Thứ Ba, 1 tháng 10, 2024

 Viện Công nghệ tích cực nghiên cứu thiết kế, chế tạo sản phẩm mới, hiện đại

Nghiên cứu thiết kế, chế tạo sản phẩm mới, hiện đại, đặc biệt là nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, từng bước làm chủ công nghệ lõi trong thiết kế, chế tạo các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi bức thiết trong xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng “tự chủ, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại”, xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi phải hội tụ nhiều yếu tố, nhất là về nguồn nhân lực chất lượng cao và sở hữu nền công nghiệp vững chắc, toàn diện; cơ chế, chính sách bảo đảm; hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu và sự hỗ trợ, chuyển giao công nghệ từ các đối tác trong nước và nước ngoài, v.v. Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, Viện Công nghệ, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng đã bám sát chức năng1, nhiệm vụ và định hướng của trên, triển khai đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu khoa học; trong đó, trọng tâm hướng vào nghiên cứu thiết kế, chế tạo sản phẩm mới, hiện đại



Thực hiện mục tiêu xác định, trước hết, Viện tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới phương châm từ nghiên cứu, chế tạo sản phẩm theo mẫu sang nghiên cứu thiết kế, chế tạo sản phẩm mới. Quán triệt Nghị quyết số 209-NQ/ĐU, ngày 08/7/2019 của Đảng ủy Tổng cục Công nghiệp quốc phòng về lãnh đạo đẩy mạnh nhiệm vụ nghiên cứu thiết kế, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật mới; góp phần thực hiện chủ trương hiện đại hóa Quân đội; Nghị quyết số 814-NQ/ĐU, ngày 07/4/2023 của Đảng ủy Tổng cục về lãnh đạo công tác khoa học, công nghệ đến năm 2030 và những năm tiếp theo, Viện phát huy vai trò của Hội đồng khoa học, công nghệ trong nắm bắt xu hướng phát triển trang bị kỹ thuật trên thế giới, định hướng trang bị cho Quân đội của Bộ Quốc phòng và các chương trình, dự án bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật phục vụ sản xuất quốc phòng để xây dựng định hướng nghiên cứu khoa học, công nghệ trung hạn, dài hạn. Trong đó, lấy nghiên cứu thiết kế, chế tạo sản phẩm mới là mục tiêu trọng tâm; đồng thời, phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể trong nghiên cứu, đề xuất ý tưởng, chủ trương, giải pháp thực hiện. Những năm qua, với quan điểm “không có nghiên cứu cơ bản sẽ không có được công nghệ”, Viện từng bước đổi mới tư duy, cách làm, chú trọng điều chỉnh, cân đối giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng nhằm triển khai phát triển sản phẩm mới trên cả hai hướng: ứng dụng công nghệ mới để cải tiến, nâng cấp, tích hợp bổ sung tính năng kỹ, chiến thuật của vũ khí, trang bị hiện có và nghiên cứu thiết kế, chế tạo mới. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, Viện tập trung xây dựng, phát huy vai trò của các “Nhóm nghiên cứu”, “Tổ chuyên gia” và xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh theo chuyên ngành, liên ngành. Hoàn thiện cơ chế quản lý, tài chính theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền, phân luồng nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu cho cơ quan, đơn vị trực thuộc và các tập thể, cá nhân, nhất là chủ nhiệm đề tài nhằm tăng tính tự chủ, linh hoạt trong xây dựng kế hoạch, đề xuất mở mới và thử nghiệm, nghiệm thu. Đồng thời, đẩy mạnh liên kết với các cơ sở nghiên cứu khoa học trong và ngoài Quân đội để triển khai các nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu.

Với việc đột phá đổi mới cơ chế quản lý, điều hành và tư duy, cách làm khoa học, Viện đã khuyến khích, phát huy tính năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong nắm bắt những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhu cầu của các cơ quan, đơn vị để đề xuất đề tài, hướng nghiên cứu mới. Từ năm 2015 đến nay, Viện đã thực hiện thành công 84 đề tài, nhiệm vụ về nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật mới từ cấp Viện đến cấp Nhà nước. Đặc biệt, Viện đã cơ bản làm chủ thiết kế và công nghệ chế tạo hầu hết các loại đạn vũ khí lục quân, phòng không và một số loại đạn hải quân, đạn pháo, nòng pháo, giàn phóng; một số mác hợp kim đặc biệt, vật liệu đặc chủng cho chế tạo chi tiết tên lửa, đầu đạn, vỏ liều, sơn máy bay, tàu ngầm. Bước đầu nghiên cứu, chế tạo và làm chủ công nghệ từng phần các loại vũ khí công nghệ cao, vũ khí cơ động, tích hợp hệ thống, như: tên lửa phòng không tầm thấp, robot chiến đấu và trinh sát, xe chiến đấu bộ binh, pháo tự hành, rađa hỏa lực mạng khe tầm gần,... góp phần nâng cao tính chủ động của công nghiệp quốc phòng trong nước, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu vũ khí, vật tư, linh kiện từ nước ngoài, cũng như tạo ra các sản phẩm vũ khí mới trang bị cho Quân đội.

Là trung tâm nghiên cứu đa ngành hàng đầu của Tổng cục, Viện được giao chủ trì và tham gia các dự án, đề tài trọng điểm cấp Nhà nước, Bộ Quốc phòng với yêu cầu nghiên cứu thiết kế, chế tạo các sản phẩm mới, tích hợp nhiều công nghệ hiện đại, phức tạp. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đó, Viện chú trọng đầu tư, xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ theo hướng đồng bộ, có chiều sâu, lấy xây dựng, phát triển nguồn lực con người làm trung tâm. Mục tiêu đặt ra là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, cơ cấu hợp lý, đồng bộ về chuyên ngành, chuẩn hóa về trình độ chuyên môn theo từng lĩnh vực, có năng lực, trí tuệ, tâm huyết, đam mê nghiên cứu khoa học và chuyên nghiệp. Những năm qua, cùng với làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, Viện chú trọng tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng; ưu tiên xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ, chuyên gia công nghệ đầu ngành; đào tạo, xây dựng tổng công trình sư. Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, Viện đẩy mạnh kết hợp giữa đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ với đào tạo chuyên sâu ở trong nước và quốc tế2. Đồng thời, coi trọng bồi dưỡng năng lực thực tiễn cho cán bộ bằng hình thức tăng cường cử cán bộ xuống các đơn vị, nhà máy tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất để nắm bắt, đề xuất hướng cải tiến và thiết kế trang bị mới; vừa tạo động lực, khuyến khích, động viên vừa tạo áp lực để cán bộ tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ. Cùng với đó, Viện luôn quan tâm làm tốt công tác chính sách tạo điều kiện để cán bộ, nhân viên yên tâm công tác, cống hiến. Hiện nay, 90% cán bộ của Viện có trình độ đại học trở lên; trong đó, trên 70% có trình độ sau đại học với 18% cán bộ được công nhận chức danh chuyên môn nghiên cứu viên chính, kỹ sư chính và cao cấp; bước đầu xây dựng được đội ngũ chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực, làm nòng cốt cho sự phát triển của Viện.

Cùng với xây dựng nguồn lực về con người, Viện chủ động đề xuất, tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị nghiên cứu theo hướng hiện đại, đồng bộ, có chiều sâu; ưu tiên các trang thiết bị kiểm tra, đo lường, thử nghiệm vũ khí, trang bị kỹ thuật mới và phục vụ công tác nghiên cứu cơ bản, tạo nền tảng kỹ thuật nâng cao năng lực nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển sản phẩm. Theo đó, Viện đã xây dựng, đề xuất cấp trên phê duyệt và triển khai các dự án, đề án nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng, trang thiết bị nghiên cứu, thử nghiệm với lộ trình cụ thể. Giai đoạn 2019 - 2023, Viện đã hoàn thành 01 dự án phòng thí nghiệm, 04 nhiệm vụ bảo dưỡng, sửa chữa nhỏ phòng thí nghiệm cấp Bộ Quốc phòng, v.v. Cùng với đó, Viện đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật phục vụ nghiên cứu khoa học3. Đến nay, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu của Viện đã được củng cố, nâng cấp, hiện đại hóa và phát huy hiệu quả, trực tiếp nâng cao năng lực nghiên cứu thiết kế, chế tạo sản phẩm mới. Trên nền tảng đó, Viện đẩy mạnh triển khai thực hiện “Đề án xây dựng và phát triển Viện Công nghệ đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035”. Trong đó, tập trung xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt các dự án đầu tư cơ sở vật chất, các phòng thí nghiệm đặc chủng, như: “Nâng cao năng lực Viện Công nghệ”, “Phòng thí nghiệm vật liệu đặc chủng”, “Phòng thí nghiệm cao su”, “Phòng thí nghiệm tính toán mô phỏng các hệ thống vũ khí có điều khiển, vũ khí công nghệ cao”, “Xưởng chế thử thực nghiệm”,... nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Trước mắt, Viện nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế; tiếp nhận, làm chủ công nghệ chế tạo một số vũ khí, khí tài hiện đại, công nghệ tích hợp vũ khí trên một số phương tiện chiến đấu, tăng khả năng cơ động cho vũ khí, trang bị.

Để rút ngắn khoảng cách về công nghệ chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật mới với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, Viện đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, tận dụng, kế thừa các kết quả nghiên cứu trong nước và thế giới, tranh thủ các trang thiết bị, trình độ công nghệ của các đối tác, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ. Theo đó, cùng với tham gia tiếp nhận, chuyển giao công nghệ của đối tác nước ngoài theo các chương trình hợp tác của Nhà nước và Bộ Quốc phòng, Viện tăng cường tổ chức hội thảo khoa học để giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với các cơ sở nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. Đồng thời, tích cực liên kết, hợp tác với các trung tâm nghiên cứu, nhà máy để chia sẻ công nghệ, khai thác hệ thống phòng thí nghiệm, mô phỏng, trang thiết bị nghiên cứu hiện đại, chuyên dụng để triển khai các dự án, đề tài. Thời gian qua, Viện đã hợp tác với các chuyên gia Liên bang Nga, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Ứng dụng Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự (Bộ Tổng Tham mưu), Viện Công nghệ (Bộ Công Thương), Học viện Kỹ thuật quân sự và các viện, nhà máy trong Tổng cục triển khai thực hiện thành công nhiều đề tài, dự án lớn. Thông qua đó, giúp đội ngũ cán bộ của Viện trưởng thành, nắm bắt, làm chủ các công nghệ mới, như: vật liệu mới, mô phỏng, FPGA xử lý ảnh và kỹ thuật xử lý số tín hiệu, kỹ thuật đo lường và điều khiển số, v.v. Đây là nền tảng quan trọng để Viện ứng dụng vào nghiên cứu thiết kế, chế tạo sản phẩm mới.

