Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022

ĐỊA ĐẠO CỦ CHI: CƠN ÁC MỘNG CỦA NGƯỜI MỸ SÁT SƯỜN SÀI GÒN.

 

Vùng đất Củ Chi ở ngoại vi Sài Gòn được mệnh danh là đất thép thành đồng vì đã đứng vững qua cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt chống Mỹ, vượt qua vô vàn các trận bom B-52 và các cuộc càn quét của kẻ thù. Dù mưa bom bão đạn, Củ Chi vẫn là căn cứ thành đồng ngay sát thành phố Sài Gòn.
Sự kiên cường và sức chiến đấu mãnh liệt của quân và dân Củ Chỉ được duy trì bởi một hệ thống địa đạo – đường hầm nhiều tầng nhiều lớp kéo dài đến 200 km, được quân và dân Củ Chi kiến tạo liên tục trong rất nhiều năm, với vô số các cửa hầm bí mật lên mặt đất, các lỗ châu mai – hỏa lực bí mật, các hầm trú ẩn, các công xưởng ngầm dưới mặt đất, kho tàng và doanh trại trú quân, phía trên được bố trí dày đặc mìn và các hầm chông, cạm bẫy.
Mô tả về địa đạo Củ Chi rất đơn giản: đây là hệ thống công sự ngầm bí mật ở dưới đất, các hệ thống công sự này được ngụy trang rất sâu và rất kỹ lưỡng trong rừng rậm nhiệt đới. Mục đích của hệ thống địa đạo Củ Chi – giáng những đòn tấn công bất ngờ vào quân địch trong giai đoạn những năm tham chiến của quân đội Mỹ ở Việt nam.
Hệ thống địa đạo – công sự chiến đấu được nghiên cứu và suy tính rất kỹ lưỡng với tính toán có thể tấn công tiêu diệt đối phương từ mọi phía. Mạng lưới phức tạp của những đường hầm zic zac lan tỏa về mọi hướng từ trục địa đạo chính và lan tỏa thành vô số các nhánh, có những nhánh là các hầm bí mật trú ẩn, cũng có những nhánh đột ngột thành ngõ cụt do điều kiện đặc biệt của địa hình.
Nhưng du kích quân thông minh và khéo léo Việt nam, để tiết kiệm sức lực và thời gian, đã đào những đường hầm không sâu lắm, nhưng tính toán thiết kế sao cho, dù trong những trường hợp xe tăng và xe bọc thép di chuyển trên nóc hầm, phía trên bị nã pháo và ném bom- các đường hầm cũng không bị sụt, lún, sập và vẫn bển bỉ phục vụ những người đã xây dựng lên.
Cho đến ngày nay, hệ thống đường hầm – địa đạo nhiều tầng, nhiều lớp phức tạp vẫn còn giữ nguyên được như trong thời chiến tranh, với những nắp hầm và cửa hầm bí mật, liên thông các lối đi ngầm giữa các tầng hầm.
Trong hệ thống đường hầm, ở những chỗ khác nhau có những cửa nút kín đặc biệt, được sử dụng để ngăn chặn địch hoặc ngăn chặn khí gas độc. Trên suốt chiều dài của tất cả các đường hầm đều có khoét những lỗ thông hơi và thông gió bí mật, thông lên trên mặt đất và được ngụy trang rất kín đáo. Một phần những cửa thông gió bí mật đều có thể sử dụng như một hỏa điểm bí mật, và đó luôn là một trong những bất ngờ lớn dành cho kẻ thù.
Đối với các du kích thông minh thì điều đó vẫn chưa đủ, đường hầm và những con đường dẫn đến được bố trí vô số những cạm bẫy chết người thông minh và khéo léo kết hợp với những hầm chông và các hố bẫy nguy hiểm khác.
Đường vào hầm và ra khỏi hầm, để đảm bảo bí mật và an toàn cao, bố trí các trận địa mìn chống tăng và chống bộ binh đan xen dày đặc lẫn nhau.
