(TG) - Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh
về học tập suốt đời, lấy tự học làm cốt có ý nghĩa to lớn đối với nhiệm vụ xây dựng
xã hội học tập ở Việt Nam hiện nay. Để vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm, chỉ
dẫn của Người đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều nội dung biện pháp gắn với
đặc điểm, yêu cầu xây dựng xã hội học tập ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG HỒ CHÍ MINH VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI
Với cách diễn đạt giản dị, ngắn gọn nhưng súc tích và
hàm chứa ý nghĩa sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa tự học là “tự
động học tập”(1). “Tự động học tập” là việc học tập do chính bản
thân người học quyết định, người học tích cực, chủ động, tự giác trong việc xác
định nội dung, hình thức, phương pháp học tập, tự kiểm tra, đánh giá kết quả mà
không cần sự điều khiển, giao nhiệm vụ của người khác. Hồ Chí Minh giải thích
rõ: “Tự động là không phải tựa vào ai, là tự mình biết xoay xở, tự mình biết
thực hành công tác theo nhiều hình thức mới mẻ, phong phú”(2). Đây
là quan niệm hoàn toàn mới mẻ so với nhận thức của số đông đồng bào lúc bấy
giờ, trở thành những chỉ dẫn quan trọng trong đẩy mạnh phong trào tự học của
toàn dân.
Thứ nhất, xác định đúng mục đích
và động cơ học tập
Mục đích và động cơ học tập là điều kiện, tiền đề để
nâng cao kết quả học tập. Theo Hồ Chí Minh, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mục
đích của việc học tập hoàn toàn khác so với trong xã hội cũ là: “Học để làm
việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ
quốc và nhân loại”(3). Đó là mục đích cao cả trở thành lý tưởng sống
cao đẹp của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong chế độ mới, động lực thôi
thúc cán bộ, đảng viên và nhân dân tự học tập. Những chỉ dẫn ấy vừa có tính cách
mạng, vừa có tính khoa học, thể hiện sự giải quyết hài hoà giữa quyền và lợi
ích học tập của cá nhân với cống hiến, đóng góp cho tập thể, đất nước và nhân
loại. Nếu học chỉ “để làm quan phát tài” hay vì mưu cầu lợi ích cá nhân thấp
hèn thì tất yếu sự học không thể bền bỉ suốt cuộc đời mỗi người và tất yếu dẫn
đến những biểu hiện tiêu cực trong học tập. Vì vậy, Người đưa ra tôn chỉ “Còn
sống thì còn phải học”(4) và khuyên mọi người phải “tự nguyện,
tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng
phải hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học
tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn
nào trong việc học tập”(5).
Theo quan điểm của Người, việc xác định mục đích học tập
và xây dựng động cơ học tập không chỉ là vấn đề học tập mà còn là vấn đề đạo
đức, là nhân cách của người học. Đây chính là nhân tố quyết định hiệu quả tự
học, bảo đảm sự học bền bỉ, suốt đời không dứt đoạn, không bị tha hoá. Người
chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(6).
Bằng thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú, sôi nổi
của mình, Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng ngời về tự học. Dù không có nhiều
thời gian học chính quy trong trường lớp nhưng bản thân Người là một nhà văn
hoá kiệt xuất, một lãnh tụ cách mạng của dân tộc với trí tuệ thiên tài. Người
chưa từng học ở trường dạy viết báo nhưng Người là một nhà báo nổi tiếng, là
chủ bút của nhiều tờ báo lớn của nhân dân các nước thuộc địa. Quá trình bôn ba
tìm đường cứu nước, Người đã làm rất nhiều nghề để mưu sinh và dùng thu nhập ít
ỏi để mua sách báo, tài liệu, vào các thư viện để tự học tập, nghiên cứu. Tấm
gương hy sinh, ý chí quyết tâm trong quá trình tự học, tự nghiên cứu của Người
xuất phát từ việc xác định động cơ học tập đúng đắn, đó là học vì dân, vì nước,
vì sự nghiệp cách mạng. Trong tâm trí Người chỉ có một mong ước cháy bỏng là
“làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(7). Học tập là
quyền con người chính đáng nhưng nếu có động cơ học tập cao cả để “phụng sự
đồng bào, phụng sự Tổ quốc”(8) sẽ là động lực giúp mỗi người
vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hy sinh.
Thứ hai, xây dựng kế hoạch tự
học, sắp xếp thời gian học tập khoa học và kiên quyết, kiên trì đạt được mục
đích học tập đề ra
Trong mọi hoạt động, nhất là trong tự học cần phải xây
dựng kế hoạch khoa học. Học tập có kế hoạch nghĩa là phải biết phân bổ thời
gian, công sức, trí lực hợp lý, khoa học, nội dung nào học trước, nội dung nào
học sau để tốn ít thời gian, công sức nhất nhưng hiệu quả học tập cao nhất.