Phát huy kết quả đạt được, thời gian tới, Viện Công nghệ tiếp tục rà soát, bổ sung định hướng nghiên cứu khoa học, công nghệ giai đoạn 2025 - 2030 và những năm tiếp theo; chủ động đề xuất các nội dung nghiên cứu phù hợp với định hướng bảo đảm kỹ thuật, bảo đảm trang bị, xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại, xây dựng nền công nghiệp quốc phòng “tự chủ, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại”. Đồng thời, tích cực nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Tổng cục các chủ trương, giải pháp tháo gỡ khó khăn về quy định, cơ chế, chính sách, cũng như cơ chế hợp tác với nước ngoài để triển khai các chương trình liên kết nghiên cứu, trao đổi thông tin, mua sắm trang thiết bị,... nhằm tận dụng tốt các thành tựu khoa học, công nghệ của thế giới với phương châm đứng trên vai người khổng lồ”, nhanh chóng làm chủ được công nghệ nền, công nghệ lõi, tạo ra sản phẩm quốc phòng tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đại tá, TS. PHẠM TUẤN HẢI, Viện trưởng

 Lực lượng vũ trang tỉnh Kiên Giang chung sức xây dựng nông thôn mới

Kiên Giang là tỉnh biên giới1, ven biển, thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh có 15 huyện, thành phố với 144 xã, phường, thị trấn; có hơn 13% dân số là người Khmer (đứng thứ ba trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long). Những năm qua, Phong trào thi đua “Chung sức xây dựng nông thôn mới” trong toàn Tỉnh được triển khai sôi nổi, rộng khắp nên diện mạo nông thôn có nhiều khởi sắc, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư nâng cấp, mạng lưới giao thông nông thôn phát triển; công tác giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường nông thôn được chú trọng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường, chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Nhờ đó, đến nay toàn tỉnh có 111/116 xã và 07 huyện, thành phố hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, trong đó có 19 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Có được kết quả đó là nhờ sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, các lực lượng và toàn thể nhân dân trong Tỉnh cùng tham gia, trong đó lực lượng vũ trang Tỉnh hưởng ứng, chung sức xây dựng nông thôn mới với các giải pháp trọng tâm có ý nghĩa quan trọng.

Trước hết, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tích cực chung sức tham gia xây dựng nông thôn mới. Theo đó, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh yêu cầu cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các kế hoạch, hướng dẫn của trên về thực hiện Phong trào thi đua “Lực lượng vũ trang Quân khu chung sức xây dựng nông thôn mới”2. Quá trình thực hiện, các cơ quan, đơn vị nghiên cứu về thực tiễn, xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm địa bàn và khả năng của cơ quan, đơn vị mình; trong đó, tập trung thực hiện hiệu quả 05 nhóm nội dung3 theo Hướng dẫn của Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới Quân khu 9. Để đạt hiệu quả, các cơ quan, đơn vị, nhất là cơ quan quân sự cấp huyện, thành phố tích cực tham mưu, giúp cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng hệ thống chính trị địa phương vững mạnh; tham gia giúp dân xóa đói giảm nghèo; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, v.v. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với ban ngành, đoàn thể địa phương và các lực lượng đứng chân trên địa bàn xây dựng kế hoạch, tổ chức ký kết phối hợp4 cùng thực hiện Phong trào xây dựng nông thôn mới bảo đảm chặt chẽ, thống nhất, khoa học, khắc phục tình trạng chồng chéo, thiếu sót về nội dung của Phong trào. Qua đó, tạo sự đồng thuận, thống nhất của toàn thể cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, sự nỗ lực cố gắng, quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện các mô hình tiêu biểu: “Tết Quân - Dân”; “Tết Quân - Dân mừng Chôl Chnăm Thmây”; “Nhà đồng đội”; “Nghĩa tình đồng đội”; “Tiếp bước em đến trường”, mang lại hiệu quả thiết thực, giải quyết được những vấn đề vướng mắc đã và đang đặt ra ở địa phương cơ sở, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn.

Để Phong trào “Lực lượng vũ trang Kiên Giang chung sức xây dựng nông thôn mới” đạt kết quả cao, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh phối hợp với Ban Dân vận và các ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nhân đạo thực hiện chương trình “Tết Quân - Dân”, vận động hỗ trợ địa phương xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là cầu, đường giao thông nông thôn, trường học và xây tặng nhà cho đối tượng khó khăn về nhà ở trên những địa bàn còn khó khăn, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Chỉ tính riêng năm 2023, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân Tỉnh tổ chức thành công “Tết Quân - Dân” tại xã Bình Giang, huyện Hòn Đất và “Tết Quân - Dân mừng Chôl Chnăm Thmây” tại xã An Minh Bắc, huyện U Minh Thượng; chỉ đạo các huyện, thành phố tổ chức tại các xã trên địa bàn các huyện, thành phố, với tổng kinh phí trên 150 tỉ đồng (kinh phí cấp tỉnh hơn 13 tỉ đồng). Lực lượng vũ trang Tỉnh đã hỗ trợ địa phương xây dựng 88 căn nhà, 10 cây cầu, 01 tuyến đường, tặng trên 2.000 phần quà cho các gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, học sinh nghèo vượt khó, học giỏi. Đồng thời, huy động, tập hợp sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các lực lượng xây dựng các công trình phúc lợi nhằm phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, tô thắm thêm truyền thống, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.

Cùng với những việc làm trên, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chủ động phối hợp cùng cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể địa phương tổ chức khảo sát, thống nhất chọn đối tượng hộ nghèo, nắm nhu cầu, khả năng, nguyện vọng của gia đình cần giúp đỡ, nhất là các hộ gia đình có đất ở, đất sản xuất nhưng thiếu vốn, thiếu sức lao động, thiếu kiến thức về kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt, làm cơ sở xây dựng kế hoạch, thống nhất lộ trình, mốc thời gian cụ thể để giúp đỡ các hộ gia đình phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo. Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh chủ động phối hợp với Hội nông dân Tỉnh tổ chức tập huấn, tư vấn chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi, hỗ trợ mô hình sản xuất, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho nhân dân. Năm 2023, lực lượng vũ trang Tỉnh đã vận động trên 4.000 lượt cán bộ, chiến sĩ đóng góp kinh phí ủng hộ quỹ “Ngày vì người nghèo” số tiền trên 900 triệu đồng; tham gia quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” trên 800 triệu đồng, góp phần cùng với địa phương phát triển sản xuất, hỗ trợ gia đình chính sách. Đồng thời, tích cực tham gia thực hiện các chương trình giáo dục cộng đồng, như: vận động đưa trẻ đến trường; tham gia ngày công xây dựng, sửa chữa lớp học; hỗ trợ kinh phí, dụng cụ, đồ dùng, phương tiện học tập cho nhà trường và học sinh, v.v. Lực lượng vũ trang Tỉnh còn tích cực tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn hóa mới, phòng, chống các tệ nạn xã hội, thực hiện tốt Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Năm 2023, lực lượng vũ trang Tỉnh đã tổ chức khám bệnh, cấp thuốc miễn phí trên 1.500 lượt người; thăm, tặng trên 2.000 suất quà gia đình chính sách, hộ nghèo; tặng 100 suất học bổng cho học sinh vượt khó học giỏi trên 25 triệu đồng; nhân dịp các ngày lễ, Tết tổ chức thăm, tặng quà cho gia đình chính sách, người có công, người có hoàn cảnh khó khăn với số tiền trên 03 tỉ đồng. Qua đó, đã góp phần cùng cấp ủy, chính quyền địa phương hoàn thành 19 tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới.

Một tiêu chí quan trọng trong tham gia xây dựng nông thôn mới được Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh đặc biệt quan tâm, đó là tham gia củng cố hệ thống chính trị gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh. Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh đã tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh quán triệt, triển khai thực hiện các văn bản của trên về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ5; đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho các cấp, các ngành, cán bộ đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ ý nghĩa việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quyết định quan trọng đến việc xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, tham mưu kiện toàn Ban Chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện; tham gia chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện, chiến đấu phòng thủ cấp xã và tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh đúng theo kế hoạch, chất lượng đạt khá. Cùng với đó, chỉ đạo cơ quan quân sự các huyện, thành phố phối hợp, giúp địa phương củng cố, xây dựng lực lượng thường trực, dân quân tự vệ, dự bị động viên, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng vững mạnh; xây dựng các tổ chức đảng, tổ chức quần chúng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ở cơ sở. Tập trung xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đảm bảo số lượng, chất lượng và độ tin cậy về chính trị. Nhờ đó, đến nay có 100% chi bộ quân sự cấp xã có cấp ủy, xây dựng, củng cố lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,2% so với dân số, tỷ lệ đảng viên đạt 28,62%; xây dựng lực lượng dự bị động viên đúng và gần đúng chuyên nghiệp quân sự, đăng ký, quản lý, sắp xếp biên chế hợp lý, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, tỷ lệ đảng viên đạt 15,16%. Công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ được tiến hành chặt chẽ từ khâu nắm nguồn, xét duyệt chính trị, bình xét, bình nghị, tuyên truyền, giáo dục, gặp gỡ; tổ chức tốt hội trại tòng quân, thăm hỏi, động viên, tặng quà thanh niên trúng tuyển nghĩa vụ quân sự. Kết quả hằng năm đều đạt trên 100% chỉ tiêu. Bên cạnh đó, phối hợp tốt trong việc đón quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự về địa phương và hướng nghiệp học nghề, tạo việc làm ổn định cuộc sống; đồng thời, chọn nguồn cán bộ đưa đi đào tạo lớp trung cấp chuyên nghiệp ngành quân sự cơ sở được thực hiện đúng quy trình, góp phần bảo đảm nguồn cán bộ quân sự ở địa phương cơ sở ổn định, vững chắc.

Những kết quả đạt được trên là tiền đề quan trọng để lực lượng vũ trang Tỉnh tiếp tục nỗ lực, chung sức xây dựng nông thôn mới, góp phần cùng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Tỉnh Kiên Giang vượt qua khó khăn, hoàn thành tiêu chí theo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Đại tá LÊ HOÀNG VŨ, Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Đổi mới sáng tạo là yếu tố quan trọng phát triển Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

 

Sáng 1-10, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã dự Ngày hội đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2024 và Kỷ niệm 5 năm thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC). Tại đây Thủ tướng công bố Ngày 1-10 hằng năm là Ngày hội đổi mới sáng tạo quốc gia.