Trong giai đoạn chiến tranh, có những lúc trong hệ thống đường hầm chứa được cả 1 đạo quân hoặc dân cư của cả một làng, điều đó giúp cho người Việt Nam bảo vệ được nhiều sinh mạng.
Trong đường hầm có các kho dự trữ vũ khí trang bị, đạn và chất nổ các loại, lương thực thực phẩm và cơ sở vật chất ý tế chiến trường, có các bếp ăn không có khói (bếp Hoàng Cầm), bệnh viện dã chiến dành cho người bị thương, các căn hầm – phòng ngủ, các ban chỉ huy dã chiến, hầm trú ẩn và sinh hoạt dành cho phụ nữ, trẻ em và người già. Nói chính xác hơn, đây không phải là làng mà là cả một thành phố trong lòng đất.
Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh, người Việt Nam cũng không quên văn hóa và giáo dục: trong các căn hầm được bố trí các phòng học, đồng thời nơi đó cũng có thể dùng để chiếu phim cách mạng và biểu diễn văn nghệ của các đoàn văn công chiến trường. Nhưng đặc biệt hơn, cả thế giới đó ẩn sâu bí mật trong lòng đất.
Dùng cả đến máy bay ném bom B-52 và pháo binh hạng nặng, người Mỹ đã chà xát vùng Củ Chi nhiều năm trời, nhưng vô số các cuộc ném bom và các đợt pháo kích liên tục không đem lại kết quả mong muốn, Củ Chi vẫn là vùng đất chết cho lính thủy đánh bộ Mỹ và các thiết đoàn Sài Gòn, người Mỹ buộc phải tự mình chui xuống những địa đạo tối tăm đó.
Không giống như những bộ phim của Holywood, (những con chuột đường hầm – Tunnel rats) được lựa chọn từ những binh sĩ không cao to, người gầy và liều lĩnh, sẵn sàng với một khẩu súng ngắn chui vào bóng đêm của cái chết, trong đường hầm đó, chờ đợi lính Mỹ là sự chật chội đến nghẹt thở, bóng tối mù mịt, mìn, cạm bẫy, rắn độc, bò cạp, và sau đó nữa là những người du kích thiện chiến.
Hệ thống địa đạo 3 tầng được đào vào trong nền đất sét cứng bằng những dụng cụ nông nghiệp thô sơ của rất nhiều các tổ nhóm người của nhiều thế hệ người dân Việt Nam, mỗi tổ đào hầm có từ 3 đến 4 người. một người đào, một người kéo đất từ trong hầm ra một cái giếng sâu thẳng đứng, một người kéo thúng đất đào được lên phía trên, một người khiêng vác đi đâu đó, đổ dấu bí mật dưới những lùm cây rậm rạp hoặc đổ rải xuống sông.
Khi các tổ đào đã thông được địa đạo với nhau, giếng đào được đặt một cây tre thông suốt làm ống thông hơi và được lấp đi, lèn chặt và ống thông hơi được ngụy trang dưới dạng tổ mối hoặc gốc cây mục hay bất cứ hình dạng nào khác….
Người Mỹ quyết định sử dụng chó săn để tìm kiếm những lỗ thông hơi và đường ra vào địa đạo. Các chiến sĩ du kích Củ Chi sử dụng quần áo lính Mỹ, thông thường là áo khoác M65 (người Việt hay gọi là áo Mỹ) lính mỹ thường vất đi khi bị thương hoặc băng bó vết thương.
Chó săn ngửi thấy mùi quen thuộc của Mỹ bỏ qua. Sau này du kích sử dụng hạt tiêu xay nhỏ vô hiệu hóa khứu giác của chó săn hoặc các bánh xà phòng của Mỹ, có tác dụng lâu hơn để đánh lừa chó săn của địch.
