Thứ Ba, 5 tháng 9, 2023

 

BƯỚC ĐẦU NHÌN LẠI HẬU QUẢ SAU 555 NGÀY 
CUỘC XUNG ĐỘT QUÂN SỰ NGA - UKRAINE

 

Xung đột quân sự Nga - Ukraine bắt đầu từ ngày 24-2-2022- một sự kiện làm rung chuyển toàn cầu trong thời gian qua được đánh giá sẽ tác động không nhỏ tới cấu trúc an ninh khu vực châu Âu, thậm chí cả cục diện chính trị thế giới. Đến nay, 555 ngày đã trôi qua, cục diện chiến trường vẫn tiếp tục ở thế giằng co với tính chất, mức độ giao tranh ngày càng nghiêm trọng và khốc liệt hơn. Vấn đề đặt ra là, cuộc xung đột này sẽ kết thúc khi nào và như thế nào, đồng thời để lại những hệ quả gì đối với cục diện thế giới cả trong hiện tại lẫn tương lai?

Có rất nhiều điều để nói về 555 ngày xảy ra xung đột Nga – Ukraine, hay nhìn rộng ra là châu Âu và thế giới đã và đang chao đảo về cuộc xung đột này. Có thể kể đến một số nét khái quát cơ bản như sau:

1.Những hậu quả nhìn thấy được

Một là, hoang tàn, đổ nát, mất mát nơi tiền tuyến là những hệ quả rõ nét, khốc liệt nhất của xung đột tại Ukraine, nhưng cuộc xung đột còn đi xa hơn thế, từ đối đầu trực diện trên chiến trường đã nhanh chóng lan rộng trên nhiều mặt trận từ ngoại giao đến truyền thông, kinh tế và chưa có dấu hiệu chấm dứt. Ông Ian Bremmer - Nhà nghiên cứu chính trị quốc tế, Chủ tịch Eurasia: "Cuộc chiến sẽ trở nên nguy hiểm hơn rất nhiều bởi vì chúng ta không chỉ nói về những gì xảy ra trên thực địa mà còn là các cuộc tấn công mạng, tấn công đường ống, hoạt động gián điệp đến cuộc chiến truyền thông".

GS. Sergey Radchenko - Nhà nghiên cứu quốc tế, Đại học Johns Hopkins: "Mọi thứ đang ở trong tình trạng không chắc chắn. Có vẻ như cả hai đều mong muốn đạt được nhiều lợi ích hơn trên chiến trường trước khi cân nhắc bất kỳ hình thức đàm phán nào".

Hai là, Theo ông Sergey Lavrov cho biết, đến nay (ngày 19 tháng 8 năm 2023), phương Tây đã hỗ trợ Ukraine :Về tiền bạc, tổng hỗ trợ của phương Tây cho chế độ Zelensky trong thời gian diễn ra chiến dịch quân sự đặc biệt đã vượt 160 tỉ USD, bao gồm cả viện trợ quân sự trị giá 75 tỉ USD". Mỹ và Phương Tây áp đặt tổng số trên 15 nghìn lệnh trừng phạt các loại với cá nhân, tổ chức của Nga. Trong khi Nga tiếp tục duy trì quan điểm cứng rắn, sẵn sàng cho một cuộc chiến tiêu hao, lâu dài. Trên quy mô toàn cầu, cuộc xung đột đã khiến thế cân bằng mong manh giữa các cường quốc thêm lung lay. Các lĩnh vực từ năng lượng, dữ liệu, cơ sở hạ tầng... đều trở thành lĩnh vực cạnh tranh gay gắt, đối đầu giữa các bên, đẩy thế giới vào một cục diện "đa cực đầy rủi ro". Các nước gia tăng củng cố sức mạnh quân sự, quan hệ đồng minh, tìm kiếm ảnh hưởng trên toàn cầu, khiến thế giới phân cực sâu sắc.

GS. Carl Thayer - Nhà nghiên cứu chính trị quốc tế, Đại học New South Wales, Australia: "Xu hướng toàn cầu hóa và đa cực đang đối mặt với những lực cản lớn, đặc biệt là sự cạnh tranh, mâu thuẫn giữa các nước lớn… Những gì chúng ta thấy là trật tự thế giới đa cực nhưng cũng phân cực hơn".

Cuộc xung đột cũng khiến thương mại toàn cầu trở nên phân mảnh hơn, xu hướng toàn cầu hóa bị đe dọa. Thiệt hại từ cuộc xung đột ước tính lên tới hơn hàng nghìn tỷ USD, khoảng 30% việc làm bị xóa sổ, đi kèm với đó là khủng hoảng năng lượng, gián đoạn nguồn cung ngũ cốc toàn cầu.

Ông Hamid Rashid - Cục các vấn đề Kinh tế và Xã hội của Liên hợp quốc: "Cuộc xung đột Nga – Ukraine là một cú sốc lớn đối với nền kinh tế thế giới".

Trong một thế giới đầy rủi ro với những thách thức đa tầng từ kinh tế tới nhân đạo, các nước nhấn mạnh ưu tiên tìm kiếm giải pháp hòa bình, kết thúc chiến tranh thay vì răn đe, trừng phạt, đối đầu...

2. Con đường đến hòa bình vẫn đầy bế tắc

Trong bối cảnh triển vọng đàm phán vẫn còn xa, các chuyên gia cho rằng, một trong các kịch bản khả quan của cuộc xung đột này sẽ là một dạng "xung đột đóng băng", tức là sẽ không có các cuộc chiến quy mô lớn nhưng xung đột không chấm dứt.

Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres kêu gọi: "Chúng ta phải ngăn chặn sự leo thang hơn nữa. Chúng ta phải khuyến khích với mọi nỗ lực để chấm dứt đổ máu, tạo cơ hội cho hòa bình".

Thủ tướng Namibia Saara Kuugongelwa Amadhila cho rằng: "Chúng ta cần một giải pháp hòa bình cho xung đột để toàn thế giới tập trung vào tái thiết, cải thiện đời sống người dân thay vì chi tiêu để mua vũ khí và tạo ra sự thù địch".

Vào thời điểm 1 năm cuộc xung đột, những tiếng nói kêu gọi tìm kiếm hòa bình một lần nữa lại vang lên trên các diễn đàn quốc tế và trong các cuộc gặp cấp cao. Trung Quốc, sau nhiều kêu gọi, giờ đây đã thể hiện rõ quan điểm làm trung gian hòa giải và lần đầu tiên đưa ra kế hoạch hòa bình 12 điểm cho Ukraine. Nhưng đó là những bên không liên quan tới xung đột, còn với những người trong cuộc, Nga - Ukraine và những nước phương Tây ủng hộ Ukraine, quan điểm vẫn còn rất cứng rắn.

Trên chiến trường, giao tranh từng ngày diễn ra dữ dội. Trên bàn đàm phán, tiếng nói đồng thuận chưa thể tìm thấy từ tất cả các bên. Moscow ở thời điểm này vẫn giữ vững quyết tâm đạt bằng được những mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện đã mất niềm tin vào thiện chí của phương Tây.

Tổng thống Mỹ Joe Biden: "Chúng tôi sẽ tiếp tục duy trì chế độ trừng phạt lớn nhất từng được áp dụng ở bất kỳ quốc gia nào trong lịch sử. Chúng tôi sẽ công bố thêm các biện pháp trừng phạt trong tuần này cùng với các đối tác của mình".

Tổng thống Nga Vladimir Putin nhấn mạnh: "Phương Tây đã quay lưng lại với Nga không chỉ về quân sự mà còn về kinh tế. Những người khởi xướng các biện pháp trừng phạt chống lại Nga đã tự trừng phạt chính họ, gây ra tình trạng tăng giá, mất việc làm và khủng hoảng năng lượng ở quốc gia của họ". "Sự thống nhất không thể phá vỡ của Nga là chìa khóa cho chiến thắng của chúng ta".

Chính sách trừng phạt của châu Âu hướng tới mục tiêu làm suy yếu cỗ máy phục vụ xung đột của Điện Kremlin. Tuy nhiên, Nga đã học cách chung sống với các lệnh trừng phạt từ sau vụ sáp nhập bán đảo Crimea năm 2014 và cho thấy không dễ khuất phục trước đòn đánh kinh tế.