Sự kiện được Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức tại Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia ở Khu công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội, đánh dấu hành trình chuyển đổi mạnh mẽ của NIC trong 5 năm qua, thể hiện “Khát vọng - Tiên phong - Bứt phá” và khẳng định vai trò quan trọng trong việc nâng tầm hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.

Cùng dự sự kiện có: Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng; các Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng là lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; Bí thư các tỉnh, thành ủy; đại diện các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế, các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, hiệp hội, nhà khoa học, doanh nghiệp trong nước và quốc tế, nhất là lãnh đạo nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như: Meta, Nvidia, Qualcomm, AMD, Intel, Qorvo, Samsung..., với tổng số khoảng 1.500 đại biểu dự trực tiếp và 10.000 đại biểu dự trực tuyến.

NIC - Trái tim của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo

Được thành lập ngày 2-10-2019, theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với chức năng hỗ trợ, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên phát triển khoa học và công nghệ, NIC từng bước khẳng định vai trò đầu mối quốc gia về đổi mới sáng tạo, là đơn vị dẫn dắt kết nối hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hoàn chỉnh cho Việt Nam.

NIC đã xây dựng được chính sách trong đổi mới sáng tạo để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa; hoàn thiện hạ tầng các cơ sở hoạt động; xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi cho đổi mới sáng tạo; phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam với đầy đủ các chủ thể tham gia; hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các nguồn lực; tham gia phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam...

Ngoài tổ chức không gian làm việc, các hội thảo, tọa đàm, các sự kiện kết nối các doanh nghiệp start-up với các doanh nghiệp trong và ngoài nước…, NIC còn có chương trình đào tạo phối hợp với các đối tác lớn như: Google, Meta…, kết hợp với các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia trên thế giới để gửi một nhóm các start-up ra nước ngoài và tham gia các chương trình ươm tạo, đào tạo ở nước ngoài như Bỉ, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản…

Trong 5 năm, NIC đã hỗ trợ, ươm tạo hơn 1.000 start-up; hỗ trợ kết nối hơn 1.500 doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp; tổ chức đào tạo thông qua 30 chương trình, dự án, hoạt động… NIC đã xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gồm 10 mạng lưới thành viên và gần 2.000 thành viên tại 20 quốc gia, vùng lãnh thổ; triển khai các hoạt động trong 9 lĩnh vực gồm: Công nghệ trí tuệ nhân tạo, công nghiệp bán dẫn, công nghệ môi trường, đô thị thông minh, nhà máy thông minh, công nghệ y tế, hydrogen xanh, nội dung số và an ninh mạng.

Phát huy kết quả đạt được, thời gian tới, NIC tiếp tục tập trung tham gia xây dựng cơ chế, chính sách; phát triển hệ sinh thái và hỗ trợ doanh nghiệp; phát triển nguồn nhân lực; vận hành hiệu quả Cơ sở NIC Hà Nội và Cơ sở NIC tại khu công nghệ cao Hòa Lạc.

Tại sự kiện, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết, Đảng, Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm đến khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đây là một trong những quốc sách hàng đầu cho phát triển nhanh và bền vững. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định chủ trương phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đổi mới sáng tạo được quy định rõ trong Luật Khoa học và Công nghệ, cũng như nhiều quy định pháp luật, cơ chế, chính sách khác.

Những năm qua, các cấp, ngành, địa phương đã tập trung thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy đổi mới sáng tạo và đã đạt được những kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thủ tướng cho biết, đến nay, Việt Nam đã có khoảng 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, 208 quỹ đầu tư, 84 vườn ươm, 35 tổ chức thúc đẩy kinh doanh, 20 trung tâm khởi nghiệp sáng tạo; hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam hiện đứng thứ 56/100 quốc gia; Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh lọt vào top 200 thành phố khởi nghiệp sáng tạo trên toàn cầu. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024 của Việt Nam xếp hạng 44 và Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2024 ở vị trí 71/193.

Phân tích bối cảnh tình hình thời gian tới, Thủ tướng cho rằng, sự phát triển bùng nổ của khoa học công nghệ và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã dẫn đến những biến đổi sâu sắc với những tác động, ảnh hướng lớn trên phạm vi toàn cầu và đối với từng quốc gia, khu vực.

Đổi mới sáng tạo ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng và thực sự trở thành một động lực không thể thiếu trong phát triển khoa học công nghệ nói riêng và chiến lược phát triển quốc gia nói chung, là chìa khóa cho phát triển nhanh và bền vững. Đổi mới sáng tạo là một xu thế tất yếu khách quan không thể đảo ngược. Đối với Việt Nam, đây là yếu tố đặc biệt quan trọng góp phần thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững của Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới.

Thủ tướng chỉ rõ 3 quan điểm thúc đẩy đổi mới sáng tạo gồm: Đổi mới sáng tạo phải là lựa chọn chiến lược, yêu cầu khách quan, nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững; Đổi mới sáng tạo phải lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là động lực và là nguồn lực chủ yếu, đặc biệt là thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước; Đổi mới sáng tạo phải dám nghĩ, dám làm, dám hành động, dám chấp nhận rủi ro, dám vượt lên chính mình, dám dấn thân vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì tương lai tươi sáng của đất nước.

Nêu các nhiệm vụ, giải pháp chung về: Hoàn thiện thể chế; đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; thu hút các nguồn đầu tư tài chính; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị quốc gia; thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác quốc tế…, với "Cơ chế chính sách thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh; hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả".

Yêu cầu thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo Việt Nam, Thủ tướng cho biết, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo rà soát, hoàn thiện chiến lược, cơ chế, chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp với tinh thần tạo mọi thuận lợi và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư và người dân; chỉ đạo, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan chức năng tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo mọi thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong các hoạt động đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp.

Ngày 1-10 hằng năm là Ngày hội Đổi mới sáng tạo Quốc gia

Thủ tướng yêu cầu các Bộ trưởng, Trưởng ngành chủ động thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới sáng tạo và các vấn đề liên quan; chỉ đạo điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, bám sát yêu cầu thực tiễn phong phú của các hoạt động đổi mới sáng tạo để ứng phó phù hợp với những vấn đề mới phát sinh; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, nhận thức, hành động và tổ chức triển khai các hoạt động đổi mới sáng tạo trong từng ngành, lĩnh vực một cách bài bản và có trọng tâm, trọng điểm.

Thủ tướng yêu cầu Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung triển khai Đề án đào tạo nhân lực bán dẫn. Bộ Khoa học và Công nghệ nghiên cứu, rà soát, có cơ chế, chính sách đột phá tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp; khẩn trương xây dựng dự án Luật và trình Chính phủ ban hành Nghị định về khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo (hoàn thành trong năm 2024). Bộ Giáo dục và Đào tạo đẩy mạnh đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao, nhất là các chương trình đào tạo về các ngành trọng điểm như công nghệ trí tuệ nhân tạo, bán dẫn và kỹ năng số…

Với quan điểm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm", người đứng đầu Chính phủ yêu cầu các địa phương chủ động triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra; lưu ý những tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của từng địa phương để có giải pháp phù hợp thúc đẩy đổi mới sáng tạo của người dân, doanh nghiệp trên địa bàn; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tham gia các hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, nhất là tiếp cận với nguồn lực tài chính, hạ tầng công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao…

Đối với doanh nghiệp, người dân, Thủ tướng mong muốn tích cực tham gia một cách thiết thực, cụ thể các hoạt động đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, giúp Việt Nam bắt kịp, tiến cùng, vượt lên.

Với tinh thần “cùng lắng nghe, thấu hiểu”, “cùng sẻ chia tầm nhìn và hành động”, “cùng làm, cùng thắng, cùng phát triển”, “cùng hưởng niềm vui, hạnh phúc và tự hào”, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương luôn trân trọng lắng nghe và cảm ơn những ý kiến đóng góp để rà soát, sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan.

Cho rằng, các nhà khoa học có sứ mệnh vừa là người tạo nền tảng, người thực hiện, vừa là người tiên phong cho các hoạt động đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ…, Thủ tướng mong muốn và đề nghị các nhà khoa học nỗ lực, cố gắng hơn nữa, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm hiệu quả cao; đồng thời đề nghị các trường đại học, viện nghiên cứu tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, chế độ đãi ngộ cho các nhà khoa học.

Thủ tướng mong muốn các nước, tổ chức, đối tác quốc tế hoàn thiện thể chế, tài chính ưu đãi, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, khoa học quản trị và tổ chức thực hiện quá trình đổi mới sáng tạo Việt Nam.

Điểm lại kết quả hoạt động sau 5 năm hoạt động của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, Thủ tướng đánh giá sự nỗ lực và những đóng góp quan trọng của Trung tâm và của Bộ Khoa học và Công nghệ, các cấp, ngành, địa phương và các đối tác phát triển, cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư, chuyên gia, nhà khoa học thời gian qua, góp phần quan trọng nâng tầm vị thế và uy tín của Việt Nam về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong khu vực và quốc tế.

Lưu ý phương châm "đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện có hiệu quả thiết thực, cụ thể" và phân công "rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm", thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tập trung chỉ đạo phát huy hơn nữa vai trò của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia.

Trong đó, tập trung nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp, khẩn trương sửa đổi Nghị định 94, bảo đảm ban hành trước ngày 10-10-2024; tăng cường hợp tác quốc tế, tiếp tục mở rộng mạng lưới các chuyên gia, nhà khoa học về đổi mới sáng tạo, kết nối quốc tế.

Với tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám hành động, dám dấn thân, dám đổi mới sáng tạo”, Thủ tướng Chính phủ tin tưởng thông điệp "Đổi mới, bứt phá, vượt qua chính mình; sáng tạo, vươn xa, bay cao trong bầu trời kỷ nguyên số, phát triển xanh của nhân loại" của Ngày hội Đổi mới sáng tạo Quốc gia sẽ ngày càng lan tỏa mạnh mẽ. Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia là nơi hội tụ của nhân loại và lan tỏa lợi ích mạnh mẽ; là trái tim của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, là điểm tựa cho sự phát triển vượt bậc, bền vững và hội nhập toàn cầu của Việt Nam; góp phần nâng tầm Việt Nam thành một quốc gia khởi nguồn của đổi mới sáng tạo, có khả năng làm chủ công nghệ, vươn tầm khu vực và thế giới.

Nhân sự kiện này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính công bố Ngày 1-10 hằng năm là Ngày hội đổi mới sáng tạo quốc gia; yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng các bộ, cơ quan liên quan thực hiện các thủ tục cần thiết về việc này và tổ chức thực hiện theo quy định.

