợi ích cao hơn cho tập thể, nhưng còn e dè “cơ chế”.

Điều quan trọng, dám nghĩ, dám làm không phải làm liều, làm bừa mà là có cơ sở lý luận và thực tiễn, có sự hiểu biết, tính toán thận trọng. Thực tiễn cuộc sống cho thấy, cái mới ra đời chưa bao giờ là suôn sẻ, thậm chí sẽ vấp phải nhiều trở ngại. Vì vậy, chúng ta phải có cơ chế để khuyến khích cho những ý tưởng mới, cách làm hay, những sáng kiến đổi mới, cải tiến đột phá, chưa có tiền lệ nhằm mang lại lợi ích, hiệu quả cao hơn. Từng cá nhân, bộ phận dám nghĩ, dám làm, dám sáng tạo, đổi mới, thì tập thể, địa phương và quốc gia dân tộc mới có thể đạt được những bước phát triển mạnh mẽ.

Trên thực tế, thành quả của công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước ta trong hàng chục năm qua đã ghi nhận phần đóng góp to lớn của những nhân tố dám nghĩ dám làm, dám đổi mới, thể hiện năng lực và bản lĩnh của người cán bộ. Không thể không nhắc tới Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc, người khởi xướng chủ trương “Khoán hộ” (“Khoán 10”) ở Vĩnh Phúc những năm 1966-1968 với những đổi mới, sáng tạo phát triển nông nghiệp; Tổng Bí thư Trường Chinh, người đặt nền móng cho công cuộc Đổi mới; nhà bác học Lương Định Của, người đi đầu trong lĩnh vực cải tạo giống cây trồng; Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với chủ trương “Những việc cần làm ngay”, Giáo sư Trần Đại Nghĩa với những cống hiến to lớn cho ngành công nghiệp quốc phòng.v.v.. Đó là những người cán bộ, đảng viên không chỉ thấm nhuần đạo đức cách mạng, mà còn phát huy vai trò nêu gương, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích của nhân dân.

Một nghị định của Chính phủ về bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm sẽ tạo ra hành lang pháp lý để khuyến khích, bảo vệ những cán bộ “6 dám” mà Đại hội Đảng XIII đã nêu. Việc xây dựng dự thảo nghị định là cấp bách, nhưng cũng không thể vội vàng, qua loa mà cần tiếp thu những ý kiến đóng góp rộng rãi, thực chất và xây dựng để hoàn thiện hành lang pháp lý này một cách thấu đáo, toàn diện, tránh những kẽ hở để bị lợi dụng thành “che chắn” cho sai phạm. Cơ chế bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới khi đó chắc chắn sẽ khơi dậy được khát vọng cống hiến, tinh thần sáng tạo, hết lòng hết sức vì nước, vì dân của đội ngũ cán bộ

QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM VÀ AUSTRALIA


Nhận lời mời của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, Toàn quyền Australia David Hurley thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 3 đến 6/4/2023. Australia là nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trải qua 50 năm (26/2/1973 - 26/2/2023), quan hệ Việt Nam và Australia ngày càng phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, kinh tế-thương mại…

Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam

 Mặc trang phục đặc trưng của nước ngoài để chụp ảnh tại các khu du lịch Việt Nam là quảng bá hết sức vô duyên cho văn hóa nước ngoài, thiếu tôn trọng văn hóa bản địa, văn hóa dân tộc và có thể khiến du khách quốc tế hiểu nhầm. Thay vào đó nên khuyến khích check-in với trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số ở địa phương, vừa nổi bật, vừa phù hợp với khung cảnh.

KHÔNG THỂ BẺ CONG SỰ THẬT!