Không ai nhượng bộ ai. Ukraine đã được củng cố khả năng chiến đấu với sự viện trợ vũ khí hiện đại không ngừng nghỉ của Mỹ và các nước châu Âu. Tổng thống Zelensky tuyên bố kháng cự đến cùng. "Chúng ta mạnh mẽ hơn tất cả. Chúng ta đã không bị đánh bại. Chúng ta sẽ làm mọi thứ để giành chiến thắng trong năm nay".

Vượt qua khuôn khổ xung đột Ukraine, cuộc đối đầu giữa Nga và phương Tây là cuộc đối đầu vì thể diện quốc gia, vì những giá trị mà hai bên theo đuổi.

Ông John o'loughlin - Đại học Colorado Boulder, Mỹ: "Có cảm giác rằng phương Tây có tham vọng lớn hơn nhiều so với việc chỉ giành chiến thắng trong cuộc chiến ở Ukraine. Đó là vô hiệu hóa Nga với tư cách là một cường quốc thế giới. Kịch bản có thể xảy ra nhất là cả hai bên sẽ tiếp tục làm những gì họ đang làm và đó sẽ là một cuộc chiến tiêu hao".

Phương Tây, đặc biệt là Mỹ không muốn thua. Vì điều đó sẽ giáng một đòn mạnh vào uy tín nước Mỹ như một siêu cường chi phối toàn cầu. Nhưng Nga cũng không muốn thất bại vì quan điểm của người Nga cho rằng đây là cuộc chiến Vệ quốc, vì sự sống còn của Tổ quốc họ.

Giới phân tích nhận định, chiến dịch quân sự sẽ có thể bước vào giai đoạn căng thẳng hơn. Trong Thông điệp liên bang ngày 21/2 vừa qua, Tổng thống Putin đã cảnh báo về trường hợp mở rộng chiến dịch quân sự ở Ukraine, đó là nếu phương Tây quyết định cung cấp cho Ukraine vũ khí hiện đại có tầm xa hơn, Nga sẽ phải đẩy lùi mối đe dọa này ra xa biên giới của mình hơn nữa.

Chuyên gia quân sự Vladimir Evseev - Viện nghiên cứu các quốc gia SNG cho rằng: "Phương Tây không chỉ đơn giản là tiếp tục cung cấp vũ khí mà còn mở rộng cung cấp và vũ khí hiện đại hơn. Tổng thống Mỹ Biden đã nói về những điều đó, không chỉ là cung cấp mà là mở rộng cung cấp, vũ khí Liên Xô sản xuất không còn và họ cố gắng thay thế bằng vũ khí phương Tây. Câu chuyện ở đây là như vậy. Phương Tây càng cung cấp nhiều vũ khí hiện đại và có tầm xa hơn thì càng buộc Nga phải tấn công. Ví dụ như họ cung cấp cho Ukraine pháo tự hành độ xa 300km thì chúng tôi buộc phải đẩy mối đe dọa này xa thêm 300 km về phía lãnh thổ Ukraine. Không có phương án nào khác".

Chuyên gia Nga nhận định, Nga quyết tâm rằng xung đột Ukraine sẽ phải được giải quyết không phải với điều kiện của phương Tây mà điều kiện của Nga. Với những động thái cứng rắn của Nga và trong tình thế phương Tây tiếp tục đẩy căng thẳng xung đột lên cao, khó nhìn thấy khả năng để cuộc chiến dừng lại.

Sau 555 ngày chiến sự dai dẳng, xung đột ngày càng cho thấy nó không chỉ là cuộc giằng co giữa Nga và Ukraine, mà là một cuộc đối đầu quyết liệt giữa Nga và phương Tây, khi hai bên ngày càng đổ nhiều nguồn lực, vũ khí vào chiến địa. Tác động của chúng vẫn còn gây tranh cãi, từ những dự đoán rằng lệnh trừng phạt sẽ dẫn đến sự sụp đổ kinh tế của Nga cho đến lập luận rằng chúng vô dụng và tự chuốc lấy thất bại.

Thay cho lời kết

Chiến tranh xảy ra, cả hai bên đều tổn thất, thất bại, đất nước hoang tàn, đổ nát, gia đình ly tán, dân tộc tan hoang ….Chỉ có lợi nhất là những “tay lái súng” mà thôi./.

GIÁ TRỊ VĂN HÓA GIA ĐÌNH VỚI GIÁ TRỊ VĂN HÓA VIỆT NAM

 

Xuất phát từ thực trạng sinh tồn của gia đình trong các mối quan hệ đa chiều, các thành tố của không gian văn hóa này tạo ra một mối cộng cảm, cộng lực tích hợp giúp cho gia đình quy tụ, điều chỉnh và vận hành tốt nhất chức năng cao cả là giáo dục cho các thành viên từ đời này sang đời khác, theo quy luật cộng sinh của sự cố kết huyết thống, góp phần hình thành nên giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc.

Văn hóa gia đình từ thời đại Hùng Vương - khởi nguồn xây tạo hệ giá trị văn hóa Việt Nam

Truyền thuyết dân gian vùng Trung châu từ nhiều nghìn năm qua vẫn lưu giữ những câu chuyện về sự chăm lo của Vua Hùng với dân (dạy dân cấy lúa, dạy dân dệt vải, dạy dân đi săn,...) và ngược lại, những câu chuyện và lễ hội đón vua về làng ăn Tết, đón Vua Hùng vui xuân cùng làng bản, lễ rước chúa gái, mang cuốc, thuổng theo Thánh Gióng đánh giặc,... đã tích hợp lại và sinh thành nên tín ngưỡng tri ân, tôn vinh các thế hệ tiền nhân từ phạm vi gia đình đến cộng đồng thể hiện qua thực hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên, lễ hội. Và như vậy, bức tranh văn hóa buổi đầu dựng nước của dân tộc đã “xác lập và tô đậm thành thói quen những hoạt động đời thường, theo những chuẩn mực văn hóa - xã hội được cộng đồng chấp thuận, duy trì từ thế hệ này đến thế hệ khác”.

Những cứ liệu khoa học chính xác, đích thực (khảo cổ học) cùng các cứ liệu phong tục, nghi lễ và văn chương dân gian, nảy sinh từ thời đại Vua Hùng (hoặc phản ánh về thời đại đó) cho phép chúng ta nhận diện bước đầu: Gia đình các thế hệ người Việt - Mường thời các Vua Hùng được hình thành và tồn tại trong một không gian văn hóa đặc sắc là vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ. Qua thử thách va đập với các mối quan hệ tự nhiên - xã hội đã dần định hình nếp sống và phong cách sống phù hợp để tồn tại và phát triển. Đồng thời, tạo ra những nét tính cách của người Việt cổ xưa - biết thính nhạy với mọi ứng xử quan hệ để cùng tồn tại. Đó là một thứ “gia phong” sâu rễ, bền gốc, đóng vai trò quan trọng cho sự tồn tại của gia đình người Việt thuở ban đầu dựng nước và giữ nước, hình thành nên những nét truyền thống quý báu, khởi nguồn cho hệ thống giá trị văn hóa, được truyền lại cho đời sau kế thừa, gìn giữ, phát huy. Minh giải bởi sắc thái “gia phong” được xác lập như những chuẩn mực mang giá trị văn hóa có cội rễ từ rất sớm này, chúng ta mới có thể góp phần lý giải cho hàng nghìn năm lịch sử về sau, người Việt vẫn giữ được nếp sống địa phương mang giá trị đạo đức với sắc thái riêng của mình, chống được tư tưởng đồng hóa và thống trị về văn hóa của các thế lực ngoại xâm phương Bắc và phương Tây.

Như vậy, trên tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, nếu như đặc trưng của nền văn hóa lúa nước Việt là văn hóa làng, thì tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã xác lập được giá trị khai phá, khâu nối, liên kết sức sống của văn hóa làng trong không gian văn hóa cộng đồng quốc gia đa tộc người. Liên kết cộng đồng là hạt nhân tạo ra sức mạnh cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc xuyên suốt chiều dài lịch sử, được các triều đại quân chủ phong kiến khai thác, bồi đắp và nâng lên thành các thiết chế văn hóa - chính trị, trở thành sợi dây thiêng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, tạo ra giá trị đạo đức chung cho cộng đồng và tinh thần đoàn kết bền vững mang bản sắc Việt Nam là sống theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tri ân những người có công với dòng tộc, đất nước trong quá khứ. Đồng thời, chính thực trạng khép kín, tự cung, tự cấp của đời sống kinh tế - văn hóa làng mà cộng đồng sống trong không gian văn hóa đó đã sớm có ý thức tự lập, tự cường, tự rèn luyện để hun đúc nên ý chí tự cường dân tộc - một phẩm chất/giá trị vô giá mỗi khi đất nước gặp họa lũ lụt hoặc nạn ngoại xâm, như nhận định: “gia đình Việt Nam chính là cái lò tạo nên tinh thần yêu nước của dân tộc”.