Trước khi vào sự kiện chính, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đại biểu đã tham quan các gian trưng bày sản phẩm công nghệ của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới; đặc biệt là các sản phẩm, giải pháp công nghệ của các tập đoàn, doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam đi đầu về đổi mới sáng tạo như Viettel, Sovico Group, CT Group, T&T Group, Thaco, FPT, MoMo…

Với hàng trăm sản phẩm, giải pháp công nghệ tiêu biểu được giới thiệu cho thấy sự trỗi dậy của các doanh nghiệp dân tộc nói riêng và của Việt Nam nói chung trên bản đồ công nghệ thế giới mà còn là một cam kết của doanh nghiệp đồng hành với Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng một tương lai bền vững và thịnh vượng dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Cũng tại sự kiện, 5 giải pháp tiêu biểu xuất sắc nhất tham gia chương trình Thách thức Đổi mới sáng tạo Việt Nam 2024 do NIC và Tập đoàn Meta đồng tổ chức được Thủ tướng Chính phủ vinh danh, gồm 2 giải pháp trong lĩnh vực bán dẫn và 3 giải pháp trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo đến từ các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới và trong nước: Cadence, Nexus Photonics, CHOSEN, FPT, Viettel…

Thủ tướng Phạm Minh Chính trao Bằng khen tặng các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phát triển đổi mới sáng tạo nói chung và Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia nói riêng; chứng kiến lễ trao các thỏa thuận hợp tác giữa Trung tâm với các Tập đoàn công nghệ lớn Nvidia, Qualcom, Intel, Visemi... về phát triển trí tuệ nhân tạo, bán dẫn.

 Đoàn Đặc nhiệm số 2 nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên biển

Đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy là một trong những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, vừa cấp bách, vừa thường xuyên, lâu dài, nhằm hạn chế và tiến tới loại trừ hậu quả nặng nề do loại tội phạm này gây ra. Nhận thức rõ điều đó, Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 2 tập trung nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên biển, vì cuộc sống bình yên của nhân dân.

Tội phạm vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm về ma túy trên các vùng biển của Việt Nam nói riêng diễn biến rất phức tạp, khó lường, hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có tổ chức chặt chẽ, có sự cấu kết, móc nối với các đối tượng người nước ngoài và sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng khi bị tấn công, hòng chống trả lực lượng chức năng. Để góp phần ngăn chặn và hạn chế thấp nhất các hậu quả do tội phạm về ma túy gây ra, những năm qua, Đảng ủy, chỉ huy Đoàn Đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 (Cảnh sát biển Việt Nam) thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, cấp ủy, chính quyền các tỉnh Bắc Trung bộ1 chủ động xây dựng các chuyên án, kế hoạch, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng đấu tranh, phòng, chống tội phạm ma túy trên các vùng biển, đảo và nội địa do đơn vị quản lý.

Một trong những đặc điểm nhiệm vụ của Đoàn là quản lý địa bàn rộng, quân số mỏng, hoạt động trên biển, phải đối mặt với nhiều khó khăn, đối tượng phạm tội manh động,… nhưng với các giải pháp quyết liệt và đồng bộ, hoạt động đấu tranh của Đoàn đạt nhiều kết quả tích cực. Nổi bật là, Đoàn đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật cho bộ đội và nhân dân; qua đó, nhận thức, trách nhiệm, ý thức cảnh giác của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ được nâng lên rõ rệt; công tác đào tạo, bồi dưỡng, truyền thụ kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm cho đội ngũ cán bộ sĩ quan trẻ, mới ra trường được tổ chức chặt chẽ, bảo đảm chất lượng; việc xây dựng mạng lưới cơ sở mật được duy trì thường xuyên, hiệu quả; hoạt động phối hợp với cơ quan chức năng, nhất là lực lượng Công an, Biên phòng, Hải quan, Kiểm ngư được tiến hành chặt chẽ, v.v. Trong 6 tháng đầu năm 2024, đơn vị đã chủ trì và phối hợp đấu tranh thành công 25 chuyên án, vụ án về ma túy, bắt giữ 30 đối tượng, khởi tố 11 chuyên án, vụ án hình sự2.

Tuy nhiên, công tác nắm tình hình ở một số địa bàn ven biển còn chưa sâu; việc tuyển chọn, xây dựng lực lượng, cơ sở mật trong các lĩnh vực, ngành nghề trên biển, khu vực cảng biển chất lượng chưa cao; kinh phí, vật chất, phương tiện bảo đảm cho nhiệm vụ đấu tranh, phòng, chống tội phạm ma túy chưa đầy đủ; công tác đấu tranh chuyên án, vụ án trên vùng biển và địa bàn một số địa phương ven biển có thời điểm hiệu quả chưa cao, v.v.

Dự báo thời gian tới, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật, nhất là tội phạm về ma túy trên các vùng biển Bắc Trung bộ có chiều hướng ngày càng phức tạp; tính chất, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi. Các hoạt động móc nối, mua bán, vận chuyển ma túy xuyên quốc gia hình thành đường dây, ổ nhóm núp dưới danh nghĩa hoạt động đầu tư, tạm nhập, tái xuất, liên danh, liên kết, kinh doanh dịch vụ,... để che giấu hành vi phạm tội rất phức tạp. Tình hình đó, đòi hỏi Đảng ủy, chỉ huy Đoàn phải lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng, chống tội phạm về ma túy trên biển; tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:

Một làđẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các quy định của pháp luật về đấu tranh, phòng, chống tội phạm về ma túy. Đây là giải pháp rất quan trọng, tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm, trách nhiệm và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ cũng như ý thức cảnh giác và trách nhiệm tham gia của nhân dân. Buôn bán, vận chuyển trái phép chất ma túy thường mang lại lợi nhuận khổng lồ, nên các đối tượng không từ một thủ đoạn nào để “đối phó” với lực lượng chức năng; nếu không có bản lĩnh vững vàng thì dễ bị sa ngã hoặc tiếp tay cho các đối tượng tội phạm. Vì vậy, Đảng ủy, chỉ huy Đoàn đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân các xã ven biển và ngư dân nắm chắc các quy định của pháp luật về ma túy; thấy rõ hậu quả, tác hại khôn lường do ma túy gây ra, từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm, ý thức cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh, ngăn chặn. Nội dung tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, toàn diện, rõ ràng, cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các chỉ thị, hướng dẫn, quy định của pháp luật về phòng, chống và kiểm soát ma túy3.

Để công tác này đạt hiệu quả cao, Đoàn chỉ đạo các đội đặc nhiệm đa dạng hóa hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục, song phải phù hợp với từng đối tượng, địa bàn, mang tính trực quan sinh động và răn đe cao. Ngoài việc thông qua giao ban, hội họp, học tập tập trung, tọa đàm, trao đổi, nói chuyện chuyên đề, sân khấu hóa, xây dựng pano, áp phích, tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh nội bộ, Đoàn còn làm các video clip, phối hợp với các trung tâm phát thanh - truyền hình của Trung ương và địa phương đứng chân trên địa bàn xây dựng các chuyên trang, chuyên mục để tuyên truyền, giáo dục. Thường xuyên phối hợp với các lực lượng liên quan và các trường trung học tổ chức tuyên truyền cho ngư dân, nhân dân các xã ven biển và học sinh thấy rõ hậu quả, tác hại do hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng ma túy gây ra, từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm và không vi phạm pháp luật, không tiếp tay cho tội phạm ma túy.

Hai làphối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng trong đấu tranh, phòng, chống tội phạm về ma túy. Thời gian gần đây, tội phạm về ma túy gia tăng sử dụng mạng xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin vào buôn bán, vận chuyển ma túy, với các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, khiến lực lượng chức năng rất khó phát hiện; nếu bị truy bắt, chúng sẽ dùng vũ khí nóng để chống trả đến cùng hoặc nhanh chóng tiêu hủy chứng cứ, tang vật. Để nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, Đảng ủy, chỉ huy Đoàn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các đội phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an, Biên phòng, Hải quan, Bộ Tư lệnh vùng Cảnh sát biển 1 và 2 xây dựng các chuyên án, kế hoạch đấu tranh, phòng, chống tội phạm về ma túy trên biển; tăng cường trinh sát trên các cảng biển, cửa lạch, âu tàu và địa bàn trọng điểm; thường xuyên chia sẻ thông tin liên quan đến tội phạm ma túy trên các vùng biển, khu vực cảng biển. Kiểm tra, kiểm soát, giám sát chặt chẽ các phương tiện của ngư dân trước khi ra khơi và các đối tượng, phương tiện qua lại khu vực biên giới, cửa khẩu, cảng biển. Tổ chức mở các đợt tấn công trấn áp tội phạm trên biển, nhất là tội phạm về ma túy, tập trung vào các dịp lễ, Tết và giai đoạn có các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước.

Cùng với đó, phối hợp với cấp ủy, chính quyền các địa phương nắm chắc tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tại khu vực cảng, biển; rà soát phân loại đối tượng có tiền án, tiền sự, các đối tượng có biểu hiện nghi vấn, các đối tượng dễ có khả năng phạm tội ma túy để lập danh sách, xem xét đưa vào diện theo dõi, sưu tra, quản lý; đồng thời, vận động cá biệt, răn đe, giáo dục. Khi phát hiện các dấu hiệu buôn bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy, Đoàn triển khai xây dựng chuyên án chặt chẽ, khoa học, cụ thể, tỉ mỉ, tổ chức đấu tranh kiên quyết, triệt để, liên tục không kể ngày đêm. Đối với các vụ án đã phá, bắt giữ được đối tượng, nhanh chóng củng cố tài liệu chứng cứ, phối hợp với Công an, Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố, bàn giao đối tượng, hồ sơ tài liệu, tang vật cho cơ quan có thẩm quyền. Sau mỗi chuyên án, đợt đấu tranh, tổ chức sơ kết, đánh giá kết quả phối hợp đấu tranh, phòng, chống tội phạm về ma túy, rút kinh nghiệm và đề xuất các biện pháp đấu tranh trong thời gian tiếp theo.

Ba lànâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiêp vụ, truyền thụ kinh nghiệm đấu tranh cho cán bộ, chiến sĩ. Đây là giải pháp quan trọng, quyết định kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị; vì vậy, Đảng ủy, chỉ huy Đoàn chỉ đạo làm tốt công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và rèn luyện bản lĩnh, phương pháp tác phong cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, tập trung vào cán bộ trẻ mới ra trường. Quá trình bồi dưỡng, kết hợp chặt chẽ với truyền thụ kinh nghiệm xây dựng chuyên án, kế hoạch và kỹ năng đấu tranh với từng loại đối tượng; tổ chức thực hiện có hiệu quả khâu đột phá “vững chắc nghiệp vụ cơ bản; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nắm tình hình, đấu tranh, phòng, chống tội phạm ma túy trên biển”.