     Hiện nay, lợi dụng việc lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân vào dự thảo Luật Đất đai ( sửa đổi) thì có nhiều đối tượng chống đối đã lợi dụng quyền tự do ngôn luận và quyền dân chủ đưa ra nhiều luận điệu xuyên tạc hòng chống phá hoạt động hết sức có ý nghĩa này. Cụ thể là:
     Dưới chiêu bài “Trí thức góp ý dự thảo Luật”, họ cố tình xuyên tạc, vu khống theo lối “ bẻ cong sự thật” nhằm bôi đen các vấn đề nhạy cảm, phức tạp liên quan đến đất đai nhằm thực hiện ý đồ chống phá gây rối tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Thời gian gần đây, trên Internet và mạng xã hội đã xuất hiện một số ý kiến núp bóng “ góp ý” nhưng thực tế đã xuyên tạc khi cho rằng, Quốc hội Việt Nam sửa đổi Luật Đất đai nhằm mục đích “ thao túng thị trường đất đai”, vì “ lợi ích nhóm” chứ không vì quyền lợi của nhân dân.
     Họ dùng thủ thuật cắt gọt, làm sai lệch phát biểu chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước để vu khống và tố cáo. Thêm vào đó, họ phủ nhận những gì mà đổi mới đã và đang đem lại những kết quả tích cực trong việc thực hiện pháp luật nhiều năm qua khi cho rằng có sự “ cài cắm” lợi ích vào việc xây dựng pháp luật. Nguy hiểm hơn khi họ quy kết rằng, “ Việt Nam có sửa đổi Luật nhiều lần thì cũng chỉ là hoạt động chắp vá, không thực tiễn, không hề vì dân”. Họ còn vu khống việc sửa đổi Luật Đất đai để tạo cơ sở pháp lý cho việc “ cướp đất” của chính quyền cộng sản Việt Nam và họ lộ rõ mục đích của mình khi trở lại ý kiến: Muốn gỡ rối thì chính quyền Việt Nam phải xóa bỏ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai! Đây là “ chiêu trò” mà họ “ kiên định” đưa ra rất nhiều lần, ngay từ khi các cơ quan có thẩm quyền lên Kế hoạch sửa đổi Luật Đất đai và đưa dự thảo sửa đổi Luật ra xin ý kiến của các tổ chức và cá nhân từ nhiều tháng trước đây.
     Một trong những thủ đoạn rất nguy hiểm nữa là họ thường xuyên đăng các nội dung liên quan đến những tiêu cực về đến đất đai, như các vụ án về tranh chấp phức tạp xảy ra ở một số nơi…nhằm tác động đến tư tưởng của ngưới dân và phát sinh tư tưởng không tin tưởng của nhân dân vào hiệu quả của việc lấy ý kiến đối với dự thảo sửa đổi Luật. Họ còn liên tục lập những ních ảo, tài khoản giả mạo người dân để bình luận, kích động và tạo tâm lý không tin tưởng vào chính quyền.
    Như chúng ta đều biết, việc lấy ý kiến đóng góp với dự thảo Luật Đất đai ( sửa đổi) là việc làm hoàn toàn đúng đắn để phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, đặt nhân dân vào vị trí trung tâm nhằm bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của người dân. Hơn nữa, việc sửa đổi Luật Đất đai là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy nguồn lực đất đai theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao…
     Thời gian qua, công tác lấy ý kiến của các tổ chức và cá nhân được tổ chức rộng rãi trên phạm vi toàn quốc và thu hút sự tham gia của các cấp, các ngành, các giai tầng xã hội. Trên cơ sở những ý kiến góp ý, dự thảo sẽ được Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII sắp tới. Do vậy, những ý kiến xuyên tạc về việc lấy ý kiến dự thảo Luật Đất đai ( sửa đổi) trong thời gian hiện nay càng giúp cho cộng đồng nâng cao tinh thần cảnh giác cao độ đối với những thông tin sai lệch kiểu đó. Chúng ta tin tưởng rằng, các tầng lớp nhân dân sẽ không tin vào những thông tin hòng bẻ cong sự thật nhằm xuyên tạc chính sách đất đai đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam./.
Yêu nước ST.

Chỉ số hạnh phúc của Viêt Nam đã tăng 12 bậc

 Báo cáo hạnh phúc thế giới (World Happiness Report-WHR) năm 2023 công bố ngày 20-3-2023 cho thấy chỉ số hạnh phúc của Việt Nam đã tăng 12 bậc, từ vị trí 77 vào năm 2022 lên vị trí 65 trong năm 2023. Hạnh phúc là mục tiêu cơ bản của con người. Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận mục tiêu này và kêu gọi cách tiếp cận toàn diện, công bằng và cân bằng hơn đối với tăng trưởng kinh tế nhằm thúc đẩy hạnh phúc và phúc lợi của tất cả mọi người. Các tiêu chí được đánh giá gồm: GDP bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội, tuổi thọ trung bình, quyền tự do lựa chọn cuộc sống, sự rộng lượng và nhận thức về tham nhũng.st

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 03 THÁNG 4 NĂM 1953!

