Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2024

 

Khắc ghi lời dạy của Đại tướng

Mùa xuân năm 1973, khi đang là giáo viên chiến thuật Trường Bồi dưỡng Trung cao, tôi nhận lệnh của lãnh đạo nhà trường và Văn phòng Bộ Quốc phòng lên báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trận đánh thắng chiến thuật “Trâu rừng” của tướng Mỹ Williams Abrams.

Đây là một trong những chiến công vang dội của Đại đội 2, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 27 (Mặt trận B5) tiêu diệt một cụm cấp đại đội của Lữ đoàn 1, Sư đoàn 5 bộ binh cơ giới của Mỹ vào đêm 4, rạng sáng 5-4-1970, ở bãi Tân Kim, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Khi đó, tôi đang là Đại đội trưởng Đại đội 2, trực tiếp chỉ huy Đại đội bám sát, luồn sâu vào trong đội hình “Trâu rừng”; đánh và tiêu diệt gọn cụm cơ giới chỉ huy chiến thuật của địch... Để báo cáo với Đại tướng, tôi đã ghi chép lại tỉ mỉ chiến lệ trận đánh mang theo.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>



- Dạ! - tôi trả lời và nhanh chóng ngồi xuống chiếc ghế Đại tướng vừa chỉ.

Sau khi tôi ngồi xuống, Đại tướng đi về phía bàn làm việc và chăm chú nhìn lên một tấm bản đồ đặt trên bàn, nói: "Chắc cháu đã chuẩn bị báo cáo kỹ lưỡng rồi nhỉ? Giờ cháu bỏ bản báo cáo, nhìn vào bản đồ này liệu có báo cáo về trận đánh thắng ở bãi Tân Kim được không? Nói rõ về tình hình ta. Tình hình địch. Địch bố trí lực lượng như thế nào? Đơn vị cháu đã xây dựng chiến thuật, quyết tâm ra sao để tiêu diệt địch?...".

- Báo cáo Đại tướng, cháu báo cáo trên bản đồ được ạ!-tôi tự tin đứng nghiêm người, dõng dạc nói.

Được sự cho phép, tôi đến bên Đại tướng và mới biết, tấm bản đồ để trên bàn làm việc là chiến lệ trận đánh thắng chiến thuật “Trâu rừng” của Mỹ. Nhìn vào tấm bản đồ, tôi say sưa báo cáo với Đại tướng về mưu đồ, phương thức tác chiến, quy luật hành-trú quân của chiến thuật “Trâu rừng”; những phương án tác chiến đã được thảo luận của Ban chỉ huy Đại đội 2.

Tuy trận đánh đã trải qua gần 3 năm nhưng khi báo cáo, từng hốc đá, bờ suối, bụi cây và hành động dũng cảm của đồng đội: Đồng chí Dy, Chính trị viên; đồng chí Cư, Phó đại đội trưởng; đồng chí Lê Đăng Nhiệm, Chính trị viên phó; đồng chí Thuấn, Trung đội trưởng Trung đội 1; đồng chí Viêm, Trung đội trưởng Trung đội 2; đồng chí Tam, Trung đội trưởng Trung đội 3; đồng chí Khoét, xạ thủ B41... rồi cả tia chớp lửa rền vang từ những quả đạn B40, B41 trùm lên tiêu diệt 16 chiếc xe tăng của địch vào rạng sáng 5-4-1970 cũng được tôi miêu tả tỉ mỉ cho Đại tướng nghe.

Về nguyên nhân chiến thắng, tôi báo cáo rõ: Thứ nhất, từ đầu năm 1970, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2 đã tập trung huấn luyện kỹ, chiến thuật, trong đó bảo đảm giỏi cả kỹ thuật sử dụng vũ khí, trang bị của ta lẫn của địch, để trong tác chiến nếu đạn cạn kiệt thì có thể lấy vũ khí địch đánh địch. Thứ hai, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2 đã tham gia chiến đấu nhiều năm trên chiến trường Quảng Trị nên rất thông thuộc địa hình (bảo đảm yếu tố bí mật trong hành-trú quân) cũng như giấu quân sau khi trận đánh kết thúc...

Nhờ vậy, khi đối chiến với bầy “Trâu rừng” của Mỹ - rất kiên cố, vững chắc ở tiền duyên, nhưng có phần lỏng lẻo ở sở chỉ huy phía sau-cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2 đã bí mật luồn sâu, áp sát cụm chỉ huy của địch, nổ súng diệt gọn cụm chỉ huy, giành thắng lợi vẻ vang, còn bên ta thương vong 3 đồng chí (trong đó 1 hy sinh, 2 bị thương nhẹ).