Cùng với việc huấn luyện, đào tạo bồi dưỡng tập trung tại đơn vị, Đoàn còn phối hợp với lực lượng Công an, Biên phòng các tỉnh, tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra, phá án; cử cán bộ, nhân viên tham gia các lớp tập huấn về nghiệp vụ do cấp trên tổ chức. Đồng thời, coi trọng tuyển chọn đội ngũ cán bộ, nhân viên về công tác tại đơn vị thông qua kết quả học tập, rèn luyện tại các trường và các đơn vị trong lực lượng Cảnh sát biển.

Bốn làxây dựng mạng lưới cơ sở mật có chất lượng. Lực lượng mật và mạng lưới cơ sở mật là nơi cung cấp nguồn tin chính xác liên quan đến tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói riêng, giúp các lực lượng chức năng phá thành công các chuyên án. Theo đó, Đoàn thường xuyên phối hợp với cấp ủy chính quyền các địa phương, lực lượng chức năng lựa chọn những tổ chức, cá nhân có uy tín trong cộng đồng, tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nắm và cung cấp thông tin liên quan đến tội phạm, hình thành các cơ sở bí mật có chất lượng. Cùng với đó, tổ chức đưa cán bộ, nhân viên có bản lĩnh, kinh nghiệm trong phá án nằm vùng tại các địa bàn trọng điểm; tham gia lao động tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh có yếu tố nước ngoài hoặc nghi vấn để lựa chọn lực lượng xây dựng cơ sở mật. Ngoài ra, Đoàn chú trọng thực hiện có hiệu quả các quy chế, chương trình đã ký với các đơn vị, địa phương và xây dựng các mối quan hệ phối hợp công tác khác.

Với quyết tâm chính trị cao, tinh thần chủ động khắc phục khó khăn, không ngại gian khổ, hy sinh, cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 tiếp tục phát huy vai trò chuyên trách, nòng cốt phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương và cơ quan chức năng, thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên biển, góp phần mang lại bình yên cho nhân dân và đồng hành cùng ngư dân “vươn khơi, bám biển”.

Đại tá PHAN QUANG HUY, Đoàn trưởng Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 2


 Lữ đoàn 131 thi đua thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu

Thi đua, khen thưởng nói chung, trong Quân đội nói riêng luôn là động lực quan trọng để cán bộ, chiến sĩ phát huy tính sáng tạo, vượt qua khó khăn, gian khổ, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao. Đây cũng là vấn đề được Đảng ủy, chỉ huy Lữ đoàn 131 Hải quân tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu với các chủ trương, giải pháp đồng bộ, hiệu quả.

Lữ đoàn 131 là đơn vị công binh của Quân chủng Hải quân, thực hiện nhiệm vụ bảo đảm chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu; xây dựng các công trình quân sự, quốc phòng ở đất liền, cảng biển và trên các tuyến đảo; dò tìm xử lý bom mìn, vật nổ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, v.v. Quán triệt, thực hiện các nghị quyết của trên về công tác huấn luyện1, Đảng ủy, chỉ huy Lữ đoàn đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai đồng bộ các chủ trương, giải pháp; trong đó, kết hợp chặt chẽ việc đẩy mạnh phong trào thi đua với các cuộc vận động trong huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao là một nội dung trọng tâm. Nhờ nhất quán trong lãnh đạo, quyết liệt trong tổ chức thực hiện, phong trào thi đua đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm; tạo khí thế, động lực mạnh mẽ để mỗi cán bộ, chiến sĩ tự hào phát huy truyền thống của Bộ đội Hải quân anh hùng, khắc phục mọi khó khăn, trở ngại, hăng hái, tích cực, chủ động, sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả huấn luyện, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu; xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Với những kết quả và thành tích tiêu biểu, năm 2023, Lữ đoàn được tặng cờ thi đua của Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân.

Những năm tới, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, xây dựng Quân chủng và Đơn vị đặt ra yêu cầu ngày càng cao đòi hỏi Lữ đoàn phải nỗ lực phấn đấu toàn diện. Phát huy những kết quả đã đạt được, nhằm giữ vững và nâng cao hơn nữa chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Lữ đoàn tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, với những nội dung trọng tâm sau:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, xây dựng quyết tâm, động cơ đúng đắn cho cán bộ, chiến sĩ trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Đây là yếu tố cốt lõi, định hướng và tạo nền tảng cho phong trào thi đua huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao của Đơn vị. Bởi, nhận thức đúng mới có hành động đúng; quyết tâm cao mới đạt hiệu quả cao. Theo đó, Lữ đoàn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là cán bộ chủ trì về vai trò, ý nghĩa, tính chất “trọng yếu” của nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Tăng cường quán triệt các chỉ thị, nghị quyết, chỉ lệnh, quy định về công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc về chức năng, nhiệm vụ của đơn vị; mục tiêu, quan điểm, phương châm, nguyên tắc huấn luyện; về đối tác, đối tượng, v.v. Đồng thời, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục truyền thống, khơi dậy và phát huy niềm vinh dự, tự hào cũng như trách nhiệm thiêng liêng, cao cả của người chiến sĩ Hải quân; lan tỏa tinh thần “Vượt nắng thắng mưa, say sưa luyện tập”, “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, “Đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể” để mọi cán bộ, chiến sĩ nỗ lực khắc phục khó khăn, vất vả, hoàn thành tốt các nội dung chỉ tiêu thi đua trong huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu.

Hai là, hướng phong trào thi đua vào thực hiện thắng lợi khâu đột phá trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Trên cơ sở bám sát khâu đột phá: “Cơ bản, làm chủ, chuyên sâu trong khai thác, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật, thực hiện quy tắc an toàn; nâng cao chất lượng huấn luyện cán bộ” và “Nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, hiệu quả quản lý vùng biển và chất lượng diễn tập, đặc biệt diễn tập đối kháng”, Đảng ủy Lữ đoàn ra nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; người chỉ huy xây dựng kế hoạch, tổ chức huấn luyện chặt chẽ ở tất cả các cấp, các khâu, các bước. Trong đó, lấy nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc và xây dựng Quân chủng, Lữ đoàn “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại” làm mục tiêu huấn luyện.

Để thi đua không chỉ là khẩu hiệu chung chung, mà phải lan tỏa và thấm sâu vào từng đối tượng, nhiệm vụ cụ thể, Lữ đoàn xác định mục tiêu là phát huy vai trò, khả năng, trí tuệ của các tổ chức, lực lượng, tập trung huấn luyện cho mọi quân nhân nắm vững kỹ thuật chuyên ngành công binh; khai thác, sử dụng thành thạo trang bị kỹ thuật hiện có và trang bị kỹ thuật mới. Thi đua huấn luyện nâng cao kỹ thuật thi công công trình quân sự; kỹ thuật tăng cường kháng lực công trình; bố trí, khắc phục vật cản chống đổ bộ đường biển, mở cửa mở, cửa luồng, dò tìm, xử lý bom mìn vật nổ, phòng, chống khủng bố; kỹ thuật làm đường quân sự, vượt sông, ngụy trang nghi binh công trình và làm trận địa giả. Đồng thời, thi đua huấn luyện phân đội bảo đảm công binh thuần thục theo các phương án chiến đấu. Đối với quân nhân chuyên nghiệp, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, mục tiêu là phải huấn luyện bảo đảm đủ trình độ tay nghề, bậc thợ, thuần thục, theo hướng cơ bản, làm chủ và khai thác hết tính năng của trang bị kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật mới; tập trung huấn luyện sát với nhiệm vụ. Tăng cường huấn luyện, rèn luyện thể lực, sức khỏe dẻo dai cho bộ đội, bảo đảm 100% quân số biết bơi2. Bảo đảm an toàn tuyệt đối trong huấn luyện và thi công các công trình.

Ba là, thi đua không để Đơn vị bất ngờ trong mọi tình huống. Đây vừa là mục tiêu của thi đua, vừa là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong thực hiện nhiệm vụ của Lữ đoàn. Vì vậy, thời gian tới, Lữ đoàn tập trung duy trì thực chất, đồng bộ lực lượng, phương tiện trực sẵn sàng chiến đấu theo phương án và các nhiệm vụ khi có lệnh, trọng tâm là nhiệm vụ tác chiến bảo vệ biển, đảo. Thường xuyên nắm chắc, nhận định, đánh giá dự báo đúng tình hình, báo cáo kịp thời chính xác; chủ động tham mưu đề xuất chủ trương, biện pháp xử trí hiệu quả các tình huống, không để bị động bất ngờ. Tăng cường luyện tập thuần thục các phương án sẵn sàng chiến đấu, phương án tác chiến; tuần tra, canh gác bảo vệ an toàn cơ quan, đơn vị; 100% đơn vị đại đội trở lên có kế hoạch và luyện tập thuần thục các phương án phòng, chống cháy nổ, cháy rừng, cứu sập, phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn. Lữ đoàn và các đơn vị xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống văn kiện tác chiến theo Điều lệ công tác tham mưu tác chiến và hướng dẫn của Quân chủng. Tích cực, chủ động tổ chức và tham gia diễn tập chỉ huy - tham mưu 1 bên 2 cấp trên bản đồ, có một phần thực binh; diễn tập chiến thuật phân đội công binh. Tích cực, chủ động huấn luyện cho các kíp sở chỉ huy xử trí tình huống theo phương án. Bên cạnh đó, thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới hệ thống văn kiện chiến đấu các cấp đúng theo hướng dẫn của trên; tổ chức tuần tra, canh gác, kiểm soát quân sự chặt chẽ, bảo đảm an toàn tuyệt đối khu vực đóng quân và các mục tiêu quan trọng. Cùng với đó, tiếp tục thực hiện tốt Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 05/9/2019 của Chính phủ3. Phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an và các lực lượng có liên quan nắm vững tình hình, chủ động xử trí kịp thời các tình huống, nhất là trong phòng, chống thiên tai, sự cố, cứu hộ cứu nạn trên đia bàn.