"GIÚP NHÂN DÂN NƯỚC BẠN
LÀ TỰ GIÚP MÌNH”!
Đó là lời của Bác được trích trong thư gửi các đơn vị bộ đội có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào ngày 3/4/1953: "Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”.
     Thực hiện tuyên bố chung “Đoàn kết Việt-Miên-Lào chống Pháp”, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho Quân đội ta nhiệm vụ vừa giúp bạn tổ chức, xây dựng lực lượng, vừa cùng quân và dân nước bạn trực tiếp chiến đấu chống quân xâm lược. Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta tham gia làm nhiệm vụ quốc tế, phải coi việc giúp đỡ bạn là tự giúp mình.
     Thực hiện lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn sát cánh, gắn bó, chiến đấu và sẵn sàng hy sinh để giúp đỡ quân đội và nhân dân nước bạn trên tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả, trong sáng và vô tư; cùng nhau đánh thắng kẻ thù chung, giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân, xây dựng và phát triển đất nước.
     Mối quan hệ, tình đoàn kết đặc biệt Việt-Lào mãi mãi là niềm tự hào của hai dân tộc. Đó là mối quan hệ mẫu mực hiếm có, trong sáng, hết mực thủy chung, được xây đắp trên tinh thần quốc tế vô sản, tạo nên một sức mạnh giúp nhân dân hai nước vượt qua mọi khó khăn, giành được thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
     Ngày nay, mối quan hệ đặc biệt Việt-Lào vẫn được Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội hai nước không ngừng củng cố và tăng cường. Hợp tác chính trị ngày càng bền chặt, hợp tác quốc phòng, an ninh được giữ vững; hợp tác kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội ngày càng đa dạng… mang lại hiệu quả và lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thương nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua/ Việt-Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
     Học và làm theo lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, tích cực giúp bạn, đẩy mạnh hợp tác quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển./.
Môi trường (Yn) ST.

NGUYÊN TỔNG THỐNG CHILE KHÓC KHI NGUYÊN CHỦ TỊCH NƯỚC NGUYỄN MINH TRIẾT KỂ VỀ "NGƯỜI MẸ" CỦA CẢ HAI

 Chiều 30-3, tại thị xã Bến Cát (Bình Dương) diễn ra cuộc hội ngộ xúc động giữa hai người bạn thân và đồng thời là hai anh em có chung một “người mẹ”: Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và nguyên Tổng thống Chile Michelle Bachelet.