- Tại sao đơn vị không rút về vùng giải phóng trong đêm mà vẫn ở lại trận địa để đêm sau mới rút? - Đại tướng ân cần hỏi.

- Báo cáo Đại tướng, trận đánh diễn ra trong thời gian chỉ hơn 30 phút. Lúc bấy giờ, địch đã gọi chi viện hỏa lực bắn phá dữ dội phía trước tiền duyên, cộng thêm các cụm “Trâu rừng” bên ngoài cũng tăng cường cảnh giác, bắn phá. Do vậy, nếu rút về ngay thì đơn vị sẽ thương vong lớn. Chúng cháu lợi dụng sự thông thuộc địa hình, chia thành các tổ 3 người ẩn nấp. Tối hôm sau khi địch đã rút hết, đơn vị rút lui rất an toàn.

- Sao lại dùng tổ 3 người? - Đại tướng hỏi.

- Báo cáo Đại tướng, tổ 3 người như kiềng 3 chân, vừa hiệu quả trong việc hỗ trợ tác chiến nếu bị địch phát hiện, đồng thời, nếu không may trong chiến đấu có 1 đồng chí bị thương thì 2 đồng chí còn lại sẽ đủ sức giúp phối hợp để đưa đồng đội của mình rời khỏi trận đánh.

Sau khi nghe tôi báo cáo xong, Đại tướng vui cười, biểu dương sự sáng tạo, chủ động và chiến công của Đại đội 2. Đại tướng căn dặn: "Bây giờ cán bộ, chiến sĩ đánh giỏi rồi, nhưng “cái giỏi của người chỉ huy là chỉ huy vừa đánh thắng vừa phải giảm thương vong thấp nhất mới là người chỉ huy giỏi”.

- Báo cáo rõ! Tôi đứng nghiêm đón nhận lời Đại tướng dạy bảo. Lời dạy của Đại tướng được tôi truyền lại cho học viên các khóa học chiến thuật ở Trường Bồi dưỡng Trung cao. Một thời gian sau, khi thành lập Quân đoàn 1, tôi được điều động về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27, chỉ huy Trung đoàn tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, rồi kinh qua nhiều vị trí công tác trong Quân đội... Nhưng lúc nào lời dạy của Đại tướng cũng là "kim chỉ nam" trong mỗi suy nghĩ và hành động của tôi.


 VAI TRÒ CỦA ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN CHIẾN LƯỢC MỚI

  Trong các giai đoạn của sự nghiệp cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, trên cơ sở kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, việc không ngừng đổi mới tư duy trong hoạch định và triển khai chính sách đã trở thành một quy luật, một bài học quý và là nhân tố quan trọng dẫn đến thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đánh giá: “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khuôn khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ và toàn diện. Hội nhập quốc tế sâu rộng, tranh thủ được sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao”. 

Tiếp tục tinh thần đổi mới trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại với mục tiêu phát triển đất nước Việt Nam thịnh vượng, có vị thế cao trong cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới, công tác đối ngoại góp phần quan trọng vào bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn chiến lược mới, thể hiện ở những mặt sau:

 Thứ nhất, đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong hoạt động đối ngoại. Đồng thời, khẳng định Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi mà thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

 Thứ hai, đường lối đối ngoại đổi mới góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, đưa đất nước vào thế có lợi nhất trước những chuyển biến mau lẹ, khó lường của tình hình thế giới, khu vực. Khẳng định trong giai đoạn chiến lược tới, đối ngoại cần “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. “Vai trò tiên phong của đối ngoại” không chỉ có ngoại giao mà cả quốc phòng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự phối hợp liên ngành dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà nước.

 Thứ ba, đường lối đổi mới góp phần nâng tâm đối ngoại song phương và đối ngoại đa phương trong giai đoạn phát triển chiến lược. Về song phương, cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy”. Đối ngoại đa phương cần “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế”, và “trong những vấn đề, các cơ chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể”; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng… tích cực xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể.

 Thứ tư, đường lối đối ngoại đổi mới khẳng định vai trò của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Con người là yếu tố quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ đối ngoại ngày một cao hơn trong tình hình mới. 

 Thứ năm, đường lối thể hiện vai trò của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Tính hiện đại của ngoại giao được thể hiện ở việc phát triển và nâng tầm phương thức triển khai công tác đối ngoại, trình độ của đội ngũ cán bộ, tổ chức bộ máy, cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang thiết bị… đạt trình độ khu vực và vươn tầm quốc tế, giúp thúc đẩy hiệu quả lợi ích quốc gia - dân tộc và thích ứng linh hoạt với chuyển biến của tình hình mới.