 Những giá trị văn hóa gia đình đã tích hợp trong văn hóa dòng họ, văn hóa làng xã và tồn tại một cách sinh động trong đời sống xã hội, góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị cao đẹp, thiêng liêng của cộng đồng quốc gia - dân tộc trong tiến trình lịch sử.

Văn hóa gia đình thời phong kiến - tích hợp và sinh thành giá trị văn hóa cộng đồng từ các tôn giáo và tín ngưỡng địa phương

Nhìn lại quá trình xây dựng nhà nước Việt Nam thời kỳ chống xâm lược, đồng hóa của ngoại bang phương Bắc và ngót mười thế kỷ xây dựng nhà nước phong kiến độc lập, tự chủ, Phật giáo hướng vào chủ thể là bản ngã con người và mối liên kết của con người trong xã hội, tích hợp với di sản văn hóa địa phương, mang lại nhiều đóng góp nền tảng cho giáo dục trong gia đình. Hạt nhân cơ bản của thuyết giáo nhà Phật là chữ Thiện được tiếp biến và biểu hiện sinh động qua quá trình hòa nhập với đời sống tâm linh và đời sống văn hóa tinh thần cũng như vật chất của người dân địa phương, gắn kết với những hành vi, ứng xử trong gia đình. Tính thiện ở Phật giáo luôn gắn với chữ tâm, chữ hiếu. Tu theo nhà Phật là tu tại gia, tu tại tâm. Đường tu tại gia đồng nhất với tín ngưỡng địa phương coi trọng và đề cao sự thành kính với tổ tiên, hiếu thảo với cha mẹ, hòa nhã với anh em, bè bạn, thuận nghĩa tình vợ chồng, đưa con người vào khuôn phép của tập tục họ tộc, làng xã, cộng đồng... Điều thiện của nhà Phật đã được các triều đại phong kiến cụ thể hóa để mỗi người nhìn nhận và tuân theo. Đạo đức Phật giáo như một triết lý sống góp phần xây đắp nền tảng gia phong trong gia đình phong kiến Việt Nam ngày một vững chắc. Đây cũng là đặc trưng độc đáo của nếp sống văn hóa gia đình Việt Nam thời phong kiến. Chính vì thế, nhiều nét biểu hiện cụ thể của gia phong trong gia đình người Việt đã được ghi lại trong các hương ước hoặc gắn với các phong tục, tập quán (dù bất thành văn) và được con cháu các đời lưu giữ, noi theo, tuân theo.

Nho giáo - thực chất khởi nguồn là học thuyết của Khổng Tử, tuy truyền bá vào Việt Nam muộn màng, nhưng đã sớm bộc lộ sự quan tâm đến mọi vấn đề của gia đình, biết cách định vị và tạo cho gia đình có một diện mạo rõ nét và đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử xã hội quân chủ phong kiến. Nho giáo xây dựng cho gia đình cái lý chặt chẽ, chuẩn mực theo cách nhìn nhận của xã hội phong kiến (gia pháp, gia lễ) và cái tình mềm dẻo trong ứng xử (gia giáo, gia huấn, gia phong). Đó là nét tích cực nhất của Nho giáo đã được các gia đình truyền thống người Việt tiếp nhận, sàng lọc và tiếp thu.

Nhìn theo trục lịch sử, có thể nhận thấy nếp gia phong truyền thống của gia đình bình dân (hiện chiếm số lượng lớn nhất trong hệ thống gia đình người Việt) được thu nhận và tiếp biến từ hai nguồn văn hóa chủ đạo:

1- Lấy cái căn cốt địa phương là cần cù, chịu khó, có ý thức hy sinh vì họ tộc, cộng đồng để rộng đường tiếp thu một cách hồn nhiên cái mềm dẻo, cái từ thiện và cái nhân quả của nhà Phật (cái tình) nhằm phục vụ cho chức năng giáo dục trong gia đình (hiếu - nhân);

2- Lấy cái ổn định, nền nếp của những nét gia phong đã định vị trong gia đình để nhận biết và tiếp thu các giáo lý của Nho phong (lễ - nghĩa) làm khuôn phép cho mọi mối quan hệ (cái lý) từ phạm vi gia đình hạt nhân đến gia đình mở rộng (gia tộc) và đời sống xã hội (làng - nước).

Như thế, trong gia đình phong kiến người Việt (đại diện đông đảo và phổ biến nhất là gia đình bình dân, làm nông nghiệp), cái mềm dẻo nhân tính của đạo đức địa phương và Phật giáo cùng những khuôn phép của thuyết lý Nho giáo, với những chuẩn mực cụ thể và mang tính lịch sử tích cực của nó luôn tồn tại song hành. Và, mặc cho sự tác động của các tôn giáo và văn hóa ngoại lai đã và đang xâm nhập, môi sinh của văn hóa gia đình Việt Nam vẫn bền vững với văn hóa làng bản, mang tính khép kín cả về vật chất lẫn tinh thần. Cũng nhờ đó mà, mỗi khi có họa ngoại xâm, sự cố kết của quan hệ huyết thống từ gia đình đến dòng họ đã liên kết các thành viên của cộng đồng làng, bản, tạo nên những pháo đài kiên định chống giặc, sẵn sàng hy sinh cho xóm, làng, quê hương. Chính vì thế, khi xã hội chuyển qua bước đột biến quan trọng trong quá trình giao lưu với văn hóa Tây phương với sự tiếp cận truyền giáo của các giáo sĩ và sự ra đời của báo chí cùng với sự ra đời của hệ thống giáo dục do người Pháp đặt ra cho cộng đồng người Việt theo kiểu phương Tây thì ảnh hưởng của quá trình giao lưu và du nhập văn hóa phương Tây ở Việt Nam chủ yếu và bước đầu chỉ được thể hiện ở các đô thị gắn với buôn bán, thương mại và chính quyền đô hộ thực dân. Đối với không gian văn hóa làng - xã, nền nếp của gia đình phong kiến vốn đã định hình qua nhiều thế kỷ vẫn giữ được sự bền vững. Những yếu tố mang giá trị cốt lõi của gia phong, gia lễ, gia pháp trong gia đình người Việt gần như vẫn được duy trì, bảo lưu và truyền dạy qua các thế hệ.

Giá trị văn hóa gia đình với giá trị văn hóa Việt Nam trên bước đường tiếp biến và hội nhập

Từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, xã hội Việt Nam đã bước sang trang, khi có sự xuất hiện của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương, giao lưu với văn hóa phương Tây đã được hướng sang vùng đất mới. Đó là quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga và tư tưởng Mác - Lê-nin. Lý tưởng cộng sản và “hơi thở” của nền văn hóa cách mạng đã được tiếp nhận và chào đón tại một nước phong kiến nửa thuộc địa. Truyền thống dân tộc, nếp sống của gia đình Việt Nam vốn hàng nghìn năm được sinh thành và tồn tại trong “bầu sữa” của văn hóa làng với các giá trị độc đáo, bền vững sẵn có đã được thức tỉnh và nâng cấp bởi ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự kết hợp giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Sự xuất hiện và du nhập tư tưởng mới, tiến bộ thông qua các lãnh tụ cách mạng và được vận hành, thể chế hóa qua các thiết chế văn hóa mới là cơ sở quan trọng tạo ra bước ngoặt trong đời sống xã hội Việt Nam nói chung và sinh hoạt văn hóa trong gia đình Việt Nam nói riêng.