Đây là lần hội ngộ đầu tiên giữa hai anh em sau lần gặp gần nhất ở Hà Nội vào năm 2017, nhân dịp Việt Nam tổ chức Hội nghị cấp cao APEC.
"Hôm nay tôi và các lãnh đạo tỉnh Bình Dương rất vui được chào đón nguyên Tổng thống Chile Michelle Bachelet và đoàn đại biểu đến thăm. Chile là người bạn lớn của nhân dân Việt Nam. Riêng bà Bachelet có nhiều đóng góp rất quan trọng cho quan hệ hợp tác giữa hai nước" - Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết chia sẻ khi đón tiếp bà Bachelet tại nhà riêng.
Sau đó, nguyên Chủ tịch nước xúc động nói: "Tôi rất nhớ mẹ Ángela. Mẹ Ángela là người mẹ duy nhất có hai con là nguyên thủ quốc gia" - nguyên lãnh đạo Việt Nam xúc động kể về bà Ángela Margarita Jeria Gómez - mẹ ruột của nguyên Tổng thống Bachelet và mẹ nuôi của ông.
Chủ tịch nước và tổng thống tuy khác nhau về cách gọi nhưng cùng một nghĩa là "President", tức nguyên thủ quốc gia.
Trong lúc nguyên lãnh đạo Việt Nam kể lại những kỷ niệm của ông về mẹ Ángela, bà Bachelet chăm chú nghe và có những khoảnh khắc bà xúc động, lấy tay quệt nước mắt.
Trở lại Việt Nam lần thứ tư đúng dịp kỷ niệm 52 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Chile, nguyên Tổng thống Chile Michelle Bachelet cho biết bà như trở về nhà. "Tôi rất vui mừng và hạnh phúc được trở lại Việt Nam. Tôi luôn nhận được sự đón tiếp rất đặc biệt của Việt Nam, nhất là của người anh Nguyễn Minh Triết" - bà xúc động nói.
Trong chuyến thăm lần này, bà Bachelet đi cùng Quận trưởng và các lãnh đạo Quận Cerro Navia, địa phương Chile nơi đặt bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bà Bachelet là một trong những lãnh đạo nước ngoài thăm Việt Nam nhiều lần nhất, tổng cộng 5 lần. Bà thăm Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1977 ở tuổi 26 với tư cách là thành viên của Liên đoàn Thanh niên Dân chủ thế giới, phản đối chiến tranh Việt Nam. Sau đó, bà thăm Việt Nam thêm nhiều lần nữa trên cương vị Tổng thống Chile và phó Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.
Tình bạn đặc biệt giữa bà Bachelet và nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bắt đầu từ năm 2006, khi Tổng thống Chile Bachelet đến Việt Nam dự Tuần lễ cấp cao APEC, sự kiện quốc tế do Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết chủ trì.
Trong thời gian còn đương chức (2006-2011), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Tổng thống Chile Bachelet luôn nỗ lực dành thời gian gặp nhau bên lề các diễn đàn đa phương như Thượng đỉnh APEC ở Singapore năm 2010.
Về phía ngược lại, trong hai nhiệm kỳ tổng thống (2006 - 2010 và 2014-2018), bà Bachelet luôn quan tâm thúc đẩy quan hệ giữa hai nước vì "Việt Nam luôn trong trái tìm bà". Bà đã nâng cấp quan hệ đối tác toàn diện Chile - Việt Nam vào năm 2007.
Khi còn là nguyên thủ của Chile, bà Bachelet luôn đưa mẹ đi cùng trong những chuyến công du nước ngoài. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã từng gặp mẹ Ángela hai lần ở Việt Nam. Khi ông thăm chính thức Chile năm 2019, ông cũng đến tận nhà riêng thăm em gái Bachelet và mẹ Ángela./.
ST


THÁNG 4❤️ NHỚ NGÀY NON SÔNG THỐNG NHẤT!

 Một tháng Tư nữa đã lại về, ta chợt quên bao chuyện riêng tư thường nhật để hòa chung niềm vui toàn dân tộc – niềm vui của ngày chiến thắng 30-4, ngày giang sơn được nối liền một dải từ ải Nam Quan đến tận mũi Cà Mau...