 Thứ sáu, đường lối đối ngoại đổi mới bảo đảm lợi ích, quyền lợi của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh… Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. 





 

Ấn tượng ngày đầu nhập ngũ

Đến Tiểu đoàn 85, Trung đoàn 888, Bộ CHQS tỉnh Phú Yên, điều khiến chúng tôi thực sự ấn tượng là hệ thống doanh trại của đơn vị được xây dựng chính quy, nơi ăn ở của chiến sĩ mới (CSM) được thiết kế khang trang, sạch sẽ. Từ mỗi phòng ở, nhà bếp, nhà ăn đến hội trường, thao trường, bãi tập, khu tăng gia... chỗ nào cũng thể hiện rõ sự quan tâm, chăm lo chu đáo dành cho CSM, tạo ấn tượng tốt đẹp ngay từ những ngày đầu nhập ngũ.

Tốt nghiệp đại học loại giỏi và tự nguyện làm đơn thực hiện nghĩa vụ quân sự, ngay lúc vừa xuống xe vào đơn vị, cảnh quan môi trường doanh trại khang trang sạch, đẹp cùng những cử chỉ ân cần thăm hỏi, động viên của cán bộ các cấp đã tạo cho Nguyễn Trung Hiếu, chiến sĩ Tiểu đội 28, Trung đội 9, Đại đội 3 cảm giác thân thiện, ấm áp như trong gia đình. “Những ngày đầu, chúng tôi được cán bộ đại đội, tiểu đoàn gặp gỡ, nắm tình hình, thăm hỏi hoàn cảnh gia đình. Sau đó, từ việc sinh hoạt cá nhân đến quy định, nội quy, sắp xếp chăn màn, nội vụ đều được các anh hướng dẫn, chỉ bảo tỉ mỉ. Đêm xuống, khi chúng tôi đi ngủ, cán bộ trung đội, đại đội đến từng giường giúp cài màn, sửa dép đúng vị trí... Chúng tôi được đi tham quan doanh trại, phòng truyền thống… khu tăng gia với đủ loại rau su hào, bắp cải, súp lơ, rau muống, mồng tơi thẳng tắp, xanh mướt làm chúng tôi không khỏi thích thú, tò mò. Những động tác thể dục đầu tiên được đội ngũ cán bộ các cấp làm mẫu, hướng dẫn giúp tôi thêm tự tin, quyết tâm rèn luyện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”, Nguyễn Trung Hiếu tâm sự.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
Là đảng viên, vừa tốt nghiệp Trường Đại học Thể dục thể thao Thành phố Hồ Chí Minh, chiến sĩ Võ Văn Đại, Tiểu đội 1, Trung đội 1, Đại đội 1 muốn được rèn luyện, tìm hiểu sâu hơn về môi trường quân đội, nên anh đã viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Vào đơn vị, nhận thức được vai trò tiền phong, gương mẫu của người đảng viên, anh luôn tích cực trong học tập, sinh hoạt; sẵn sàng giúp đỡ, động viên đồng đội vượt qua những bỡ ngỡ ban đầu, nhanh chóng hòa nhập vào môi trường mới. Võ Văn Đại Anh chia sẻ: “Lần đầu tiên nghe tiếng kẻng, tiếng kèn báo thức, tiếng còi tập trung, khiến chúng tôi nhiều lúc giật mình. Mỗi khi đi ăn cơm, học tập, công tác, mọi người xếp hàng, trật tự; ngồi vào bàn ăn không ai nói chuyện…, một số đồng chí chưa quen tỏ ra chưa thoải mái. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên tôi luôn gần gũi, lắng nghe tâm tư, chia sẻ cùng đồng đội. Sau vài ngày, chúng tôi quen dần và thực hiện nghiêm túc, coi đó là sự trải nghiệm thử thách, rèn luyện bản thân để trở thành người chiến sĩ QĐND Việt Nam. Quen thêm nhiều đồng đội, chúng tôi cùng giúp nhau học tập, rèn luyện, sẻ chia chuyện gia đình và quyết tâm hoàn thành tốt nghĩa vụ công dân với Tổ quốc”.