Trong tự học, Người xây dựng thời khóa biểu tự học hợp lý và định ra thời gian
phấn đấu hoàn thành kế hoạch đã đề ra. Với năng khiếu bẩm sinh, tư duy sắc sảo
cùng với sự khổ công tự học đã giúp Người thành thạo nhiều ngoại ngữ. Người kể
lại kinh nghiệm tự học ngoại ngữ: Với mỗi từ mới sau khi hỏi được nghĩa, Người
viết vào một mảnh giấy, dán vào chỗ hay để ý nhất, có khi viết vào cánh tay để
trong khi làm việc vẫn có thể học được. Có khi vừa đi đường Người vừa nhẩm trong
đầu từ mới… Chính quyết tâm, sự kiên trì, bền bỉ giúp Người vượt qua những khó
khăn, thiếu thốn để tự học thành công. Từ thực tiễn học tập và hoạt động cách
mạng Người đã rút ra chân lý: “Gạo đem vào giã bao đau đớn/ Gạo giã xong rồi
trắng tựa bông/ Sống ở trên đời người cũng vậy/ Gian nan rèn luyện mới thành
công”.
Thứ ba, tự học trong thực tiễn
và gắn kết chặt chẽ giữa “học đi đôi với hành”
Quá trình tự học của Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn liền
với quá trình lao động và hoạt động cách mạng. Chính lao động và hoạt động cách
mạng là điều kiện để Người tích luỹ, củng cố kiến thức vững chắc và kiểm
nghiệm, đánh giá kết quả tự học. Trong điều kiện lao động kiếm sống và hoạt
động đầy khó khăn, thiếu thốn nhưng Người không bao giờ từ bỏ mục đích học tập.
Chính vì vậy, Người luôn khuyên và nhắc nhở mọi người cố gắng học tập, học ở
mọi lúc, mọi nơi. Nói chuyện về công tác huấn luyện và học tập, Người nhấn
mạnh: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học
nhân dân là một thiếu sót rất lớn”(9). Người đánh giá cao trí tuệ
của nhân dân. Nhân dân là nhà thông thái nhất, là người thầy của cách mạng vì
“Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ,
mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(10).
Học đi đôi với hành là một vấn đề thời sự, thường
xuyên, tất yếu đối với tất cả người học, tất cả các cấp học. Học và hành là hai
mệnh đề có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bác từng dạy: “Học với hành phải đi
đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi
chảy”(11). Do đó, trong quá trình tự học, Người căn dặn phải học đến
đâu phải thực hành đến đó, không được dấu dốt, sợ sai Trong “Bài nói chuyện tại
Đại hội Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam lần thứ III”(25/3/1961), Người nhắc
nhở: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải
học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với
đấu tranh và công tác hàng ngày. Cần phải học kinh nghiệm tốt của các đoàn
thanh niên bạn. Học đi đôi với hành”(12).
Tư tưởng và tấm gương tự học Hồ Chí Minh có giá trị to
lớn đối với cách mạng Việt Nam. Trong những năm tháng kháng chiến trường kỳ,
gian khổ, học tập và làm theo tấm gương tự học của Người đã giúp tạo ra thế hệ
cán bộ mới, con người mới không chỉ có giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng mà
còn có tri thức, hiểu biết sâu rộng góp phần đưa sự nghiệp “kháng chiến thành
công, kiến quốc thắng lợi”(13). Những kinh nghiệm, lời giáo huấn
được rút ra từ tấm gương tự học bền bỉ suốt đời của Người đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá”(14) cho
các thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG XÃ HỘI
HỌC TẬP HIỆN NAY
Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 phát triển như vũ bão, yêu
cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ngày càng cấp bách, thì việc
đề cao ý thức tự học, tự nghiên cứu trở thành yêu cầu vừa cấp thiết trước mắt,
vừa cơ bản, lâu dài nhằm xây dựng xã hội học tập. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chỉ rõ một trong các nhiệm vụ, giải
pháp cơ bản thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam là “hoàn
thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt
đời và xây dựng xã hội học tập”. Đây là chủ trương lớn, đúng đắn của Ðảng và
Nhà nước ta. Xã hội học tập là cơ sở tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thấm nhuần những kinh nghiệm và chỉ dẫn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, quán triệt chủ trương xây dựng xã hội học tập của Đảng ta, cần
nhận thức và thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức của toàn dân về xây dựng xã hội học tập. Xã hội học
tập là một xã hội mà ở đó mọi người dân có nhu cầu học tập đều được đáp ứng
và đều có nghĩa vụ học tập. Trong xã hội học tập, ai cũng được học thường
xuyên, học suốt đời, trong đó ý thức tự giác tự học là yếu tố quyết định nhất.