Từ làng trước xóm sau, từ phố phường tấp nập đến bản vắng buôn sâu đều tưng bừng, rạng rỡ cờ hoa hướng về ngày đại lễ…
Tháng Tư bồi hồi, xao xuyến lòng ta. Ta nhớ về những cuộc tiễn đưa trước cổng làng, trên những cây cầu, những bến tàu, nhà ga hay trong khuôn viên trường đại học. Những chàng trai mười tám, đôi mươi phơi phới tuổi xuân cùng gửi lại cho người thân việc cấy cày, chài lưới, để cùng khoác ba lô, cầm súng náo nức lên đường vào Nam, hòa mình vào cuộc hành quân gian lao mà anh dũng của toàn dân tộc. Người ra đi giữ gìn một niềm tin chiến thắng, người ở lại vững bền một lòng son sắt, thủy chung, mong về một ngày đoàn tụ non sông…
Ta nhớ về những anh giải phóng quân yêu đời, hồn nhiên với vành mũ tai bèo cười rung rung vòng lá ngụy trang trong nắng sớm. Lớp cha trước, lớp con sau cùng thành người đồng chí, cùng chung câu quân hành tiến về ngày giải phóng miền Nam.
Những người lính áo vương bụi đỏ Trường Sơn, bước chân thần tốc góp phần làm nên từng “cơn bão lửa”. Từ Tây Nguyên, Huế – Đà Nẵng, Sài Gòn – những địa danh là những chiến công nối dài mùa xuân thắng lợi, nối dài con đường độc lập, tự do đang tỏa đi khắp thân mình Tổ quốc.
Tháng Tư thiêng liêng dâng hương hoa và khói nhang tri ân những người con của quê hương đã ngã xuống dọc dặm dài đất nước. Các anh nằm lại ven rừng, trên đỉnh đèo, sườn núi, dưới lòng sông và ở ngay cửa ngõ Sài Gòn – nơi cách niềm vui chiến thắng chỉ mấy bước chân. Các anh nằm lại mãi mãi với tuổi hai mươi trẻ trung, sôi nổi để bao người mẹ, người vợ mòn mỏi chờ trông, mòn mỏi dõi tìm trong khung kính mờ tỏ khói hương…
Đã 48 tháng Tư trôi qua, thời gian dần phủ màu xanh cây rừng trên khắp chiến trường xưa. Sự sống vươn lên từ những nương chè, cánh rừng cà phê, cao su và công trường, nhà máy… đang dần chữa lành vết thương chiến tranh.
Đất nước, quê hương đã thay da đổi thịt và vươn lên từng ngày trong giọng hát, tiếng cười của mỗi người dân nước Việt. Lòng ta cũng trẻ như cờ đỏ sao vàng hòa cùng bài ca chiến thắng đang náo nức ngân vang: “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng/ Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng…”.
ST


SỨC MẠNH PHI THƯỜNG CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM

 Đi dưới trời khuya sao đêm lấp lánh

Tiếng hát ai vang vọng cây rừng
Phải chăng em cô gái mở đường
Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát.
Ơi những cô con gái đang ngày đêm mở đường
Hỏi em bao nhiêu tuổi mà sức em phi thường...
ST




GIỚI HẠN NÀO CHO SÁNG TẠO, DÁM NGHĨ, DÁM LÀM?

 Những ngày cuối tháng 3-2023, Bộ Nội vụ tổ chức nhiều cuộc hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Đây là nghị định cụ thể hoá Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.

Đây là vấn đề mới, khó thu hút sự quan tâm không chỉ đội ngũ cán bộ, đảng viên mà toàn xã hội. Bởi cuộc sống luôn biến động, nhất là khi tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, suy thoái kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh… đang đặt ra những khó khăn, thách thức không thể giải quyết trong một sớm, một chiều. Không có cơ chế khuyến khích, tạo động lực cho cán bộ sáng tạo, dám đột phá, đương đầu với thử thách, khó thúc đẩy được công cuộc đổi mới đi lên.
Nhưng sáng tạo, dám nghĩ, dám làm đến đâu?
Lằn ranh giữa đổi mới, thực hiện các ý tưởng sáng tạo, dám làm những suy nghĩ chưa từng có với cố ý làm trái rất mỏng manh. Hơn nữa, dù đã có rất nhiều tiến bộ nhưng hệ thống pháp luật của ta chưa đồng bộ. Cùng một vấn đề, áp dụng luật này thì đúng, nhưng khi thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra áp dụng luật khác thì thành sai. Thời điểm này có thể đúng, khi kiểm tra ở thời điểm khác lại sai, cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung chưa được thể chế hóa…
Tuy nhiên, không vì thế mà cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý có tinh thần trách nhiệm cao chùn bước.
Quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, thực tiễn đòi hỏi cán bộ phải có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách. Trong đó có những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không còn phù hợp với thực tiễn, nhằm mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước, dân tộc. Không có một Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc dám vượt lên đường lối làm ăn tập thể để “giao khoán ruộng" cho nông dân, làm sao chúng ta có được "khoán 10", nhờ đó mà đất nước mới thoát khỏi nền nông nghiệp năng suất thấp?
Việt Nam chẳng những không phải vất vả lo dân thiếu lương thực mà còn trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo, khi tiềm năng đất đai, lao động, sự sáng tạo của nông dân được khai thác triệt để. Mặc dù khi đó, cái giá phải trả của người đi tiên phong là những sóng gió, thăng trầm. Không có một Tổng Bí thư Trường Chinh với tầm nhìn sáng suốt, bản lĩnh quyết đoán làm sao những sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của cấp được bảo vệ, thực hiện thành công trên cả nước?
Giữa bao vây cấm vận, muôn vàn bao khó khăn bộn bề của đất nước, không có bước đi mang tính "vượt rào" của Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt; không có tinh thần kiên định "nói và làm" của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh làm sao chúng ta có sức mạnh phá bỏ những rào cản nằm ngay trong chính bộ máy lãnh đạo, xoá bỏ tình trạng trì trệ, bảo thủ, tháo gỡ những vấn đề bức xúc của đất nước và làm sao có được thành tựu rạng rỡ của sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua?
Có được tinh thần sáng tạo, dám nói, dám làm ấy phải chăng không chỉ có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với sự nghiệp của Đảng mà trong suy nghĩ của những cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn ghi lòng tạc dạ lời dạy của Bác Hồ làm kim chỉ nam trong mọi hành động: Việc gì có lợi cho dân ta phải cố gắng làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh. Đấy cũng là giới hạn rộng lớn mà mỗi cán bộ, đảng viên thoả sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích của Nhân dân, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
ST