Bốn là, gắn kết chặt chẽ giữa thi đua huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu với các phong trào, cuộc vận động của các cấp, ngành. Thi đua thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu là một bộ phận nằm trong tổng thể của phong trào Thi đua Quyết thắng cũng như thực hiện các cuộc vận động của các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Để mang lại hiệu quả cao nhất, Lữ đoàn yêu cầu các cơ quan, đơn vị chủ động kết hợp, lồng ghép phong trào thi đua huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu với các cuộc vận động lớn và các đợt thi đua cao điểm, đột kích. Nội dung thi đua hướng vào đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” - Người chiến sĩ Hải quân”; Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Tiếp tục thực hiện tốt tiêu chí thi đua “hai chất lượng, hai nêu cao”; mô hình “Đảng viên dìu dắt quần chúng và cấp dưới”, “Quần chúng tâm sự, góp ý cho đảng viên”; kiên quyết đấu tranh phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng chi bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ với tiêu chí chi bộ “4 tốt” để mọi cấp ủy, chi bộ luôn là hạt nhân lãnh đạo đơn vị. Đồng thời, đẩy mạnh Cuộc vận động 50; Phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, “Đơn vị nuôi quân giỏi - Quản lý quân nhu tốt”, “Đơn vị quản lý tài chính tốt”; đơn vị “Chính quy, xanh, sạch, đẹp”. Cùng với đó, thường xuyên quan tâm chăm lo, phát huy vai trò xung kích của các tổ chức quần chúng thông qua các phong trào thi đua của Đoàn Thanh niên, như: “Thanh niên Lữ đoàn 131 Hải quân rèn đức, luyện tài; xung kích sáng tạo; đoàn kết lập công; xứng danh Bộ đội Cụ Hồ - Người chiến sĩ Hải quân thời kỳ mới”; các phong trào của Hội phụ nữ: “Phụ nữ Hải quân bản lĩnh, trí tuệ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng gia đình hạnh phúc, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ - Người chiến sĩ Hải quân thời kỳ mới”; xây dựng gia đình “5 không, 3 sạch”, “5 có, 3 sạch”, v.v. Qua đó, huy động sức mạnh tổng hợp, tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, làm cho phong trào thi đua huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu đi vào chiều sâu, hiệu quả, thực chất.

Với tinh thần tích cực, chủ động, đoàn kết, ý chí kiên cường, dũng cảm của người lính Hải quân, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng ủy, chỉ huy Lữ đoàn, phong trào thi đua trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Lữ đoàn 131 Hải quân sẽ gặt hái được nhiều thành tích hơn nữa, góp phần không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Đại tá NGÔ VĂN ĐỨC, Chính ủy Lữ đoàn

 Phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng Hải quân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Để hoàn thành nhiệm vụ cao cả này, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, ngành, lực lượng, cả hệ thống chính trị và toàn dân; trong đó, phát huy vai trò nòng cốt của Hải quân nhân dân Việt Nam là vấn đề quan trọng hàng đầu.

Việt Nam là quốc gia biển, với vùng biển rộng, bờ biển dài, có trên 3.000 đảo lớn, nhỏ được phân bố khá đều trên các vùng biển của đất nước; trong đó, có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm án ngữ phía Đông và Đông - Đông Nam của Tổ quốc. Biển Việt Nam có tiềm năng về tài nguyên, khoáng sản, nguồn hải sản phong phú và có tuyến hàng hải quốc tế quan trọng chạy qua. Chính vì vậy, biển, đảo Việt Nam, vừa là “không gian sinh tồn”, vừa là tuyến đầu phòng thủ đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về chiến lược biển, đảo, những năm qua, các cấp, ngành, địa phương cùng lực lượng Hải quân thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo và đạt được kết quả quan trọng. Trên thực tế, nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về biển, đảo không ngừng được nâng lên; cơ sở vật chất bảo đảm cho nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo được các cấp, ngành, địa phương quan tâm đầu tư; việc gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên các vùng biển, đảo được coi trọng. Năng lực, khả năng, sức mạnh của các lực lượng chức năng, nhất là lực lượng Hải quân không ngừng được củng cố, tăng cường, luôn phát huy tốt vai trò nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, được Đảng, Nhà nước, Nhân dân ghi nhận, tin tưởng và đánh giá cao.

Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực diễn biến ngày càng phức tạp, khó đoán định; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt; Biển Đông tiếp tục tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra xung đột; các thế lực thù địch triệt để lợi dụng tình hình trên biển để đẩy mạnh chống phá trên nhiều lĩnh vực. Cùng với đó, các thách thức an ninh phi truyền thống, phương thức tác chiến mới,… đặt ra yêu cầu cao hơn đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng. Vì vậy, để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, ngành, lực lượng, địa phương và cả nước, với nhiều giải pháp thiết thực, đồng bộ, hiệu quả; trong đó, tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt của Hải quân nhân dân Việt Nam giữ vai trò quan trọng hàng đầu; tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:

Trước hết, phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, ngành và nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Những năm qua, mặc dù các cấp, ngành, lực lượng và cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt, đẩy mạnh tuyên truyền về biển, đảo, nhưng nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc vẫn chưa thật đầy đủ; chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo; thậm chí còn vi phạm pháp luật trên biển, làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Vì vậy, thời gian tới, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng, nòng cốt là lực lượng Hải quân cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là nhân dân các tỉnh ven biển, lực lượng hoạt động trên biển và thế hệ trẻ thấy rõ hơn vị trí, vai trò và tầm quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; từ đó, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm trong quản lý, đấu tranh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Nội dung tuyên truyền, giáo dục phải sâu rộng, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào chứng cứ lịch sử, cơ sở pháp lý và thực tiễn khẳng định chủ quyền đối với vùng biển của Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, những động thái mới của các nước trên Biển Đông; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước ta về biển, đảo và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc1, v.v.

Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp; ngoài tuyên truyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức hội thảo, hội nghị chuyên đề, tọa đàm trao đổi, thi tìm hiểu, sinh hoạt của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội,... cũng cần phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền tại các diễn đàn quốc tế, nhằm quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Đồng thời, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, tổ chức quốc tế đối với Việt Nam trong đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo. Cùng với đó, lực lượng Hải quân cần thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư và lực lượng chức năng đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về biển, đảo cho ngư dân; giúp ngư dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xâm phạm, lấn chiếm chủ quyền biển, đảo; từ đó, nâng cao cảnh giác, tích cực, chủ động đấu tranh làm thất bại các hành động xâm lấn biển, đảo.


Hai là, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương và lực lượng chức năng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các cấp, ngành, lực lượng, cả hệ thống chính trị và toàn dân. Tuy nhiên, để phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Quân chủng Hải quân cần tiếp tục tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành phố, cơ quan Trung ương và cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước triển khai sâu rộng, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm các nội dung, chương trình đã ký kết về biển, đảo. Tập trung thực hiện có hiệu quả chương trình “Hải quân nhân dân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển” và các phong trào, cuộc vận động xây dựng quỹ “Vì Trường Sa thân yêu”, “Vì biển, đảo quê hương - Vì tuyến đầu Tổ quốc”, “Xanh hóa Trường Sa”, v.v. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương và các doanh nghiệp lựa chọn đại biểu, xây dựng kế hoạch, huy động các nguồn lực, bảo đảm cơ sở vật chất, hậu cần, kỹ thuật phục vụ các đoàn công tác thăm, động viên quân và dân trên quần đảo Trường Sa, nhà giàn DK1 đạt mục đích, ý nghĩa.

Cùng với đó, cần phối hợp chặt chẽ với lực lượng Kiểm ngư, Biên phòng, Cảnh sát biển,... xây dựng các phương án, kế hoạch, tăng cường tuần tra, kiểm soát trên các vùng biển, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả với các hành động xâm lấn, vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo theo đúng Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và luật pháp quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển.

Ba là, xây dựng lực lượng Hải quân nhân dân Việt nam “tinh, gọn, mạnh” tiến thẳng lên hiện đại, thực sự là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng đặt ra yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi Quân chủng Hải quân - lực lượng nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải được xây dựng “tinh, gọn, mạnh”, tiến thẳng lên hiện đại theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. Theo đó, Quân chủng Hải quân cần quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Quốc phòng về điều chỉnh tổ chức lực lượng; tập trung xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập cho các đối tượng, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, chỉ huy, tham mưu tác chiến bảo vệ chủ quyền biển, đảo,... bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về kỹ thuật, chiến thuật, có trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, nắm chắc về công nghệ thông tin, sử dụng thành thạo các loại vũ khí, trang bị hiện có và vũ khí, trang bị mới.

Trong điều kiện khoa học, công nghệ phát triển cao, Quân chủng Hải quân cần chủ động tham mưu để Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đề xuất với Đảng, Nhà nước đầu tư nghiên cứu, cải tiến, mua sắm vũ khí, trang bị thế hệ mới, có tính năng vượt trội; trong đó, chú trọng trang bị các loại tàu tên lửa loại nhỏ, tàu tuần tiễu đa năng, thủy lôi,… cho tác chiến trên các vùng biển gần bờ. Tập trung nghiên cứu, phát triển nghệ thuật tác chiến hải quân; ứng dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật số vào thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, tuần tra, kiểm tra, giám sát và tác chiến trên biển; điều chỉnh thế bố trí lực lượng phù hợp với biểu tổ chức biên chế và yêu cầu tác chiến biển, đảo trong tình hình mới; qua đó, hình thành thế trận quốc phòng toàn dân trên biển, sẵn sàng đánh bại địch xâm lược từ hướng biển.

Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng, tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài để bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, Quân chủng Hải quân cần đẩy mạnh hợp tác với hải quân các nước trên nhiều lĩnh vực; trong đó, tập trung vào thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ môi trường biển, hợp tác tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, khắc phục hậu quả thiên tai, bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải, v.v. Bên cạnh đó, tăng cường giao lưu, đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan trẻ, hợp tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ,... tạo cơ hội cho đội ngũ cán bộ, nhân viên được trao đổi kinh nghiệm, học hỏi kiến thức, kỹ thuật mới, tăng cường sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp của lực lượng Hải quân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Ngoài ra, tích cực tham gia vào các cơ chế hợp tác an ninh hàng hải quốc tế, nhất là cơ chế hợp tác trong khuôn khổ ASEAN; thực hiện tốt các cam kết quốc tế của Việt Nam trên lĩnh vực biển, đảo; qua đó, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam nói chung, Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế; đồng thời, tranh thủ nguồn lực bên ngoài, tạo sức mạnh tổng hợp, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Đại tá, PGS, TS. HỒ THANH HÒA, Phó Giám đốc Học viện Hải quân

 Nghệ thuật đánh điểm, diệt viện trong Chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập năm 1969

Chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập là chiến dịch tiến công quy mô nhỏ trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Mặc dù công tác bảo đảm khó khăn, nhưng nhờ vận dụng sáng tạo nghệ thuật “đánh điểm, diệt viện” độc đáo, Chiến dịch đã đạt hiệu suất chiến đấu cao, góp phần làm thất bại âm mưu của địch dùng chủ lực ngụy quân Sài Gòn thay thế cho quân Mỹ trên chiến trường.