Nhiều trường hợp các cửa hầm bí mật cũng được tìm thấy, lính Mỹ cố gắng bơm nước hoặc khí gaz CS (làm cay, chảy nước mắt) vào đường hầm. Nhưng hệ thống nhiều tầng, nhiều ngách của địa đạo với vô số cánh cửa khép kín và các đường hầm ngập nước đã vô hiệu hóa mọi nỗ lực của quân đội Mỹ, du kích Việt nam chỉ đơn giản mất đi một khúc đường hầm, đánh sập tường của đường hầm bịt kín luôn cả hai đầu và quên luôn đoạn hầm đó, họ đào một đường hầm khác đi vòng qua và mọi nỗ lực của lính Mỹ không đem lại kết quả gì được coi là có.
Địa đạo Củ Chi trong suốt những năm chiến tranh không chỉ là công sự, là hầm chủ ẩn mà còn đóng vai công binh xưởng, cung cấp vũ khí, trang thiết bị chiến tranh thô sơ và thô sơ kết hợp với hiện đại nhằm tiêu diệt quân thù.
Đối với du kích, sắt thép và thuốc nổ là những vật chất vô cùng quý giá, và người Mỹ cung cấp đều đặn thông qua các đợt đánh phá mưa bom bão đạn (chỉ cần có dấu hiệu nghi ngờ – ánh sáng, làn khói, tiếng động..) ngay tức khắc các thảm bom B-52 sẽ quét sạch cây cối trong khu vực, biến một vùng rộng lớn thành bề mặt của mặt trăng.
Nhưng chiến sĩ du kích dũng cảm thu nhặt những quả bom lớn nhỏ – từ bom phá, bom xuyên đến bom bi, đạn pháo của địch, một số loại bom lớn được tháo kíp, cưa ra để lấy thuốc nổ, các loại nhỏ hơn dễ mang vác như đạn pháo 105, bom bi, đạn 20 ly được sử dụng làm các loại mìn tự tạo. Sắt thép được sử dụng để rèn lên các mũi chông và đinh nhọn phục vụ cạm bẫy và các vật dụng chiến trường khác.
Ngoài các công binh xưởng, trong địa đạo có đầy đủ nhà ăn tập thể, bếp tập thể Hoàng Cầm, xưởng may mặc đồ quân dụng và dân sự. Rừng rậm Việt Nam và đất thép Củ chi mang trong mình nó rất nhiều những bất ngờ nguy hiểm đối với kẻ thù, nó có thể là những quả mìn tự chế, đủ sức xuyên thủng cả xe tăng M41, hoặc cũng có thể là những chiếc bẫy thô sơ tự chế, được Holywood sử dụng trong những bộ phim chiến tranh nổi tiếng của mình. Thực tế của những vũ khí đó đang còn được trưng bày ở Viện bảo tàng Củ Chi.
ST
Có thể là tranh biếm họa về 1 người
1

HÀNH TRÌNH NGƯỜI LÍNH HY LẠP TRỞ THÀNH CHIẾN SĨ VIỆT NAM

 

Kostas Sarantidis sinh ra tại Hy Lạp, song dành phần lớn tuổi xuân chiến đấu chống thực dân Pháp tại Việt Nam với cái tên Nguyễn Văn Lập.
"Tên tôi là Kostas Sarantidis. Tôi sinh năm 1927 tại Salonika. Tôi lớn lên ở Toumba, trong khu lán gỗ", người chiến sĩ Việt Nam gốc Hy Lạp giới thiệu bản thân trong phim tài liệu Viet - Kostas của đạo diễn Giannis Tritsibidas năm 2014.
"Cha tôi là một người nhập cư gốc Tiểu Á, một công nhân điển hình và làm việc trong các cửa hàng máy móc. Cha mẹ tôi có 7 người con, đó là một gia đình lớn. Tôi chẳng nhớ bất cứ điều gì thú vị về thời thơ ấu của mình, đó là những năm tháng khó khăn và thiếu thốn đủ bề".