LỜI BÁC DẶN NĂM XƯA: “TRÍ TUỆ VÀ SÁNG KIẾN CỦA QUẦN CHÚNG LÀ VÔ TẬN”

 Ta càng thêm nhớ ông Ké, già Thu trong những ngày hoạt động trong sự đùm bọc nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc. “Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán... người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mạng”.

Cách đây tròn 65 năm, trong lưu bút ghi tại triển lãm ngành Hậu cần quân đội (1-4-1958), Bác Hồ viết: “Trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận”.
Đây không chỉ là lời nhắc nhở với riêng cán bộ, chiến sĩ ngành Hậu cần quân đội, mà là cho đến hôm nay vẫn là bài học đạo đức dành cho tất cả chúng ta về ý thức gần dân, trọng dân và phát huy sức mạnh của Nhân dân trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào.
Không quá khi nói biểu tượng sức mạnh của dân tộc Việt Nam là lòng dân. Lời Bác nhắc nhớ cảnh dân làng góp cơm, góp cà để cậu bé Gióng vươn mình thành người khổng lồ đánh đuổi giặc Ân. Những tích truyện dân gian về các bậc tiên hiền đã dựa vào sức mạnh của Nhân dân để đánh đuổi ngoại xâm, giữ yên bờ cõi vẫn truyền miệng đời đời. Là tiếng hô “Sát Thát” rung chuyển điện Diên Hồng của bô lão cả nước, “chúng chí thành thành” bảo vệ non sông xã tắc vững vàng trước vó ngựa Nguyên Mông. Là Lê Lợi trong những ngày khởi nghĩa Lam Sơn còn trong trứng nước, đã được những vợ chồng lão nông đang bắt cá, bà hàng nước ven đường cứu giúp lúc gian nguy; được dân bản dưới chân núi Phay Lệnh, Phay Tong giúp đặt bẫy Pát giết bầy chó ngao của giặc Minh... Là Quang Trung Nguyễn Huệ trọng sĩ, cầu hiền, nhất mực tôn La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là “bậc thầy để thờ”, 2 lần tìm để hỏi kế diệt giặc; thâu nạp quanh mình những sĩ phu đứng đầu đất Bắc Hà như Ngô Văn Sở, Đặng Tiến Đông, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm... thành những cánh tay đắc lực cho sự nghiệp thống nhất sơn hà.
Và, chẳng phải hình ảnh chiếc xe thồ là biểu tượng cho sáng kiến của Nhân dân, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đấy sao.
Ta càng thêm nhớ ông Ké, già Thu trong những ngày hoạt động trong sự đùm bọc nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc. “Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán... người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mạng...” (Lòng nhân ái và đức khoan dung, NXB Hà Nội, 2020). Trong căn lán Nà Lừa - Tân Trào trước ngày tổng khởi nghĩa, Bác lâm bệnh nặng, được “Ông cụ lang già người Tày xem mạch, sờ trán Bác rồi đốt cháy một thứ củ vừa đào trong rừng về, hòa vào cháo loãng. Sau đó Bác tỉnh. Hôm sau, Bác ăn thêm vài lần với cháo loãng nữa, cơn sốt nhẹ dần...” (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký) - chẳng phải cũng là biểu hiện sinh động của trí tuệ quần chúng.
Hoạt động cách mạng trong sự đùm bọc của Nhân dân, vì thế mà trong suốt sự nghiệp cách mạng của mình, Bác luôn đề cao tư tưởng trọng dân, vì Nhân dân phục vụ, coi trọng sức mạnh vĩ đại của Nhân dân. Người khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân. Khi sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thành vô địch”. “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được... Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt”.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị là Chủ tịch nước, Người đã có bài viết với tiêu đề “Tìm người tài-đức” đăng trên Báo Cứu quốc để quy tụ, tập hợp nhân sĩ, trí thức mang tài năng, đảm lược ra giúp nước. Cùng với lời hiệu triệu, ứng xử của Bác với nhân sĩ, trí thức cũng trở thành những bài học luôn nóng hổi tính thời sự. Ví như chuyện, sau khi Hội nghị Fontainebleau thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với phía Pháp bản Tạm ước ngày 14-9-1946 nhằm kéo dài hòa bình. Trước lúc trở về Tổ quốc, Bác gặp và nói với kỹ sư Phạm Quang Lễ - thời điểm đó đang được nước Pháp hết sức trọng dụng vì tài năng, rằng: “Bác về nước, chú chuẩn bị về với Bác. Hai ngày nữa ta lên đường”. Chỉ thế thôi và cách mạng Việt Nam có được một Thiếu tướng, Giáo sư, Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa sau này.
Học tập và làm theo tư tưởng trọng dân và phong cách gần dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cấp ủy, chính quyền cần luôn quan tâm phát huy dân chủ, đề cao ý kiến của Nhân dân. Có các giải pháp để tiếp tục tập hợp, đoàn kết, cổ vũ và khuyến khích Nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước “đem sức dân, tài dân, của dân làm lợi cho dân”./.
ST