Do đó, cần phát huy trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị trong
công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về
xây dựng xã hội học tập. Chỉ khi nào mọi người dân nhận thức rõ về sự cần
thiết, vai trò, tác động, ích lợi của học tập suốt đời và những điều kiện xây
dựng xã hội học tập thì khi đó nhu cầu tự
học tập được hình thành, củng cố và phát triển bền vững. Nghĩa là, phải hình
thành ở người dân động cơ tự học tập đúng đắn. Trong điều kiện cách mạng Công
nghiệp 4.0 phát triển như vũ bão, bên cạnh các hình thức tuyên truyền truyền
thống (phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí, tổ chức các hội thảo, diễn đàn….)
cần tận dụng tối đa ưu thế của internet và mạng xã hội trong tuyên truyền, định
hướng nhận thức của người dân và phát triển các hình thức tự học tập cho các
đối tượng dân cư. Tuy nhiên, cần chú trọng quản lý chặt chẽ an toàn, an ninh
thông tin mạng và xây dựng môi trường thông tin mạng xã hội lành mạnh nhằm thúc
đẩy xã hội học tập, đúng định hướng chính trị, phục vụ mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Hai là, ban hành cơ chế,
chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho toàn dân học tập. Cơ chế
chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong định hướng, thúc đẩy các hoạt
động xây dựng xã hội học tập phát triển lành mạnh, hiệu quả thực chất. Thời
gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách quan tâm phát
triển xã hội học tập, thúc đẩy tự học tập suốt đời đáp ứng mục tiêu tiếp tục
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Do đó, các cấp uỷ, chính quyền,
địa phương cần quán triệt, cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về
phát triển giáo dục, đào tạo và xây dựng xã hội học tập, nhất là Quyết định số
1373/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập
giai đoạn 2021-2030”. Trong đó, tập trung quán triệt, cụ thể hoá quan điểm xây
dựng xã hội học tập dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, gắn kết và liên
thông giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên, liên thông giữa các cấp
học, trình độ đào tạo; vận dụng mọi hình thức giáo dục, đào tạo tiên tiến, hiệu
quả, phù hợp với mục tiêu giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
Ba là, chú trọng xây dựng và nhân rộng
các mô hình xã hội học tập. Việc nhân rộng các mô hình xã hội học tập có vai
trò quan trọng nhằm thúc đẩy xây dựng xã hội học tập. Cấp uỷ, chính quyền các
cơ quan, đơn vị, địa phương cần chú trọng nhân rộng các mô hình “Gia đình học
tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập”, “Đơn vị học tập”… theo hướng
thiết thực, hiệu quả, nhằm phát triển phong trào tự học tập trong mọi gia đình,
dòng họ, cộng đồng và cơ quan, tổ chức. Để các mô hình này không phát triển tự
phát cần xây dựng tiêu chí cụ thể phù hợp với từng loại mô hình, sát đặc điểm
đối tượng, tránh rập khuân, máy móc hoặc hình thức, chiếu lệ dẫn đến hiệu quả
hoạt động thấp. Đồng thời, gắn kết chặt chẽ hoạt động của các mô hình xã hội
học tập với nội dung các phong trào thi đua ở các địa phương, cơ quan, đơn vị
tạo động lực thúc đẩy việc kiện toàn, phát triển các mô hình xã hội học tập.
Bốn là, củng cố lại các trung
tâm học tập cộng đồng, các cơ sở giáo dục thường xuyên theo hướng áp dụng
chuyển đổi số và dạy học trực tuyến tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người
dân tiếp cận với các hình thức giáo dục. Đổi mới công tác quản lý các trung tâm
học tập cộng đồng, các cơ sở giáo dục thường xuyên, quan tâm nâng cao chất
lượng đào tạo ngoại ngữ, tin học. Xây dựng chương trình giáo dục thường xuyên
theo hướng mềm dẻo, linh hoạt để mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ, mọi
vùng miền đều có thể tiếp cận các tri thức ứng dụng vào thực tiễn đời sống,
công tác và sản xuất. Bên cạnh đó, cần chú trọng áp dụng chuyển đổi số và dạy
học trực tuyến, các chương trình đào tạo từ xa, các khóa học trực tuyến nhằm
giảm chi phí, tạo cơ hội học tập cho các đối tượng; đổi mới phương thức học tập
và áp dụng những tiện ích với công nghệ số, đặc biệt là các phương tiện dạy học
cộng đồng.
Năm là, huy động tối đa các
nguồn lực xã hội trong công tác xây dựng xã hội học tập. Xây dựng xã hội học
tập không phải là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục mà là trách nhiệm của toàn
dân, của cả hệ thống chính trị. Do đó, mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh
nghiệp cần bảo đảm nguồn lực cần thiết đầu tư xây dựng xã hội học tập. Để tránh
tình trạng dàn trải, các cơ quan, đơn vị, địa phương cần quy định rõ định mức
đầu tư cho các hoạt động tự học tập sát thực tiễn với từng cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực vật
chất, trí tuệ, công nghệ bên ngoài bảo đảm đa dạng hoá các hoạt động xây dựng
xã hội học tập.
Xây dựng xã hội học tập, thúc đẩy tự học tập của toàn
dân là chủ trương đúng đắn phù hợp với yêu cầu đòi của thực tiễn, nhu cầu học
tập của nhân dân. Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, lấy tự
học làm cốt là những kinh nghiệm quý báu và chỉ dẫn quan trọng để mỗi cấp uỷ,
chính quyền và toàn dân học tập và làm theo. Hiệu quả thực hiện chủ trương này
phụ thuộc vào nhiều nhân tố song xét đến cùng bắt nguồn từ sự thống nhận thức
nhận thức và hành động trong Đảng cũng như ngoài Đảng. Đúng như chỉ dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong
đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng
nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”(15)./.