Trên tiến trình hình thành và tồn tại của gia đình Việt Nam, đặc biệt là gần chục thế kỷ trải qua chế độ quân chủ phong kiến, người Việt Nam luôn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, tạo ra được sắc thái văn hóa độc đáo, phong cách riêng biệt trên cơ sở tiếp nhận, sàng lọc những yếu tố văn hóa Đông - Tây, thông qua những định hướng, thiết chế và chính sách phát triển văn hóa - xã hội của bộ máy nhà nước mới. Những chuẩn mực văn hóa của một giai đoạn lịch sử hàng nghìn năm luôn gắn với các mối quan hệ của gia đình, có chức năng điều tiết và định hướng theo phong cách dân tộc đã bước đầu kết hợp với những tinh hoa văn hóa thế giới. Có thể nói, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xã hội Việt Nam đã có bước phát triển mới với sự xuất hiện và củng cố những tư tưởng và hành vi hiện đại, phù hợp với sự vận động phát triển của đời sống xã hội đương thời, cả về nhận thức và hành động trong gia đình (hạt nhân hay mở rộng). Nhiều tư tưởng của lễ giáo nho gia vốn ràng buộc, thống trị tư tưởng con người nhiều thế kỷ đã được xem xét lại, chuyển hóa theo cách cảm, cách nghĩ mới. Trong quan hệ vợ - chồng, tư tưởng “tại gia tòng phụ” - nhất nhất mọi thứ phải tuân thủ theo chồng đã chuyển dần sang: “Gái có công, chồng chẳng phụ”; “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”. Đó cũng là bước dậm đà để quan hệ vợ chồng hướng tới sự “bình đẳng” trong xã hội hiện đại. Trong quan hệ bố mẹ - con cái, tư tưởng “Kim chỉ phải có đầu”; “Cá không ăn muối cá ươn”; “Con chống lời cha là nhà vô phúc”,... đã chuyển dần sang nhận thức coi trọng cá nhân, tự chịu trách nhiệm về mình: “Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”; “Con hơn cha là nhà có phúc”. Song hành với sự nối kết và vận động tri thức, hành vi từ văn hóa truyền thống sang chế độ xã hội mới, những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các nhà lãnh đạo, chí sĩ yêu nước đã sớm được truyền bá vào môi trường sinh hoạt văn hóa gia đình, góp phần tạo ra những quan hệ tiến bộ, giải phóng mọi ách áp bức thân thể và tư tưởng, khai thông cho tự do sáng tạo, đề cao nhân cách cá nhân để phục vụ nhiệm vụ cách mạng. Sự vận động hướng theo lối sống - đạo đức cách mạng đã được coi là khuôn mẫu của một thứ “gia phong mới” trong xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong quá trình phát triển, xã hội Việt Nam nói chung và gia đình Việt nói riêng đứng trước những thách thức trong phát triển kinh tế, chính trị và văn hóa thời hội nhập toàn cầu, đặc biệt là sự coi trọng phát triển kinh tế thuần túy đã vô tình làm cho một bộ phận không nhỏ cá nhân tự nhận thức và hành động vì đồng tiền, bỏ qua những quan hệ xã hội tuân theo nền nếp văn hóa truyền thống tích cực, những cặp quan hệ khuôn mẫu từ ông bà - cháu chắt đến cha mẹ - con cái, anh - em, bạn bè - đồng nghiệp, thầy - trò... Trong khi đó, sự hội nhập về văn hóa (qua các phương tiện truyền thông, sách báo) và hội nhập về giáo dục (qua con đường học tập, lao động, du lịch,...) là những tác nhân vừa đem lại những nhận thức hiện đại, tích cực, vừa lây lan những nhận thức và hành vi phản văn hóa, không phù hợp với truyền thống đạo đức và lối sống của dân tộc.

Từ sự vận động của thực trạng đời sống xã hội, gắn với các không gian văn hóa gia đình - nhà trường - xã hội, các thiết chế văn hóa cũng thường xuyên được sửa đổi để ứng xử phù hợp với môi trường văn hóa nhân văn của xã hội hiện tại. Giờ đây, văn hóa trong phạm vi không gian gia đình lại càng có vai trò quan trọng, giữ vị thế hạt nhân cho quá trình thực hiện hương ước, quy ước văn hóa mới gắn với chiến lược xây dựng nông thôn mới, vừa đảm trách nhiệm vụ bảo vệ những giá trị văn hóa vốn có, vừa tiếp thu những nét văn minh, hiện đại, những tinh hoa văn hóa từ nước ngoài để làm cho đời sống văn hóa gia đình, dòng họ, làng bản thêm sinh động, văn minh. Tình yêu làng xóm, gia đình giờ đây không còn bó hẹp trong sinh kế và môi sinh văn hóa hạn hẹp làng, bản, mà trở thành ý thức cống hiến để tăng cao thu nhập kinh tế gia đình, góp phần xây dựng quê hương đất nước. Những giá trị được chưng cất từ lòng hiếu thảo, tình làng nghĩa xóm, ý thức cộng đồng đến giai đoạn vận động hội nhập và phát triển của xã hội đã kết tinh thành “sức mạnh mềm”, góp phần tạo nên động lực xây đắp cho giá trị văn hóa quốc gia - dân tộc, hiện tại và lâu dài.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc diễn ra tại Hà Nội ngày 24-11-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu đặc biệt quan trọng, trong đó, thêm một lần khẳng định sự đúng đắn trong quan điểm chỉ đạo, lãnh đạo sự nghiệp phát triển văn hóa của Đảng những năm qua, đồng thời nêu ra sáu giải pháp thiết thực, trong đó, giải pháp thứ hai đã được nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia - dân tộc và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”

CẢNH GIÁC THỦ ĐOẠN NHÂN DANH PHẢN BIỆN XÃ HỘI ĐỂ KÍCH ĐỘNG CHỐNG PHÁ

 

Phản biện xã hội (PBXH) là sự tham gia của cá nhân, các tổ chứcvề một vấn đề, chủ trương, chính sách nào đó của Đảng, Nhà nước nhằm làm cho chủ trương, chính sách đó đầy đủ, đúng đắn, hoàn thiện hơn trong thực tiễn, đáp ứng nhu cầu xã hội, tạo nên sự đồng thuận, phục vụ tốt hơn những vấn đề quốc kế, dân sinh.

PBXH thể hiện rõ trong việc nêu ý kiến góp ý, bổ sung, những vấn đề chưa tán thành của người dân đối với những chủ trương, chính sách, quyết định, phán quyết... của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Mục đích của PBXH là làm sáng tỏ bản chất của vấn đề, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, những điểm chưa hợp lý, bất cập của những chủ trương, chính sách, phán quyết, quyết định đó.

Như vậy, bản chất của PBXH là thực hành dân chủ, góp phần bổ sung, sửa chữa những khiếm khuyết, tồn tại, những sai sót, đem lại những lợi ích chính đáng, hợp pháp, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. PBXH có ý nghĩa chính trị sâu sắc, phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân và hơn thế, nó thể hiện sâu sắc dân chủ XHCN, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN - quyền lực thuộc về nhân dân.

PBXH tập hợp sức sáng tạo và trí tuệ của các giai tầng, tạo nên sức mạnh nội lực để giải quyết các vấn đề xã hội, là sự thể hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, một mặt còn là thước đo trình độ phát triển, trình độ văn minh Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai trò của PBXH, Đảng và Nhà nước ta luôn trân trọng lắng nghe và tiếp thu những ý kiến phản biện của các tầng lớp nhân dân. Điều đó được thể hiện rõ trong quá trình xây dựng Hiến pháp, hệ thống luật, các cơ chế, chính sách về các vấn đề trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên, cùng với sự đóng góp thiết thực, có ý thức xây dựng của các tầng lớp nhân dân thì một số thành phần đã lợi dụng PBXH để thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ và nhân dân ta.

Trong âm mưu thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, các đối tượng lợi dụng quyền tự do ngôn luận, lợi dụng PBXH để tập hợp lực lượng chống đối chính trị, thúc đẩy sự đối kháng trong xã hội, tạo các lực lượng đối lập, nhân danh phản biện để phản đối, chống đối các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

Âm mưu của các thế lực thù địch là bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam. Đặc biệt là trước và trong quá trình tổ chức đại hội nhiệm kỳ của Đảng, các kỳ bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp, các thế lực thù địch, phản động càng chống phá quyết liệt.

Trong thời gian qua, trên mạng xã hội có không ít người tự cho mình là người “phản biện”, có tư tưởng “tiến bộ”, lấy danh nghĩa PBXH để nêu những ý kiến về các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, từ những vấn đề lớn của đất nước đến các chính sách, quyết sách cụ thể ở các bộ, ngành, địa phương.