Năm 1940, khi Sarantidis 13 tuổi, phát xít Đức chiếm đóng Hy Lạp. Ông buộc phải thôi học bởi quân Đức trưng dụng tòa nhà trong khuôn viên trường ông. Cha của Sarantidis không thể kiếm đủ tiền nuôi gia đình, ông cùng các anh chị em ra đường bán những món hàng lặt vặt.
"Ngày nọ, chúng tôi mua thuốc lá từ nông dân để đổi lấy giấy cuốn từ người Đức tại chợ đen ở Vardaris, Salonica. Giấy cuốn khi đó là một mặt hàng hiếm", Sarantidis kể lại. "Chúng tôi gặp một chốt kiểm soát của quân Đức và bị bắt. Họ đưa chúng tôi tới Pavlou Mela, ở đó có tòa nhà là điểm trung chuyển của các tiểu đoàn công binh Đức".
"Rồi tới lúc họ lên đường tới Đức. Tôi sẽ không bao giờ quên, đó là ngày 22/9/1943", Sarantidis nói và cho biết phải đi bộ qua lãnh thổ Nam Tư để tới Đức. "Lính Đức đi xe đạp thay phiên giám sát chúng tôi từ điểm trung chuyển này tới điểm trung chuyển khác. Tôi là người trẻ nhất trong số 200-300 người sẽ phải làm việc ở Đức.
Sarantidis gặp một người Nam Tư đồng cảnh ngộ tại một doanh trại của lính Đức ở thành phố Zagreb, nay thuộc Croatia. Với bộ quân phục Đức, Sarantidis lợi dụng lỗ hổng trong quản lý hậu cần của quân đội phát xít và sống trên những chuyến tàu qua lại biên giới các nước trong khu vực.
Khi Thế chiến II kết thúc, Sarantidis tới Italy và bị lính Mỹ bắt tại biên giới, rồi bị chuyển qua các trại tù binh ở Trieste, Naples, Rome và cuối cùng là Cinecitta. "Chúng tôi tìm đến đại sứ quán Hy Lạp, song họ không thể giúp chúng tôi hồi hương. Chúng tôi dần trở nên tuyệt vọng".
Một người đồng hương Hy Lạp thuộc Binh đoàn Lê dương của Pháp đã đề nghị Sarantidis gia nhập và chiến đấu trong lực lượng này trong 5 năm.
"Chúng tôi tới đại sứ quán Pháp, ký giấy tờ mà không bị chất vấn hay yêu cầu giải thích. Một chiếc xe tải vài hôm sau đưa chúng tôi đến căn cứ của Pháp tại Naples, Italy. Ba ngày sau, chúng tôi lên một con tàu tới Algeria. Tàu cập cảng ngày 15/8/1945", Sarantidis kể lại.
Tiểu đoàn Lê dương của Sarantidis đóng quân tại thành phố Sidi Bel Abbes, nay là thủ đô của Algeria. Sarantidis cùng ba đồng hương Hy Lạp khác trải qua các đợt huấn luyện quân sự và diễn tập trên sa mạc.
"Binh đoàn Lê dương khi đó có 80% binh sĩ là người Đức", Sarantidis nói về cách Pháp xử lý tù binh Đức sau Thế chiến II. "Đưa họ vào Binh đoàn Lê dương là hợp lý nhất. Trung đội tôi có 33 binh sĩ thì 29 trong số này là người Đức".
Tới một ngày, những chiếc xe tải tới doanh trại Binh đoàn Lê dương nơi Sarantidis đóng quân và trút xuống những bao tải lớn chứa quân phục và khí tài Anh để các binh sĩ "tới nơi mà không thể hiện diện với tư cách lực lượng Pháp". Các binh sĩ sau đó lên tàu rời Algeria, dừng lại ở các trạm trung chuyển ở Ai Cập, Ấn Độ rồi tới thành phố Sài Gòn, vào thời điểm Việt Nam vừa giành được độc lập, còn thực dân Pháp nhăm nhe quay trở lại đánh chiếm thuộc địa cũ này.