Sau thất bại Xuân - Hè 1969, để đối phó với các hoạt động tác chiến của ta, trên địa bàn Tây Nguyên, địch tăng cường phòng ngự và bố trí lực lượng cơ động dọc theo Đường số 14, giáp biên giới Việt Nam - Campuchia, nhằm khống chế các vị trí trọng yếu, tuyến đường giao thông huyết mạch, ngăn chặn và phá thế chuẩn bị tiến công của ta. Thực hiện mưu đồ đó, ở khu vực Bu Prăng - Đức Lập, địch tập trung lực lượng1, phương tiện, nhằm biến nơi đây thành tiền duyên vững chắc, “vỏ bọc cứng” vành ngoài bảo vệ Buôn Ma Thuột từ xa; đồng thời, là căn cứ xuất phát hành quân của quân Mỹ, ngụy thực hiện các trận càn quét, đánh phá, hòng cắt đứt tuyến hành lang vận chuyển chiến lược của ta chi viện cho chiến trường miền Nam đi qua địa bàn Tây Nguyên.

Về phía ta, sau Chiến dịch Hè 1969, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (Mặt trận B3) tập trung củng cố, xây dựng lực lượng chủ lực cơ động nhằm chuẩn bị cho hoạt động tác chiến trên các địa bàn trọng yếu. Để đánh bại chiến lược “quét và giữ”, phá kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch, Bộ Tư lệnh Mặt trận B3 quyết định mở Chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập. Mặc dù điều kiện địa bàn Chiến dịch rộng, xa hậu phương, công tác bảo đảm khó khăn, lực lượng địch phòng ngự trong các cứ điểm tương đối vững chắc, được hỏa lực không quân, pháo binh chi viện mạnh, nhưng với quyết tâm chiến đấu cao, vận dụng phương pháp tác chiến chiến dịch phù hợp, ta đã giáng cho địch một đòn chí mạng. Ta đã tiêu diệt lớn lực lượng cơ động chiến lược, phá hủy phương tiện chiến tranh, cơ sở vật chất, phá vỡ thế trận phòng thủ từ xa của địch, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đập tan mưu đồ của Mỹ vực lại quân ngụy Sài Gòn trên chiến trường Tây Nguyên. Chiến dịch để lại nhiều bài học có giá trị về nghệ thuật tác chiến chiến dịch; trong đó, nghệ thuật “đánh điểm, diệt viện” là nét nổi bật.

Thứ nhất, lựa chọn mục tiêu đánh điểm chính xác. Để đánh điểm, diệt viện đạt hiệu quả cao, vấn đề chọn khu vực, mục tiêu khêu ngòi và vận dụng chiến thuật phù hợp với khả năng tác chiến, phát huy sở trường của ta là hết sức quan trọng. Với chủ trương “chú trọng vây, phá điểm để diệt viện, đánh địch ngoài công sự là chính”, Bộ Tư lệnh Chiến dịch xác định tổ chức vây điểm và tiến công vào các mục tiêu quan trọng trong hệ thống phòng thủ, buộc địch phải điều động lực lượng ứng cứu, giải tỏa để ta thực hiện các trận tiến công tiêu diệt địch ngoài công sự. Vì vậy, trong Đợt 01 của Chiến dịch, để bảo đảm chắc thắng cho trận mở đầu, ta chọn cứ điểm Ka Te làm mục tiêu “đánh điểm” để khêu ngòi. Đây là sự lựa chọn chính xác, thể hiện tư duy sáng tạo, khả năng nghiên cứu, đánh giá sát đúng tình hình mọi mặt của Bộ Tư lệnh Chiến dịch. Bởi vì, Ka Te là “mắt xích” quan trọng trong hệ thống phòng ngự liên hoàn của địch, là cửa ngõ phía Đông bảo vệ căn cứ quân sự Bu Prăng, án ngữ ngã ba Đường số 14 từ Gia Nghĩa đi Đức Lập và hướng đi về biên giới Campuchia. Đây là căn cứ hỗn hợp bộ binh, pháo binh, nằm trong khu vực Điểm cao 936, nhất là tại đây có trận địa pháo binh của quân Mỹ để yểm trợ hỏa lực cho các hoạt động của chúng trong khu vực tác chiến. Nếu mất Ka Te, địch sẽ mất chỗ dựa hỏa lực, ý định thực hiện các cuộc hành quân càn quét hoặc ngăn chặn ta tiến công từ xa gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, đây là cứ điểm địch phải giữ bằng mọi giá, nếu ta tiến công Ka Te, nhất định địch phải tổ chức lực lượng ứng cứu, giải tỏa ngay. Mặt khác, qua nghiên cứu, Ka Te là cứ điểm địch mới tổ chức phòng ngự, nên hệ thống công sự, trận địa chưa được xây dựng kiên cố, vững chắc, hệ thống vật cản bố trí có nhiều sơ hở, nếu ta bí mật, bất ngờ bao vây, tiến công, địch sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt, bảo đảm chắc thắng cho trận mở đầu. Nhờ xác định đúng mục tiêu đánh điểm, nên khi Trung đoàn 66 của ta vây ép, pháo binh tập kích hỏa lực phá hủy các mục tiêu bên trong cứ điểm Ka Te, địch hốt hoảng sử dụng 02 tiểu đoàn biệt kích đổ bộ đường không để ứng cứu, giải tỏa, nhanh chóng rơi vào thế trận đã chuẩn bị sẵn của ta, bị thiệt hại nặng nề. Tận dụng thế trận có lợi tạo ra, Trung đoàn 66 tiếp tục vây lấn, đưa bộ binh vào sát Điểm cao 936, sử dụng hỏa lực diệt tăng tiêu diệt các hỏa điểm của địch, kết hợp với pháo cao xạ khống chế máy bay, triệt đường tiếp tế bằng hàng không, triệt nguồn nước. Vì vậy, quân địch trong điểm cao trở nên hoảng loạn, nhanh chóng tan rã, ta làm chủ hoàn toàn cứ điểm, trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao.

Hai là, tổ chức, sử dụng lực lượng hợp lý, tạo sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi. Trước sức mạnh vượt trội về binh lực, hỏa lực và khả năng cơ động bằng cả đường không và đường bộ của địch, để bảo đảm chắc thắng từng trận đánh, cắt đứt từng mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng ngự của địch, ta đã tổ chức, sử dụng lực lượng phù hợp cho từng trận đánh, đợt chiến dịch, phát huy khả năng sở trường của các đơn vị, tạo sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.

Trước khi Chiến dịch diễn ra, để tạo lập thế trận đánh địch rộng khắp, ta sử dụng lực lượng chủ lực đứng chân trên địa bàn và bộ đội địa phương tiến công thị xã Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột và Phú Bổn; tổ chức phục kích đoàn xe vận tải của Sư đoàn 25 quân ngụy Sài Gòn lên ứng cứu cho Đức Lập; trụ bám vận động quần chúng tiến công thị xã Gia Nghĩa, phá ấp chiến lược dọc Đường số 14,... để nghi binh, lừa dụ, thu hút sự chú ý của địch, tạo bí mật, bất ngờ cho hướng tiến công chủ yếu. Nhờ vậy, ta đã phá vỡ thế trận, căng kéo, phân tán sự đối phó của chúng, tạo điều kiện cho lực lượng trên hướng chủ yếu tập trung tiến công tiêu diệt địch.

Qua trinh sát, nghiên cứu đánh giá về địch, ta xác định lực lượng địch ở căn cứ Ka Te chỉ bố trí 01 trận địa pháo binh và 03 đại đội bộ binh, đây là mắt xích quan trọng trên Đường 14 từ Đức Lập đi Gia Nghĩa nhưng lực lượng ít, mới chuyển vào phòng ngự nên hệ thống công sự, trận địa chưa kiên cố. Vì vậy, Bộ Tư lệnh Chiến dịch chỉ sử dụng một bộ phận bộ binh của Trung đoàn 66 tiến hành vây ép kết hợp sử dụng pháo binh tập kích hỏa lực, phá hủy sở chỉ huy, công sự trận địa, kho đạn, phương tiện chiến đấu, khống chế máy bay, cắt đứt đường tiếp tế của địch, tạo áp lực “đủ lớn” để “khêu ngòi” buộc địch phải ứng cứu, giải tỏa. Lực lượng chủ yếu của Trung đoàn 66 lợi dụng địa hình có lợi, tạo lập thế trận vững chắc ở xung quanh cứ điểm Ka Te, thực hiện tiêu diệt địch ngoài công sự là chủ yếu. Vì thế, khi 02 tiểu đoàn biệt kích của địch ứng cứu giải tỏa bằng đổ bộ đường không đã nhanh chóng bị Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 66) tiến công, tiêu diệt; lực lượng địch bên trong cứ điểm ngày càng bị vây chặt, rơi vào tình cảnh “tiến thoái lưỡng nan”, hoang mang cực độ, hoảng loạn rút chạy, bị ta truy kích tiêu diệt.

Cùng với sử dụng lực lượng đánh trận khêu ngòi hợp lý, ta còn tập trung ưu thế lực lượng, phương tiện, tạo sức mạnh vượt trội, hơn hẳn địch cho trận then chốt quyết định. Theo đó, trong Đợt 03 của Chiến dịch, ta tập trung lực lượng lớn trên hướng tiến công chủ yếu, bao gồm: Trung đoàn 66, Tiểu đoàn đặc công 37, Đại đội đặc công 60, pháo binh,… liên tục tiến công, tập kích hỏa lực phá hủy căn cứ Bu Prăng, đánh thiệt hại nặng Chiến đoàn 53 của địch, thực hiện thắng lợi trận then chốt quyết định, kết thúc thắng lợi Chiến dịch.

Ba là, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu. Trong Chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập, ta luôn nắm chắc tình hình, vận dụng sáng tạo các hình thức chiến thuật, kết hợp chặt chẽ các thủ đoạn chiến đấu, phù hợp với từng đối tượng địch và điều kiện địa hình, phát huy cách đánh sở trường của từng lực lượng, chuyển hóa thế trận linh hoạt để giành thắng lợi.