Họ đưa ra ý kiến với những cách thức như viết các “thư ngỏ”, “kiến nghị” gửi các cấp, các ngành, gửi các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đăng tải trên mạng xã hội, blog, website cá nhân… Họ trả lời phỏng vấn của các đài, báo nước ngoài với nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, thổi phồng, bôi lem những tồn tại, hạn chế của đời sống xã hội.

Trên cơ sở nêu vài nội dung mang tính phản biện nhưng lại thể hiện bằng ngôn ngữ miệt thị, chửi bới, công kích, bóp méo sự thật nên về thực chất là lợi dụng để xuyên tạc, chống phá chứ không còn ý nghĩa phản biện. Một số người tự xưng là “nhà lý luận” còn lợi dụng PHXH để kích động, tuyệt đối hóa tự do, dân chủ, rằng chúng ta đang xây dựng một xã hội “thiếu không gian tự do”, “tự do là không chính trị”, “dân chủ hóa, giải phóng con người là chiếc chìa khóa vạn năng”...

Ở đây, khái niệm tự do đã bị hiểu theo nghĩa không còn tổ chức, không còn quy tắc, văn hóa, pháp luật, nghĩa là không còn gì ràng buộc. Và họ vội vã kết luận mang tính quy chụp, rằng nguyên nhân trì trệ về kinh tế là do trì trệ về chính trị, nguyên nhân các tồn tại, yếu kém là “do độc Đảng”!

Như vậy, bằng con đường tiếp cận sai trái, họ đã đổ lỗi cho chế độ chính trị của Việt Nam, đổ lỗi cho Đảng, hướng lái quan điểm, tâm lý người dân để gây mâu thuẫn, kích động chống phá. Thử hỏi, ở mọi quốc gia, dân chủ đều phải gắn với kỷ cương, xã hội sẽ như thế nào nếu tự do, dân chủ một cách vô nguyên tắc, phi pháp luật? Thực tế đã cho thấy, không thể áp dụng một cách máy móc kiểu “tự do”, “dân chủ” ở nước này sang nước khác do những đặc điểm riêng về lịch sử xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa, trình độ nhận thức của người dân.

Nguy hiểm hơn, một số trường hợp sau khi rời các vị trí, chức vụ trong Đảng, Nhà nước thì vì tư lợi hẹp hòi, vì động cơ xấu, họ lại lợi dụng danh nghĩa phản biện để đưa ra những quan điểm trái khoáy, lấy cớ góp ý với Đảng, Nhà nước mà mục đích chính là nhằm làm mất niềm tin trong nhân dân, chia rẽ mối đoàn kết trong nội bộ.

Đã có không ít vụ việc lấy danh nghĩa PBXH, họ đã đưa lên báo chí nước ngoài hoặc mạng xã hội nội dung không đúng sự thật, thiếu công tâm, phản biện sai lệch, kéo theo nhiều hậu quả khôn lường, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, gây hoang mang dư luận.

Mục đích của những trường hợp trên nhằm thu hút sự chú ý của người đọc đối với những bài viết của họ và tấn công trực diện vào các chủ trương, đường lối, chính sách, uy tín của Đảng và Nhà nước, phủ nhận tất cả những thành quả mà đất nước đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thậm chí tung ra các bài viết, bình luận bằng các ngôn từ cay độc, vô văn hóa, vô đạo đức…

Rõ ràng, PBXH nếu được thực hiện một cách có hiệu quả có thể giúp điều chỉnh xã hội từ vi mô tới vĩ mô, làm cho các chủ trương, chính sách ngày càng hoàn thiện, đem lại hiệu quả tốt hơn. PBXH là biểu thị cho tính dân chủ của xã hội. Nhưng nếu lợi dụng PBXH để kích động, thổi phồng, xuyên tạc nhằm gây nhiễu loạn thông tin, gây ra sự ngộ nhận, nhầm lẫn trong dư luận khiến nhiều người hiểusai về hiện tình đất nước, hiểu sai về Đảng, Nhà nước thì hành vi đó là phá hoại, cần phải đấu tranh, loại trừ.

PBXH không chỉ là sự phân tích, chỉ ra những khiếm khuyết của các chủ trương, chính sách về các vấn đề xã hội mà thông qua PBXH, khi tạo được sự góp ý, hoàn thiện, nó còn là sự thể hiện đồng thuận xã hội, sự khuyến khích, cổ vũ của xã hội với những chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân. Chính vì vậy, làm tốt công tác PBXH sẽtạo được sức mạnh to lớn cho các phong trào hành động cách mạng.

Để PBXH đem lại hiệu quả, ý nghĩa tích cực phải dựa trên nền tảng tri thức, thái độ khách quan, lấy lợi ích của cộng đồng làm mục đích hướng đến. Nếu không, PBXH sẽ dễ chỉ là ý kiến chủ quan, cảm tính và phiến diện, thậm chí cực đoan, không đóng góp với tiến trình phát triển của xã hội, của đất nước.

Mỗi người dân khi tiếp cận các thông tin được cho là PBXH đăng tải trên không gian mạng cần trang bị cho mình “bộ lọc” và có chủ kiến khi tiếp cận các vấn đề phản biện. Đặc biệt, với người được các thế lực xấu tung hô, ca ngợi là “nhà dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến”… thì phải cẩn trọng thanh lọc. Không nên vội vàng đọc mà tin ngay vào các ý kiến dạng phản biện của ai đó khi mình chưa xác định được đầy đủ về tính chính xác của thông tin, động cơ của việc nêu ý kiến đó.

Do vậy, để nhận diện âm mưu, thủ đoạn lợi dụng PBXH để gây nhiễu thông tin, chống phá đất nước của các thế lực thù địch, phản động, trước mỗi thông tin được cho là PBXH, cần chú ý nguồn gốc thông tin đó ở đâu? Thực tế có những thông tin sai lệch không rõ nguồn, chỉ được viện dẫn rất vu vơ hoặc xuất phát từ “nghe nói”, đồn thổi! Đặc biệt, cần cảnh giác với thông tin được đưa ra từ những người vốn có thành kiến, có âm mưu, hành động chống phá Đảng, Nhà nước.

PBXH cần phải thực hiện một cách công khai, nghiêm túc đối với các dự án luật, văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng.

Đảng và Nhà nước ta luôn khuyến khích các diễn đàn PBXH với ý thức trách nhiệm và tinh thần xây dựng, các ý kiến đóng góp có tính khoa học, thực tiễn, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, giải pháp để ngày càng đóng góp nhiều hơn, tốt hơn cho sự phát triển chung của đất nước.

Ngược lại, mang danh PBXH để hành động chống phá, đi ngược lại lợi ích của đất nước, của nhân dân là không thể chấp nhận. Những người lợi dụng danh nghĩa PBXH để xâm phạm lợi ích của Đảng, Nhà nước, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì tuỳ tính chất, mức độ sẽ bị xử lý trước pháp luật.

Công Tác Xây Dựng Chỉnh Đốn Đảng Ở Việt Nam Là Vấn Đề Có Tính Nguyên Tắc Chiến Lược

 

Trong những năm qua, một điều không thể phủ nhận đó là kết quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng không những được cán bộ, đảng viên và nhân dân ta ghi nhận, đánh giá cao mà còn khẳng định xây dựng, chỉnh đốn Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc và mang tính chiến lược để Đảng ta có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thế nhưng, các thế lực thù địch phớt lờ điều ấy, chúng còn ra sức công kích vấn đề có tính nguyên tắc và chiến lược này. Là một công việc bình thường trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vậy mà mỗi khi Đảng ta kỷ luật một số cán bộ cao cấp trong bộ máy Đảng, Nhà nước có vi phạm, trên một số đài, báo nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam như: BBC, RFA, RFI, VOA... và các trang mạng xã hội phản động, nhất là tổ chức Việt Tân luôn xuyên tạc rằng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Việt Nam là “thanh trừng phe phái”, cho rằng việc xử lý cán bộ vi phạm để “tăng cường quyền lực cho khối nội chính, tuyệt đối hóa quyền lực của Đảng”, v.v.. Thực ra, những nhận định này là hồ đồ và xuyên tạc vì công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm thường xuyên, liên tục của Đảng để “cơ thể Đảng” thường xuyên khỏe mạnh, có khả năng “đề kháng”, “miễn dịch” trước sự chống phá của các thế lực thù địch.