Sâu sát, động viên các chiến sĩ mới sau ngày dài học tập, huấn luyện ngoại khóa, Thiếu tá Đỗ Tấn Bình, Chính trị viên Tiểu đoàn 85 cho biết: “Tiểu đoàn 85 là đơn vị đảm nhận tiếp nhận, quản lý, huấn luyện CSM của Trung đoàn. Những ngày đầu quân ngũ, các CSM là đảng viên, có trình độ đại học, cao đẳng luôn thể hiện tốt vai trò tiền phong, gương mẫu trong học tập, huấn luyện, chấp hành chế độ quy định… Phát huy vai trò của đội ngũ này, Đảng ủy, chỉ huy Tiểu đoàn giao nhiệm vụ làm tổ trưởng, chiến sĩ bảo vệ và bố trí đều khắp các đại đội để thường xuyên sâu sát, nắm bắt tâm tư nguyện vọng, giúp đồng đội khắc phục khó khăn, nhanh chóng thực hiện nền nếp, chế độ quân đội, quy định của đơn vị và những nội dung khó trong học tập. Đồng thời, đội ngũ cán bộ các cấp luôn sâu sát, động viên, các CSM nhanh chóng vượt qua những khó khăn, bỡ ngỡ ban đầu, quen dần với môi trường đặc thù quân sự. Theo đó, từng CSM đã thể hiện sự tiến bộ của mình qua từng ngày”.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>



Quây quần bên nhau dưới ánh trăng sáng, những thanh niên trai trẻ tuổi mười tám, đôi mươi tập các bài hát quy định trong quân đội. Tiếng đàn ghi-ta bập bùng hòa cùng tiếng hát cất cao, vang xa cả một vùng đồi, hừng hực sức trẻ, tràn đầy khí thế và tỏ rõ quyết tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời gian tại ngũ.


Sự xuyên tạc, kích động thâm hiểm về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển

 

Những luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo xuất phát từ những mưu đồ đen tối, âm mưu kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam với các nước trên thế giới, cần phải được nhận diện, lên án, đấu tranh kịp thời

Thời gian qua, trên các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam đã trắng trợn xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta có liên quan về vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

Họ vu cáo rằng, Đảng, Nhà nước và Quân đội ta “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển”, “lúc nào cũng chỉ muốn đối thoại, đàm phán hòa bình nên để nước ngoài lấn tới...”; "không đủ năng lực và không đủ quyết tâm để bảo vệ chủ quyền biển, đảo”...

Từ đây, các đối tượng ra sức xuyên tạc sự thật về mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước có biển trong khu vực Biển Đông; tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tâm lý bài nước này, thân nước kia; kích động sự chống đối Đảng, Nhà nước; hạ thấp vị thế, vai trò, sức mạnh của Quân đội; phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Họ kêu gọi Đảng, Nhà nước ta phải từ bỏ chính sách đối ngoại quốc phòng “4 không”, đòi Đảng ta “thực hiện liên minh quân sự” để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển...

Có thể thấy, những luận điệu trên hoàn toàn là sự xuyên tạc trắng trợn, kích động với dụng ý phá hoại. Sự thật là nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc luôn được Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đặc biệt coi trọng, đang được tiến hành một cách đồng bộ, bài bản, kiên quyết, kiên trì, kiên cường và khôn khéo.

Thứ nhất, đường lối, chính sách, các chiến lược, kế hoạch... phát triển đất nước của Đảng, Nhà nước ta từ trước đến nay đều khẳng định rất rõ ràng, biển, đảo là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; lợi ích quốc gia trên biển là vấn đề trọng yếu, thường xuyên và lâu dài của Việt Nam. Ngay từ thời điểm đang phải dồn toàn lực để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dù khó khăn trăm bề, Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã kịp thời đưa lực lượng, phương tiện đi giải phóng các đảo từ tay chế độ cũ, thể hiện tầm nhìn trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Trong suốt những năm qua, Việt Nam luôn kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và tất cả lợi ích hợp pháp, chính đáng trên biển Việt Nam đã được luật pháp quốc tế và Hiến pháp, pháp luật Việt Nam quy định. Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã nhiều lần phát ngôn công khai, khẳng định rõ lập trường, quan điểm nêu trên.

Hệ thống quan điểm của Đảng ta về công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Điều đó được thể hiện rõ qua các văn kiện của mỗi kỳ đại hội Đảng. Gần đây nhất, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Trong đó, Đảng đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề trên biển hiện nay.

Thứ hai, Đảng, Nhà nước và Quân đội ta luôn ưu tiên dành mọi nguồn lực tốt nhất cho nhiệm vụ giữ vững chủ quyền biển, đảo; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.

Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi để ngư dân yên tâm bám biển, làm giàu từ biển. Nhiều ngành kinh tế biển được chú trọng như khai thác dầu khí, vận tải biển, điện gió ngoài khơi, du lịch biển, đảo, phát triển kinh tế các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học... Tất cả hoạt động kinh tế biển đó thể hiện tính chất của nền quốc phòng toàn dân, thực hiện sách lược gắn kinh tế với quốc phòng, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.

Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”.

Thứ ba, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, Đảng, Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi.

Đảng, Nhà nước ta thực hiện triết lý “Ngoại giao cây tre” mà bản chất là mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt. Mục tiêu lớn nhất là tránh được xung đột, không để xảy ra chiến tranh, giữ gìn môi trường hòa bình để phát triển đất nước, nhưng đồng thời bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc với quyết tâm cao nhất. Chúng ta biết nhu, biết cương, biết thời thế, biết thực lực, biết mình, biết người, biết tiến, biết lui đúng lúc, hợp thời. Đó cũng là thực hiện triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, “Lạt mềm buộc chặt” mà ông cha ta đã đúc rút từ các bài học đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Chúng ta xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của nước ta, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế. Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước lớn.

Thứ tư, Đảng, Nhà nước ta luôn chăm lo xây dựng lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển và lực lượng kiểm ngư vững mạnh, với trang bị, phương tiện ngày càng đồng bộ, hiện đại đủ sức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Các lực lượng nêu trên luôn có tinh thần, quyết tâm cao, kiên quyết, kiên trì, kiên cường thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, không có chuyện “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển”... như kẻ xấu xuyên tạc, vu cáo.

Thứ năm, Đảng, Nhà nước quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Công tác tuyên truyền đã thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để người dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và sự quản lý thực tế của Việt Nam trên các vùng biển, đảo ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng niềm tin, ý chí quyết tâm, tạo đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Do đó, những luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo rõ ràng là xuất phát từ những mưu đồ đen tối, âm mưu kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam với các nước trên thế giới, cần phải được nhận diện, lên án, đấu tranh kịp thời./.

qdnd.vn

Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

(TG) - Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, lấy tự học làm cốt có ý nghĩa to lớn đối với nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam hiện nay. Để vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm, chỉ dẫn của Người đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều nội dung biện pháp gắn với đặc điểm, yêu cầu xây dựng xã hội học tập ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị.

TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG HỒ CHÍ MINH VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Với cách diễn đạt giản dị, ngắn gọn nhưng súc tích và hàm chứa ý nghĩa sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa tự học là “tự động học tập”(1). “Tự động học tập” là việc học tập do chính bản thân người học quyết định, người học tích cực, chủ động, tự giác trong việc xác định nội dung, hình thức, phương pháp học tập, tự kiểm tra, đánh giá kết quả mà không cần sự điều khiển, giao nhiệm vụ của người khác. Hồ Chí Minh giải thích rõ: “Tự động là không phải tựa vào ai, là tự mình biết xoay xở, tự mình biết thực hành công tác theo nhiều hình thức mới mẻ, phong phú”(2). Đây là quan niệm hoàn toàn mới mẻ so với nhận thức của số đông đồng bào lúc bấy giờ, trở thành những chỉ dẫn quan trọng trong đẩy mạnh phong trào tự học của toàn dân.

Thứ nhất, xác định đúng mục đích và động cơ học tập

Mục đích và động cơ học tập là điều kiện, tiền đề để nâng cao kết quả học tập. Theo Hồ Chí Minh, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mục đích của việc học tập hoàn toàn khác so với trong xã hội cũ là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(3). Đó là mục đích cao cả trở thành lý tưởng sống cao đẹp của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong chế độ mới, động lực thôi thúc cán bộ, đảng viên và nhân dân tự học tập. Những chỉ dẫn ấy vừa có tính cách mạng, vừa có tính khoa học, thể hiện sự giải quyết hài hoà giữa quyền và lợi ích học tập của cá nhân với cống hiến, đóng góp cho tập thể, đất nước và nhân loại. Nếu học chỉ “để làm quan phát tài” hay vì mưu cầu lợi ích cá nhân thấp hèn thì tất yếu sự học không thể bền bỉ suốt cuộc đời mỗi người và tất yếu dẫn đến những biểu hiện tiêu cực trong học tập. Vì vậy, Người đưa ra tôn chỉ “Còn sống thì còn phải học”(4) và khuyên mọi người phải “tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập”(5).

Theo quan điểm của Người, việc xác định mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập không chỉ là vấn đề học tập mà còn là vấn đề đạo đức, là nhân cách của người học. Đây chính là nhân tố quyết định hiệu quả tự học, bảo đảm sự học bền bỉ, suốt đời không dứt đoạn, không bị tha hoá. Người chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(6).