NHỮNG CÔ GÁI TRƯỜNG SƠN.

 Có lẽ giờ em đã ngủ ngon

Trong chăn ấm bên người thương hạnh phúc
Em có mơ thấy ngày xưa đi đ.ánh gi.ặc
Đường Trường Sơn mây trải lối anh qua.
Em có nhớ những tr.ận b.om lửa khói mịt mờ
Lấp hố b.om cho xe ra t.iền tuyến
Em còn nhớ rừng trường sơn những chiều mưa lạnh
Những ngày dông cơn lá đổ rừng già.
Em còn nhớ ngày đoàn quân đã từng qua
Dặm Trường Sơn đá ghềnh rừng heo hút
Nụ cười em má mồ hôi thấm ướt
Vẫn ửng hồng tươi thắm tuổi còn xuân.
Anh nhắc thầm ôi cô gái Việt Nam
Trong khổ đ.au vẫn tươi duyên đến lạ
Có phải em từ miền quê quan họ
Từng têm trầu như cô Tấm ngày xưa.
Mà kiên trung trước b.om đ.ạn kẻ th.ù.
Ủ ấm tình quê ngọn rau rừng măng đắng
Em có nhớ bên ven rừng cháy bỏng
Em chở đò đưa đón các anh qua
Đã bao lần em chặt nứa kéo đưa về
Bó ống xăng dầu ngăn che b.om đ.ạn gi.ặc
Đã bao lần hang cổng trời em hát
Đường Trường Sơn lầy lội lối anh qua.
Bây giờ đây Nam Bắc đã một nhà
Em còn nhớ anh nhớ Trường Sơn ngày ấy
Cây gậy Trường Sơn giờ nở hoa kết trái
Nụ cười xưa giờ má thêm một nếp nhăn.
Vẫn ngời ngời trong hai tiếng Việt Nam
Em đi hội trong lễ nghi quân phục mới
Ngực đỏ thắm huân chương quân đội
Ngôi sao vàng lấp lánh mũ ngày xưa./.
ST