Từ lý luận và thực tiễn đều chứng minh một vấn đề có tính nguyên tắc và mang tính chiến lược, đó là Đảng phải thường xuyên được xây dựng, chỉnh đốn để Đảng thực sự là đạo đức, là văn minh, đủ sức và xứng đáng với vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước, dân tộc. Trước yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ngày càng cấp thiết, bởi lẽ, đất nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Thực tiễn đã chứng minh, càng làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng bao nhiêu thì Đảng ta ngày càng vững mạnh bấy nhiêu, luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Qua thực hiện các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có nhiều tấm gương điển hình tiên tiến được nhân rộng, lan tỏa trong đời sống xã hội, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và xã hội, có tác dụng cảnh báo, răn đe, phòng ngừa chung. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng đối với cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái cho rằng Đảng ta không thể xây dựng, chỉnh đốn Đảng thành công.

Theo báo cáo của cơ quan chức năng, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 1.300 tổ chức đảng và 87.000 đảng viên. Chỉ tính trong năm đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII, năm 2021, cả nước đã khởi tố, điều tra 390 vụ án với 1.011 bị can về các tội tham nhũng, chức vụ, trong đó đã khởi tố mới nhiều vụ án lớn, nghiêm trọng, phức tạp “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”. Như vậy, những ai hiểu biết ở mức bình thường nhất cũng phải thừa nhận rằng, việc xử lý cán bộ nêu trên thể hiện sự nghiêm minh của Đảng, Nhà nước, kiên quyết xử lý đúng người, đúng tội, không có chuyện sử dụng danh nghĩa chống suy thoái để “thanh trừng phe phái” như ai đó đã xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín của Đảng. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc rất quyết liệt, là “chặt cành để cứu cây”, “kỷ luật vài người để cứu muôn người”.

Những thành quả đã đạt được trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thời gian qua là niềm tin để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần đề cao cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, vững tin xây dựng nước ta ngày càng giàu đẹp.

Thủ đoạn chống phá mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch

 

Chống phá con đường lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch. Thực hiện mục tiêu đó, chúng dùng mọi hình thức, thủ đoạn tinh vi, nhưng dù có khéo léo thế nào họ cũng không che dấu được bản chất xấu xa của mình.

Họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vẽ chiếc bánh về thiên đường xã hội chủ nghĩa, nơi con người sống sung sướng, “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Mặt khác, họ kịch liệt phê phán chủ nghĩa tư bản là bóc lột”.

Về mặt lý luận, không còn nghi ngờ gì nữa đến chủ nghĩa xã hội thì con người sống sung sướng, “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Chỉ những người thiển cận, không có cơ sở lý luận, thực tiễn, mới đánh mất niềm tin, cho đó là “bánh vẽ”. Có điều, để đến được mục tiêu đó đòi hỏi cả quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ; là quá trình đấu tranh giữa cái cũ, cái lạc hậu với cái mới ra đời tiến bộ, hợp với xu thế phát triển của thời đại nhưng còn non yếu. Nó không có chỗ cho những người nóng vội, mà đòi hỏi phải có sự kiên trì, bền bỉ, lâu dài.

Ai cũng biết xây dựng cuộc sống mới, ấm no, tự do, hạnh phúc... đòi hỏi phải mất nhiều công sức, trí tuệ và thời gian. Điều đó không riêng gì chủ nghĩa xã hội, mà chủ nghĩa tư bản khi ra đời cũng thế.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” là vì thế.

Họ viết: “...đến nay những nhà lý luận hàng đầu của Đảng Cộng sản cũng không thể trả lời được bao lâu nữa họ sẽ đưa đất nước đến chủ nghĩa xã hội. Họ còn không biết chủ nghĩa xã hội có mấy giai đoạn, và ngay lúc này Việt Nam đang ở giai đoạn nào”.

Thế nhưng, họ lại không thấy một điều chắc chắn là, Việt Nam càng đến gần với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội hơn khi các mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đề ra thành hiện thực. Đó là: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng với 08 đặc trưng rõ ràng như thế mà họ nói liều là “không ai biết, không ai nhìn thấy”! Xã hội với 08 đặc trưng như vậy có tốt đẹp không? Có phải là mong ước của tất cả con dân đất Việt không? Những ai đi ngược lại mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội với 08 đặc trưng trên là họ đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc. Thế mà họ lại nói Đảng: “bắt toàn dân phải cúi đầu đi theo”.

 Vậy là, ai chính, ai tà đã rõ ràng cả rồi. Điều ấy cho thấy, dù có khéo léo thế nào thì cái mặt giả nhân giả nghĩa của họ cũng đã tụt xuống, làm lộ nguyên hình của mặt quỷ.

Hãy cảnh giác với nạn lừa đảo trên không gian mạng

 

Thực tế cho thấy, khi không gian mạng mở ra ngày càng rộng rãi thì đây cũng là môi trường tội phạm công nghệ cao lợi dụng để thực hiện hành vi lừa đảo. Trong môi trường đó, thông tin thật giả lẫn lộn, thông tin cá nhân cũng dễ dàng bị lộ lọt… người ta dễ bề trở thành nạn nhân của các hình thức lừa đảo.

Có thể thấy những cảnh báo liên tiếp được đưa ra từ phía cơ quan chức năng; và bằng nhiều hình thức, hệ thống cơ quan truyền thông cũng đã vào cuộc với nhiều thông tin cập nhật liên tục. Tình trạng lừa đảo len lỏi vào cuộc sống của từng cư dân ở các khu đô thị lớn, thậm chí vươn tới cả những vùng sâu, vùng xa. Không chỉ người bị hại mất tiền bạc, uy tín, nạn lừa đảo trên mạng còn kéo theo rất nhiều hệ lụy xấu trong xã hội.

          Khi những người có trình độ, kiến thức và dễ tiếp cận thông tin hơn đã dần trở nên cảnh giác, loại hình tội phạm này có xu hướng dịch chuyển tới những vùng sâu, vùng xa, nơi người dân chưa có đủ các kiến thức, kỹ năng cần thiết để phòng tránh. Có thể thấy, trong thời gian qua, hình thức lừa đảo qua điện thoại, mạo danh người đại diện của các cơ quan công quyền đã gây ra nhiều tác hại khi nhiều người trở thành nạn nhân. Trong khi đó, thời gian gần đây nhiều vụ việc lừa đảo xảy ra cho thấy tội phạm tiếp tục sử dụng những loại hình lừa đảo mới tinh vi hơn.

          Trong một xã hội công nghệ phát triển mạnh mẽ, suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân sẽ chịu sự ảnh hưởng ngày càng nhiều từ sự tương tác trên không gian mạng. Trong bối cảnh đó, mỗi cá nhân cần trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng cần thiết để phòng chống và tự bảo vệ mình. Bên cạnh đó, vai trò, chức năng của các cơ quan quản lý trong việc tạo dựng một môi trường mạng an toàn, minh bạch đóng vai trò rất quan trọng. Khi có hiện tượng, sự việc xảy ra, nếu có được những cảnh báo sớm từ phía cơ quan chức năng, cơ quan báo chí truyền thông chính thống, tin rằng những thiệt hại cho người dân sẽ được giảm đi đáng kể.

BÉ ĐI HỌC.



Ngày xưa bé đi học

Cặp sách xách ở tay

Sách vở mỏng không dày

Còn ngày nay đã khác.


Cặp sách bé phải vác 

Gồm đủ thứ trên đời

Nhiều loại sách quá trời

Mang hết hơi, mất sức.


Đến trường phải rạo rực

Háo hức chờ niềm vui

Nay lại thấy ngậm ngùi

Khi đến trường đến lớp.


Đừng để kiến thức ngợp

Trong đầu óc trẻ thơ

Từ ngàn xưa đến giờ

Học như chơi mới thích.


Giáo dục hướng tới đích

Xây nhân cách con người

Trẻ nhỏ biết vâng lời

Lớn khơi dòng tri thức.


Nhân cách là đạo đức

Nhân cách là tác phong

Nhân cách ở bên trong

Thông qua làm và nói.