Bằng thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú, sôi nổi của mình, Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng ngời về tự học. Dù không có nhiều thời gian học chính quy trong trường lớp nhưng bản thân Người là một nhà văn hoá kiệt xuất, một lãnh tụ cách mạng của dân tộc với trí tuệ thiên tài. Người chưa từng học ở trường dạy viết báo nhưng Người là một nhà báo nổi tiếng, là chủ bút của nhiều tờ báo lớn của nhân dân các nước thuộc địa. Quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã làm rất nhiều nghề để mưu sinh và dùng thu nhập ít ỏi để mua sách báo, tài liệu, vào các thư viện để tự học tập, nghiên cứu. Tấm gương hy sinh, ý chí quyết tâm trong quá trình tự học, tự nghiên cứu của Người xuất phát từ việc xác định động cơ học tập đúng đắn, đó là học vì dân, vì nước, vì sự nghiệp cách mạng. Trong tâm trí Người chỉ có một mong ước cháy bỏng là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(7). Học tập là quyền con người chính đáng nhưng nếu có động cơ học tập cao cả để “phụng sự đồng bào, phụng sự Tổ quốc”(8) sẽ là động lực giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hy sinh.

Thứ hai, xây dựng kế hoạch tự học, sắp xếp thời gian học tập khoa học và kiên quyết, kiên trì đạt được mục đích học tập đề ra

Trong mọi hoạt động, nhất là trong tự học cần phải xây dựng kế hoạch khoa học. Học tập có kế hoạch nghĩa là phải biết phân bổ thời gian, công sức, trí lực hợp lý, khoa học, nội dung nào học trước, nội dung nào học sau để tốn ít thời gian, công sức nhất nhưng hiệu quả học tập cao nhất. Trong tự học, Người xây dựng thời khóa biểu tự học hợp lý và định ra thời gian phấn đấu hoàn thành kế hoạch đã đề ra. Với năng khiếu bẩm sinh, tư duy sắc sảo cùng với sự khổ công tự học đã giúp Người thành thạo nhiều ngoại ngữ. Người kể lại kinh nghiệm tự học ngoại ngữ: Với mỗi từ mới sau khi hỏi được nghĩa, Người viết vào một mảnh giấy, dán vào chỗ hay để ý nhất, có khi viết vào cánh tay để trong khi làm việc vẫn có thể học được. Có khi vừa đi đường Người vừa nhẩm trong đầu từ mới… Chính quyết tâm, sự kiên trì, bền bỉ giúp Người vượt qua những khó khăn, thiếu thốn để tự học thành công. Từ thực tiễn học tập và hoạt động cách mạng Người đã rút ra chân lý: “Gạo đem vào giã bao đau đớn/ Gạo giã xong rồi trắng tựa bông/ Sống ở trên đời người cũng vậy/ Gian nan rèn luyện mới thành công”.

Thứ ba, tự học trong thực tiễn và gắn kết chặt chẽ giữa “học đi đôi với hành”

Quá trình tự học của Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn liền với quá trình lao động và hoạt động cách mạng. Chính lao động và hoạt động cách mạng là điều kiện để Người tích luỹ, củng cố kiến thức vững chắc và kiểm nghiệm, đánh giá kết quả tự học. Trong điều kiện lao động kiếm sống và hoạt động đầy khó khăn, thiếu thốn nhưng Người không bao giờ từ bỏ mục đích học tập. Chính vì vậy, Người luôn khuyên và nhắc nhở mọi người cố gắng học tập, học ở mọi lúc, mọi nơi. Nói chuyện về công tác huấn luyện và học tập, Người nhấn mạnh: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”(9). Người đánh giá cao trí tuệ của nhân dân. Nhân dân là nhà thông thái nhất, là người thầy của cách mạng vì “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(10).

Học đi đôi với hành là một vấn đề thời sự, thường xuyên, tất yếu đối với tất cả người học, tất cả các cấp học. Học và hành là hai mệnh đề có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bác từng dạy: “Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”(11). Do đó, trong quá trình tự học, Người căn dặn phải học đến đâu phải thực hành đến đó, không được dấu dốt, sợ sai Trong “Bài nói chuyện tại Đại hội Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam lần thứ III”(25/3/1961), Người nhắc nhở: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Cần phải học kinh nghiệm tốt của các đoàn thanh niên bạn. Học đi đôi với hành”(12).