Đối với các trận đánh khêu ngòi, trong Đợt 01 ta sử dụng lực lượng đặc công tập kích tiêu diệt gọn tiền đồn bảo an ở Bắc Đức Lập, sử dụng pháo binh tập kích hỏa lực, dội những đòn hỏa lực bão táp xuống Điểm cao 936, gây cho địch những thiệt hại nặng nề. Tận dụng kết quả có lợi, bộ binh tiến công địch trong công sự, khép chặt vòng vây cứ điểm Ka Te chứ không đánh tiêu diệt ngay, buộc địch phải sử dụng 02 tiểu đoàn biệt kích ứng cứu, giải tỏa. Khi địch tăng viện, ứng cứu, giải tỏa, dựa vào thế trận đã chuẩn bị sẵn và địa hình có lợi, ta liên tục tập kích vào đội hình đổ bộ đường không còn đứng chân chưa vững, bí mật phục kích địch cơ động ứng cứu giải tỏa cho lực lượng đang bị ta bao vây. Thực tiễn Chiến dịch cho thấy, khi ta vây ép mạnh Đức Lập, địch vội vã đưa Tiểu đoàn 22 biệt động quân xuống Bắc Đắk Song và tung Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 53 cơ động theo Đường số 14 ứng cứu, giải tỏa. Khi đã “điều dụ địch” hành động theo ý định của ta, với thế trận “giăng sẵn”, Trung đoàn 66 và Trung đoàn 28 của ta liên tục tập kích và phục kích, cả phía trước và phía sau đội hình cơ động của địch, gây thiệt hại lớn, ý đồ cứu viện cho Đức Lập của chúng bị phá sản hoàn toàn.

Để đạt hiệu suất chiến đấu cao, ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo các thủ đoạn chiến đấu theo từng trận đánh, tình huống cụ thể. Trong trận đánh cứ điểm Ka Te, ta đã kết hợp bao vây với tập kích hỏa lực, đột phá, thọc sâu. Do đó, chỉ trong thời gian ngắn liên tục vây ép, tiến công, ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên, bắn rơi 14 máy bay, phá hủy nhiều phương tiện chiến đấu của địch. Trong các trận đánh địch ứng cứu giải tỏa, ta đã vận dụng chiến thuật chốt chặn, bao vây, đột phá, thọc sâu để tiêu diệt địch. Trong Đợt 03 của Chiến dịch, sau khi Chiến đoàn 220 bị ta đánh thiệt hại nặng, không thực hiện được ý định giải tỏa cho Bu Prăng, địch đưa Chiến đoàn 53 lên thay thế nhưng bị ta ngăn chặn, tập kích, phục kích đánh thiệt hại nặng. Khi địch co về cố thủ ở căn cứ Bu Prăng, ta đã tổ chức tiến công dồn dập bằng hỏa lực, vây chặt quân địch trong cứ điểm, sử dụng đặc công thọc sâu tập kích Sở Chỉ huy Chiến đoàn 53, kết hợp các trận tiến công, liên tục đột phá của bộ binh, ta đã “đập tan” căn cứ Bu Prăng, đây là trận then chốt quyết định, kết thúc thắng lợi Chiến dịch.

Thắng lợi của chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập đã phá vỡ hệ thống phòng ngự của địch trên tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia, lập thế, tạo lực có lợi, mở ra khả năng có thể sử dụng lực lượng lớn hơn để giải phóng địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ Chiến dịch, đặc biệt là nghệ thuật “đánh điểm, diệt viện” cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá, TS. NGUYỄN ĐỨC SAO, Trường Sĩ quan Lục quân 1

Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp tân Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam

                Chiều 1-10, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tiếp Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam Hà Vĩ nhân dịp bắt đầu nhiệm kỳ công tác.

Đề nghị Đại sứ Hà Vĩ chuyển lời thăm hỏi và lời chúc mừng tốt đẹp của Lãnh đạo cấp cao Việt Nam tới Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc nhân dịp kỷ niệm 75 năm Quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1-10-1949 / 1-10-2024), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Việt Nam nhất quán coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu trong tổng thể chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Thủ tướng cảm ơn phía Trung Quốc đã có các hình thức thăm hỏi, hỗ trợ Việt Nam ứng phó và khắc phục hậu quả nghiêm trọng do bão số 3 và mưa lụt gây ra; đặc biệt đánh giá cao Trung Quốc đã phối hợp chia sẻ thông tin thủy văn, điều tiết việc xả nước các đập thủy điện để hạn chế thấp nhất thiệt hại do lũ lụt gây ra.

Hoan nghênh và chúc mừng đồng chí Hà Vĩ được bổ nhiệm làm Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam trong thời điểm quan hệ hai Đảng, hai nước bước vào giai đoạn phát triển mới, Thủ tướng khẳng định, Chính phủ và các bộ ngành, địa phương Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Đại sứ Hà Vĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng trách của mình; tin tưởng trong nhiệm kỳ công tác, Đại sứ sẽ phát huy tốt vai trò cầu nối giúp hai bên củng cố tin cậy, thúc đẩy hợp tác, mở rộng giao lưu, đóng góp tích cực vào việc tăng cường hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, thúc đẩy xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc.

Thủ tướng Phạm Minh Chính mong muốn Đại sứ Hà Vĩ thúc đẩy các bộ ngành, địa phương Trung Quốc tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Việt Nam triển khai toàn diện, hiệu quả các thỏa thuận và nhận thức chung cấp cao, trọng tâm là duy trì thường xuyên các chuyến thăm, tiếp xúc cấp cao và các cấp; làm sâu sắc hợp tác thực chất trên các lĩnh vực kinh tế - thương mại, đầu tư, kết nối hạ tầng giao thông, văn hóa, giáo dục, du lịch, ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, bảo đảm an ninh nguồn nước; thúc đẩy xây dựng cửa khẩu thông minh...

Thủ tướng đề nghị phía Trung Quốc quan tâm thúc đẩy việc hợp tác xây dựng các tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn kết nối hai nước, tiếp tục mở cửa thị trường cho nông sản của Việt Nam, sớm triển khai các dự án đầu tư quy mô lớn, tiêu biểu cho trình độ phát triển của Trung Quốc tại Việt Nam; phối hợp tổ chức tốt Năm Giao lưu nhân văn Việt - Trung 2025 nhân kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước.

Thủ tướng đề nghị hai bên thực hiện nghiêm nhận thức chung cấp cao về việc kiểm soát và giải quyết tốt hơn bất đồng trên biển, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau, xử lý thỏa đáng bất đồng trên cơ sở phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS) năm 1982.

Trân trọng cảm ơn Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã dành thời gian tiếp Đại sứ đúng vào ngày kỷ niệm 75 năm Quốc khánh Trung Quốc và đưa ra những ý kiến quan trọng về phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm thúc đẩy quan hệ song phương Việt Nam - Trung Quốc thời gian tới, Đại sứ Trung Quốc Hà Vĩ bày tỏ vinh dự đảm nhận trọng trách tại Việt Nam, sẵn sàng nỗ lực hết sức mình để thúc đẩy quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, Cộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc - Việt Nam có ý nghĩa chiến lược, không ngừng phát triển đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả; mong muốn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng như sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành phía Việt Nam trong thời gian tới.

Đại sứ Hà Vĩ khẳng định sẽ nỗ lực phát huy vai trò điều phối, thúc đẩy các bộ ngành, địa phương Trung Quốc phối hợp với phía Việt Nam triển khai cụ thể hóa, quán triệt toàn diện nhận thức chung cấp cao và các thỏa thuận hai bên đã ký kết; tiếp tục tăng cường giao lưu tiếp xúc cấp cao thường xuyên nhằm củng cố tin cậy chính trị; thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh; làm sâu sắc và nâng cao hiệu quả hợp tác thực chất về kinh tế - thương mại, đầu tư, giao thông vận tải, duy trì chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất; hợp tác du lịch, y tế, giáo dục; mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực mới nổi như chuyển đổi số, tăng trưởng xanh... đẩy mạnh hợp tác văn hóa, giao lưu hữu nghị nhân dân để củng cố nền tảng xã hội cho quan hệ hai nước; duy trì phối hợp chặt chẽ tại các cơ chế đa phương, diễn đàn quốc tế; cùng kiểm soát và giải quyết tốt hơn bất đồng trên biển trên cơ sở các thỏa thuận và nhận thức chung cấp cao, vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định của khu vực.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm bắt đầu thăm cấp Nhà nước tới Ireland.

 

Sau khi kết thúc tốt đẹp chuyến thăm cấp Nhà nước tại Mông Cổ, chiều tối 1-10, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã rời sân bay Thành Cát Tư Hãn, thủ đô Ulan Bator đi thăm cấp Nhà nước tới Ireland từ ngày 1 đến 3-10-2024, theo lời mời của Tổng thống Ireland Michael D. Higgins.

Tham gia Đoàn có các đồng chí: Bùi Thị Minh Hoài, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội; Nguyễn Duy Ngọc, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương; Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Mai Văn Chính, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương; Lê Khánh Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; Nguyễn Thúy Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội; Phạm Thị Thanh Trà, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Lê Minh Hoan, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Nguyễn Văn Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải; Đào Hồng Lan, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế; Nguyễn Hải Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Phạm Hoài Nam, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Tô Ân Xô, Trợ lý của Tổng Bí thư; Phụ trách Văn phòng Tổng Bí thư; Đỗ Minh Hùng, Đại sứ Việt Nam tại Ireland.

Đúng 20 giờ 30 phút, ngày 1-10, giờ địa phương (tức 2 giờ 30 phút, ngày 2-10, giờ Hà Nội), chuyên cơ chở Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã hạ cánh xuống sân bay Dublin, thủ đô Dublin bắt đầu chuyến thăm cấp Nhà nước Ireland.

Đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tại sân bay Dublin có: Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Thực phẩm và Hải Dương Pippa Hackett; Cục trưởng Cục Lễ tân Bộ Ngoại giao Eamonn McKee; Thị trưởng vùng Fingal, Dublin Brian McDonagh; Đại sứ Ireland tại Việt Nam Deirdre Ní Fhallúin; Đại sứ Việt Nam tại Ireland Đỗ Minh Hùng và Phu nhân; cùng một số cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Ireland.

Đây là chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên kể từ khi hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1996. Ireland là một dân tộc có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về lịch sử và truyền thống yêu nước, ý chí vươn lên, nền văn hóa đa dạng, độc đáo. Hai bên có nhiều dư địa, tiềm năng để tăng cường hợp tác, cùng phát triển. Lãnh đạo cấp cao hai bên sẽ trao đổi các biện pháp thúc đẩy hợp tác sâu rộng trên nhiều lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu và Ireland có thế mạnh như đầu tư chất lượng cao, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, giáo dục-đào tạo nhất là giáo dục đại học