Biết cách mở và gói

Ý thức trong mỗi người 

Nhân lên những tiếng cười 

Gạt đi lời đàm tiếu.


Giáo dục điều đạo hiếu 

Và triệu triệu lời hay

Những cặp sách to dày

Có làm đầy tâm trẻ.


Học và chơi vui vẻ

Rèn sức khỏe, tinh thần

Đừng áp đặt, lên gân

Mà khổ thân con trẻ 🤣🤣🤣


(Vài câu chắp nối dông dài.

Ảnh mạng minh họa cho bài vui thôi 😂).

NHỚ NGÀY NÀY 21/7/AL.



Nhiều người dân ta biết

Ngày Bác Hồ ra đi
Dương mùng 2 tháng 9
Năm 69 còn gì.

Lịch âm ngày 21
Tháng 7 Kỷ Dậu niên
Ngày Bác Hồ quy tiên
Gặp Lênin, Các Mác.

Người đời nhớ ơn Bác
Cũng nên nhớ ngày này
Lịch âm ta vẫn hay
Lễ hương, hoa, giỗ chạp.

54 năm vắng Bác
Nay ngày giỗ của Người
Vọng vào 9 phương trời
Lời adidaphat 🙏🙏🙏

(21/7/Quý Mão. 2023)

Thứ Hai, 4 tháng 9, 2023

ĐỂ TRẢ LỜI MỘT CÂU HỎI…

     Nguyễn Ngọc Ngạn hỏi: "Nếu trong nước có ngoại xâm, chẳng hạn như Trung Quốc xâm lược Việt Nam, thì thử hỏi một mình Đảng Cộng sản Việt Nam có đánh nổi không?"

Xin thưa: Việt Nam chúng tôi đã từng trải qua bao năm tháng chiến tranh loạn lạc khói lửa, hy sinh đánh giặc quen rồi, nếu lịch sử tái hiện, dù bất cứ quân xâm lược nào, không riêng gì Trung Quốc... vẫn đánh tốt, thậm chí đánh thắng! Lịch sử đã chứng minh điều đó! Có lẽ nào ông biết!?

Nếu ở xứ người lâu quá quên hết lịch sử dân tộc thì tôi nhắc cho ông nhớ:

- Trong lúc các cuộc khởi nghĩa của nhân dân, các phong trào yêu nước đầu thế kỷ 19 bị thực dân Pháp dìm trong biển máu, các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Yên Thế, phong Trào Cần Vương, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa thục đều đi đến bế tắc và bị dập tắt thì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo Nhân dân từng bước giành lại chính quyền, từng bước đánh đuổi thực dân Pháp - với chiến thắng vang dội lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu Điện Biên Phủ!

- Trong lúc Pháp đầu hàng Nhật, Nhật đảo chính Pháp làm chủ Đông Dương, lập ra Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, trong lúc bọn Việt gian đu theo Nhật, đu theo Pháp, người Việt Nam 1 cổ 2 tròng... thì cũng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhân dân, chớp lấy thời cơ, giành lại chính quyền, đánh đổ chính quyền phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. 

- Trong lúc 2 triệu người Việt Nam chết đói, không có cộng đồng hải ngoại bên Mỹ nào, càng không có cộng đồng quốc tế nào cứu giúp, chỉ có Đảng Cộng sản. Từ trong cái đói mà khẩu hiệu "Một nắm khi đói bằng một gói khi no" vang lên, nhà nhà 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, đem gạo ấy mà cứu dân đói, đến Chủ tịch nước cũng nhịn như vậy, giặc đói bị những người Cộng sản đẩy lùi!

- Pháp hàng, Nhật cút, Mỹ nhảy vào, chia đôi đất nước, dựng nên Ngụy quyền bù nhìn, tàn hại đồng bào. 20 năm ròng rã những người Cộng sản ra sức thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, đánh cho bọn hèn hạ phải đu càng vượt biển. Cả nước thống nhất chung một sắc cờ. Những điều vĩ đại đó chẳng phải là do những người Cộng sản, Đảng Cộng sản làm được hay sao?

- Hết chiến tranh chống Mỹ, Trung Quốc, Mỹ, ASEAN ra sức hà hơi cho Polpot vùng dậy, chúng giết hại dã man đồng bào, tàn hại người Việt Nam, khi ấy "cái cộng đồng hải ngoại của Ngạn" cũng ủng hộ bọn diệt chủng. Chỉ có những người Cộng sản nghe tiếng kêu cứu của nước bạn mà xuất quân, hồi sinh Campuchia từ trong biển máu. 

- Năm 1979, Trung Quốc phát động chiến tranh Biên giới phía Bắc, xâm lược 6 tỉnh biên giới của Việt Nam, nhưng rồi bầy giặc dữ phương Bắc cũng bị đánh tan tác, rút chạy về nước.

Đó chẳng phải là những người Cộng sản, Đảng Cộng sản làm được hay sao?

Cộng Sản Việt Nam là những ai? Là NHÂN DÂN Việt Nam, từ dân mà ra. 

- Lúc đất nước bị cấm vận, khó khăn, nghèo đói, người người ở lại lo chung tay khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lại đất nước ngày càng phát triển. Còn các ông vì lo cho bản thân mà quay lưng với quê hương, tìm đến xứ người để tìm chút bơ thừa sữa cặn. 

Có vì lý do kinh tế hay "tị nạn chính trị" thì các ông cũng chỉ là NHỮNG KẺ THẤT BẠI, HÈN NHÁT mà thôi. Vậy mà vẫn không biết nhục, còn cao giọng dạy người Việt Nam "CÁCH YÊU NƯỚC"? Vậy mà không biết liêm sỉ còn hỏi câu "liệu một mình Đảng Cộng Sản Việt Nam có đánh nổi không?” Quá trơ trẽn! Ngạn à! Loại điếm bút như ông... chỉ thích hợp để viết truyện ma hù dọa thiên hạ mà thôi./.
Yêu nước ST.

 

 LÀM GÌ ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI BÌNH 
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - CẦN PHẢI ĐƯỢC VẬN DỤNG SÁNG TẠO TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

 Theo Người, khi đất nước đã giành được chính quyền, có tự do, độc lập phải tích cực, chủ động chuẩn bị về mọi mặt khi đất nước đang có hòa bình. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể, cấp bách cần phải tập trung giải quyết, đó là làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học hành. Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” (1945), Người chỉ rõ: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thi độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [1].

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn phải thường xuyên theo dõi, đánh giá đúng tình hình, có phương án đối phó, xử lý thẳng lợi các tình huống. Thực tiễn cho thấy, đất nước giành được độc lập chưa được lâu, với danh nghĩa đồng minh đến tước khi giới của phát xít Nhật, quân đội các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng và khuyến khích bọn Việt gian nổi dậy chống phá chính quyền cách mạng. Với tư tưởng “ dĩ bất biển, ứng vạn biển", Người đã thường xuyên theo dõi, đánh giá đúng tình hình, kiên trì với nguyên tắc “thêm bạn bớt thù”, linh hoạt thực hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện” đối với quân Tưởng và “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Chính phủ Pháp để có thêm thời gian hòa bình, củng cố lực lượng và tránh những đối đầu về quân sự. Ngày 06/3/1946, Người đã ký với Pháp bản “Hiệp định Sơ bộ”, khéo léo phân hóa và để tránh rơi vào tình thế bất lợi khi cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Ngày 14/9/1946, Người tiếp tục ký với Pháp bản “Tạm ước”, thể hiện rõ thiện chí muốn hòa bình, giảm căng thẳng và tránh đổ máu. Tuy nhiên, khi âm mưu xâm lược của thực dân Pháp với nước ta ngày càng bộc lộ rõ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước chủ động bước vào một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[2].

Then chốt thắng lợi của kháng chiến là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố công nông liên minh, củng cố chính quyền nhân dân, củng cố và phát triển Quân đội, củng cố Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt. Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải luôn quan tâm, chăm lo xây dựng Quân đội ngày càng hùng mạnh, chính quy, hiện đại và sẵn sàng chiến đấu cao để giữ gìn hòa bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong Thư gửi cán bộ, chiến sĩ nhân dịp Kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1958), Người tiếp tục nhấn mạnh: “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một Quân đội nhân dân hùng mạnh, một Quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, để BVTQ" [3].