Tư tưởng và tấm gương tự học Hồ Chí Minh có giá trị to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Trong những năm tháng kháng chiến trường kỳ, gian khổ, học tập và làm theo tấm gương tự học của Người đã giúp tạo ra thế hệ cán bộ mới, con người mới không chỉ có giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng mà còn có tri thức, hiểu biết sâu rộng góp phần đưa sự nghiệp “kháng chiến thành công, kiến quốc thắng lợi”(13). Những kinh nghiệm, lời giáo huấn được rút ra từ tấm gương tự học bền bỉ suốt đời của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị, “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá”(14) cho các thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP HIỆN NAY

Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 phát triển như vũ bão, yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ngày càng cấp bách, thì việc đề cao ý thức tự học, tự nghiên cứu trở thành yêu cầu vừa cấp thiết trước mắt, vừa cơ bản, lâu dài nhằm xây dựng xã hội học tập. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chỉ rõ một trong các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam là “hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập”. Đây là chủ trương lớn, đúng đắn của Ðảng và Nhà nước ta. Xã hội học tập là cơ sở tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Thấm nhuần những kinh nghiệm và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quán triệt chủ trương xây dựng xã hội học tập của Đảng ta, cần nhận thức và thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của toàn dân về xây dựng xã hội học tập. Xã hội học tập là một xã hội mà ở đó mọi người dân có nhu cầu học tập đều được đáp ứng và đều có nghĩa vụ học tập. Trong xã hội học tập, ai cũng được học thường xuyên, học suốt đời, trong đó ý thức tự giác tự học là yếu tố quyết định nhất. Do đó, cần phát huy trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị trong công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về xây dựng xã hội học tập. Chỉ khi nào mọi người dân nhận thức rõ về sự cần thiết, vai trò, tác động, ích lợi của học tập suốt đời và những điều kiện xây dựng xã hội học tập thì khi đó nhu cầu tự học tập được hình thành, củng cố và phát triển bền vững. Nghĩa là, phải hình thành ở người dân động cơ tự học tập đúng đắn. Trong điều kiện cách mạng Công nghiệp 4.0 phát triển như vũ bão, bên cạnh các hình thức tuyên truyền truyền thống (phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí, tổ chức các hội thảo, diễn đàn….) cần tận dụng tối đa ưu thế của internet và mạng xã hội trong tuyên truyền, định hướng nhận thức của người dân và phát triển các hình thức tự học tập cho các đối tượng dân cư. Tuy nhiên, cần chú trọng quản lý chặt chẽ an toàn, an ninh thông tin mạng và xây dựng môi trường thông tin mạng xã hội lành mạnh nhằm thúc đẩy xã hội học tập, đúng định hướng chính trị, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hai là, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho toàn dân học tập. Cơ chế chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong định hướng, thúc đẩy các hoạt động xây dựng xã hội học tập phát triển lành mạnh, hiệu quả thực chất. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách quan tâm phát triển xã hội học tập, thúc đẩy tự học tập suốt đời đáp ứng mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Do đó, các cấp uỷ, chính quyền, địa phương cần quán triệt, cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về phát triển giáo dục, đào tạo và xây dựng xã hội học tập, nhất là Quyết định số 1373/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030”. Trong đó, tập trung quán triệt, cụ thể hoá quan điểm xây dựng xã hội học tập dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, gắn kết và liên thông giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên, liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo; vận dụng mọi hình thức giáo dục, đào tạo tiên tiến, hiệu quả, phù hợp với mục tiêu giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Ba là, chú trọng xây dựng và nhân rộng các mô hình xã hội học tập. Việc nhân rộng các mô hình xã hội học tập có vai trò quan trọng nhằm thúc đẩy xây dựng xã hội học tập. Cấp uỷ, chính quyền các cơ quan, đơn vị, địa phương cần chú trọng nhân rộng các mô hình “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập”, “Đơn vị học tập”… theo hướng thiết thực, hiệu quả, nhằm phát triển phong trào tự học tập trong mọi gia đình, dòng họ, cộng đồng và cơ quan, tổ chức. Để các mô hình này không phát triển tự phát cần xây dựng tiêu chí cụ thể phù hợp với từng loại mô hình, sát đặc điểm đối tượng, tránh rập khuân, máy móc hoặc hình thức, chiếu lệ dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp. Đồng thời, gắn kết chặt chẽ hoạt động của các mô hình xã hội học tập với nội dung các phong trào thi đua ở các địa phương, cơ quan, đơn vị tạo động lực thúc đẩy việc kiện toàn, phát triển các mô hình xã hội học tập.