[1] Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà nội, tr.64.
[2] Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà nội, tr.534.
[3] Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 12. Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà nội, tr.154.
 
 

 

PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC THEO TƯ TƯỞNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Kế thừa truyền thống dựng nước đi đối với giữ nước, “Lo giữ nước từ khi nước chưa nguy” của dân tộc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin về quy luật, tính tất yếu khách quan phải bảo vệ tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Các vua Hùng đã có công dụng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” [1], với tình thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam; trong Tuyên ngôn độc lập, Người khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cái để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”[2] . Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Người kêu gọi mỗi người dân Việt Nam, không phản biệt già, trẻ, gái, trai.... đều phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến; toàn diện kháng chiến... Vừa khảng chiến, vừa kiến quốc. Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi. Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt tới công tác ngoại giao, kiên trì, tận dụng mọi điều kiện để mở rộng ảnh hưởng, uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Với chính sách ngoại giao thân thiên, Việt Nam “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai" .Sau khi Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 giành thắng lợi, đất nước. bước vào một giai đoạn lịch sử đặc biệt, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và miền Nam tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc. Nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong (Sư đoàn 308) trên đường về tiếp quản thủ đô tại Đền Giếng, Phú Thọ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Các vua Hùng đã có công dụng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước"[3] . Lời dạy của Bác không chỉ có ý nghĩa giáo dục đối với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên Phong về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, trách nhiệm của các thế hệ trong bảo vệ tổ quốc, mà còn khái quát một vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, đó là “dựng nước phải đi đôi với giữ nước", coi trọng giữ nước từ khi nước chưa nguy./.

[1] Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 9. Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà nội, tr.59.
[2] Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 6. Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà nội, tr.587.
[3] Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 9. Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà nội, tr.591.
 

 

 

V.I.LÊNIN KHẲNG ĐỊNH KHI NÀO KHÔNG CẦN ĐẾN
QUỐC PHÒNG, QUÂN SỰ
 

V.I.Lênin đã kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-Ghen trong điều kiện vận dụng vào Cách mạng tháng Mười Nga. Đó là, trước Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin đã chuẩn bị những tiền đề lý luận về vấn đề bảo vệ thành quả của cách mạng vô sản từ sớm, từ xa, từ khi cách mạng tháng Mười Nga chưa diễn ra, trong đó khẳng định, sau khi giành được thắng lợi, giai cấp vô sản và nhân dân lao động phải luôn củng cố, tăng cường sức mạnh vũ trang để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, với thực tiễn của cuộc nội chiến cùng với đó là sự cấu kết với 14 nước đế quốc, các thế lực tư sản và phản động trong nước thực hiện âm mưu can thiệp, gây chiến tranh xâm lược hòng thủ tiêu thành quả cách mạng, xóa bỏ nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. V.I.Lênin khẳng định:“Không thể giải trừ quân bị khi còn nguy cơ đe dọa Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. “Chỉ có sau khi đã tước vũ khí giai cấp tư sản rồi, thi giai cấp vô sản mới có thế vứt bỏ vào đống sắt vụn tất cả vũ khí nói chung, mà không phản lại nhiệm vụ lịch sử thế giới của mình; và giai cấp vô sản nhất định sẽ làm như thế, nhưng chỉ có đến lúc ấy mới làm được, chứ quyết không thể làm trước lúc ấy được” [1].

V.I.Lênin đã đề cập đến khả năng phòng thủ đất nước, đặc biệt là vấn đề xây dựng và củng cố quốc phòng: “Chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà”[2] .

Ngày nay, thế giới có nhiều đổi thay, nhưng, những vấn đề có tính quy luật đã được các lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản như: C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đúc kết vẫn còn nguyên giá trị, là tài sản vô giá cho chúng ta khai thác, vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay./.

 [1] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, tr.176.
[2] V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, tr.480-481

 

MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÀNH VÀ GIỮ CHÍNH QUYỀN
THEO QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN

Từ thực tiễn cách mạng tháng Mười Nga, V.I.Lênin đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó khăn phức tạp hơn nhiều” và “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ, nhưng không phải cách mạng có thể biết ngay được cách bảo vệ [1]. Vấn đề này không chỉ diễn ra ở nước Nga, cũng không chỉ trong thời kỳ cách mạng vô sản mà đã trở thành một quy luật phổ biến của quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Luận điểm được chỉ ra từ sớm, từ xa khi mà phong trào cách mạng vô sản mới chỉ diễn ra ở một nước, đó là nước Nga, mà đó đã trở thành kim chỉ nam của giai cấp vô sản ở các nước và trên toàn thế giới phải lấy đó là nguyên tắc, là chân lý ngay cả trước khi tiến hành cách mạng và ngay cả khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền cách mạng về tay mình.

Ngày nay, thế giới có nhiều đổi thay, nhưng, những vấn đề có tính quy luật đã được các lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản như: C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đúc kết vẫn còn nguyên giá trị, là tài sản vô giá cho chúng ta khai thác, vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới./.

 1] V.I. Lê-nin (2005), Toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tr.145.

LAN TỎA TINH THẦN TƯƠNG THÂN, TƯƠNG ÁI, NHÂN VĂN CỦA CHIẾN SỸ MŨ NỒI XANH VIỆT NAM

 Nhân dịp có chuyến thăm và làm việc tại Nam Sudan, Đoàn kiểm tra kỹ thuật Bộ Quốc phòng do Đại tá Phạm Mạnh Thắng, Cục trưởng Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam làm Trưởng đoàn, phối hợp với Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 5 đã tổ chức chương trình thiện nguyện với các hoạt động thiết thực hỗ trợ cộng đồng tại địa bàn.

Với tinh thần tương thân, tương ái, cảm thông và sẻ chia những khó khăn với người dân Nam Sudan, Đoàn công tác và các thành viên bệnh viện đã tới thăm và trao tặng quà cho các bệnh nhân Nam Sudan đang điều trị tại Bệnh viện đa khoa Bentiu, tặng một số vật tư y tế cho bệnh viện và gửi quà tặng 30 hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn tại khu bảo tồn thiên nhiên Wildlife Animals.
Các phần quà nhỏ nhưng có ý nghĩa thiết thực góp phần giúp người dân nâng cao ý thức giữ gìn sức khỏe, bao gồm nước rửa tay, kem đánh răng, kem chống muỗi và khẩu trang y tế. BVDC2.5 đã tặng 12 thùng dịch truyền, 2 thùng khẩu trang y tế, 2 thùng găng tay, 100 bộ bảo hộ PPE, 1 thùng băng gạc và quà lưu niệm cho Bệnh viện đa khoa Bentiu.
Chương trình thiện nguyện có sự đồng hành của lực lượng bảo vệ từ Tiểu đoàn bộ binh Mông Cổ, góp phần bảo đảm an ninh, an toàn quanh khu vực, trong đó có các nữ binh sĩ Mông Cổ với sự chuyên nghiệp và kỹ năng không thua kém gì các đồng nghiệp khác giới.
Qua chuyến thăm, làm việc và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của Lực lượng Gìn giữ hòa bình Việt Nam tại Nam Sudan, Đại tá Phạm Mạnh Thắng ghi nhận sự nỗ lực, tinh thần quyết tâm cao, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, cùng những đóng góp vì cộng đồng thông qua các hoạt động quân dân ý nghĩa của tập thể Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 5. Trước đó, Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 5 cũng đã tổ chức buổi tặng quà thiện nguyện cho người dân có hoàn cảnh khó khăn tại khu bảo tồn Wildlife Animals.
Đại tá Phạm Mạnh Thắng vui mừng được biết Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 5 không chỉ tạo được ấn tượng tốt đẹp với chỉ huy phái bộ, chính quyền địa phương và người dân tại địa bàn nhờ tính chuyên nghiệp, tinh thần tận tụy hết lòng vì người bệnh, mà còn thông qua các hoạt động vì cộng đồng, hướng tới người dân. Đại tá Phạm Mạnh Thắng động viên tập thể bệnh viện tiếp tục nêu cao tinh thần “Lương y như từ mẫu”, phát huy chuẩn mực y đức cao quý của người thầy thuốc Việt Nam, qua đó góp phần tạo ấn tượng tốt đẹp và thiện cảm về hình ảnh những người lính mũ nồi xanh Liên hợp quốc nói chung và hình ảnh đất nước, con người Việt Nam nói riêng./.
Báo QĐND