Bốn là, củng cố lại các trung tâm học tập cộng đồng, các cơ sở giáo dục thường xuyên theo hướng áp dụng chuyển đổi số và dạy học trực tuyến tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người dân tiếp cận với các hình thức giáo dục. Đổi mới công tác quản lý các trung tâm học tập cộng đồng, các cơ sở giáo dục thường xuyên, quan tâm nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ, tin học. Xây dựng chương trình giáo dục thường xuyên theo hướng mềm dẻo, linh hoạt để mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ, mọi vùng miền đều có thể tiếp cận các tri thức ứng dụng vào thực tiễn đời sống, công tác và sản xuất. Bên cạnh đó, cần chú trọng áp dụng chuyển đổi số và dạy học trực tuyến, các chương trình đào tạo từ xa, các khóa học trực tuyến nhằm giảm chi phí, tạo cơ hội học tập cho các đối tượng; đổi mới phương thức học tập và áp dụng những tiện ích với công nghệ số, đặc biệt là các phương tiện dạy học cộng đồng.

Năm là, huy động tối đa các nguồn lực xã hội trong công tác xây dựng xã hội học tập. Xây dựng xã hội học tập không phải là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục mà là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Do đó, mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp cần bảo đảm nguồn lực cần thiết đầu tư xây dựng xã hội học tập. Để tránh tình trạng dàn trải, các cơ quan, đơn vị, địa phương cần quy định rõ định mức đầu tư cho các hoạt động tự học tập sát thực tiễn với từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực vật chất, trí tuệ, công nghệ bên ngoài bảo đảm đa dạng hoá các hoạt động xây dựng xã hội học tập.

Xây dựng xã hội học tập, thúc đẩy tự học tập của toàn dân là chủ trương đúng đắn phù hợp với yêu cầu đòi của thực tiễn, nhu cầu học tập của nhân dân. Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, lấy tự học làm cốt là những kinh nghiệm quý báu và chỉ dẫn quan trọng để mỗi cấp uỷ, chính quyền và toàn dân học tập và làm theo. Hiệu quả thực hiện chủ trương này phụ thuộc vào nhiều nhân tố song xét đến cùng bắt nguồn từ sự thống nhận thức nhận thức và hành động trong Đảng cũng như ngoài Đảng. Đúng như chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”(15)./.

 "TÂN" LẠI TUYÊN TRUYỀN "BẨN"


Sau khi thủ đoạn tung những video clip dàn dựng, cắt ghép, sưu tầm từ nhiều năm trước về cảnh “đi bộ đội bị lính cũ bắt nạt hoặc phải làm việc cực nhọc” bị bạn đọc bóc mẽ, vạch trần, một số trang mạng phản động, trong đó có Việt Tân tiếp tục dùng chiêu trò khác nhằm kêu gọi thanh niên trốn tránh nhập ngũ để thực hiện âm mưu chống phá đất nước ta.

Chúng tung tin rằng: Thanh niên nhập ngũ thực hiện nghĩa vụ quân sự là lãng phí mất 2 năm tuổi trẻ (!)

Nghe luận điệu tuyên truyền “bẩn” này, thấy ngay sự nham hiểm nhưng lại rất ngô nghê của những kẻ có mưu đồ đen tối. Bởi vì chúng cho rằng 2 năm nhập ngũ là lãng phí thời gian, nhưng tuyệt đại đa số người dân Việt Nam đều hiểu rõ Quân đội như trường học lớn, là môi trường rất tốt để thanh niên học tập, rèn luyện, từ đó trưởng thành hơn.

Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh, tất cả thanh niên Việt Nam sau một thời gian nhập ngũ đều có sự tiến bộ rõ rệt về nhiều mặt. Hầu như ai hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cũng có sức khỏe, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực, bản lĩnh, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong... chững chạc hơn, tốt hơn so với trước khi nhập ngũ.
 Các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đều ưu tiên tuyển chọn người đã được học tập, rèn luyện qua môi trường Quân đội, bởi họ thường có phẩm chất, năng lực, uy tín cao hơn.

Trong các đợt tuyển quân hằng năm thì luôn có hàng vạn thanh niên viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Họ vừa tự giác thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc, vừa muốn được học tập, rèn luyện trong môi trường Quân đội để trưởng thành, có đủ hành trang cần thiết lập thân, lập nghiệp một cách tự tin, bền vững.
Thực hiện nghĩa vụ quân sự là vinh dự thiêng liêng với Tổ quốc và là trách nhiệm của mỗi thanh niên Việt Nam. 

Nghe theo lời xúi dại ấy, có khi tự đẩy mình vào ăn chơi sa ngã, vi phạm pháp luật, lãng phí tuổi thanh xuân trong môi trường khác./.