"Chúng tôi không tham gia vào nhiều trận đánh ở miền Nam. Các binh sĩ được lệnh đi càn và đốt phá để chứng tỏ bản thân mình cứng rắn", Sarantidis nói và kể lại rằng các sĩ quan chủ yếu dàn dựng cảnh các đơn vị Lê dương bắn vào nhau, sau đó báo cáo rằng "đã hạ sát một số thành viên Việt Minh, thu được một số vũ khí".
"Các sĩ quan bày trò đó để giành huy chương hay thăng chức. Rất nhiều trò bịa đặt như vậy", Sarantidis cho biết. "Tôi muốn bỏ hàng ngũ vì không thể chịu đựng thêm nữa khi ngày cuối cùng tại đơn vị, tôi tận mắt chứng kiến cả trung đội hãm hiếp một thiếu nữ 14-15 tuổi".
Sĩ quan chỉ huy đơn vị của Sarantidis, trung úy Christiani, tới Sài Gòn và quay lại sau đó 3-4 ngày và "mang theo một cô gái xinh đẹp". Sarantidis vào một ngày nhận được mẩu giấy viết rằng "cô ấy ở một mình vào buổi tối" khi trung úy Christiani có cuộc gặp tại thị trấn.
"Tôi quyết định tới phòng sĩ quan và phát hiện ra cô ấy đang tìm kiếm thứ gì đó giữa đống tài liệu. Cô ấy nói rằng nếu muốn thì hãy khám người cô ấy. Tôi không dám làm", Sarantidis nói. "Tôi nói rằng 'Hãy để đống tài liệu đấy ở nguyên đó. Đừng mạo hiểm, trung úy có thể quay lại và nhìn thấy cô lục lọi đống giấy tờ'".
Sarantidis sau đó biết rằng cô gái là một thành viên Việt Minh có biệt danh Lily. Sarantidis nói rằng muốn trốn khỏi đơn vị Lê dương và cùng Merinos, một thành viên người Tây Ban Nha trong đơn vị lính Lê dương, lên kế hoạch đào tẩu. "Tôi đã biết mình muốn gì, tôi đã hiểu Việt Minh là gì và gồm những ai", Sarantidis nói và cho biết "sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro" để theo Việt Minh.
Trong một lần đi tuần, đơn vị của Sarantidis bắt một người bị tình nghi là Việt Minh. Sarantidis nói với người này rằng "tôi muốn đến với Việt Minh, anh giúp tôi được chứ?". "Tôi muốn trốn lên núi, gia nhập lực lượng du kích. Tôi muốn làm điều đó. Tôi không thể sát hại người Việt Nam", Sarantidis giải thích.
"Các bạn chiến đấu cho Tổ quốc của mình như tổ tiên chúng tôi chiến đấu vì quê hương, như dân nước tôi chiến đấu chống quân Đức. Tôi muốn làm điều đó", Sarantidis kể lại.
Sarantidis, Merinos và các tù binh Việt Nam mở cửa, lấy một khẩu trung liên Bren, hai hộp lựu đạn và một thùng đạn. Từng người một băng qua bãi mìn, nơi Sarantidis biết rất rõ vì ông là người cài mìn và đã cố tình để lại một khoảng trống gần nhà vệ sinh, nơi sĩ quan không tới kiểm tra vì "sợ mùi hôi". 25 người trốn cùng nhóm Sarantidis đi về làng của mình, còn họ tới bìa rừng.
Sarantidis và Merinos đợi trong hai đêm để người du kích Việt Nam vào rừng liên lạc với đơn vị, rồi 6 người quay ra gặp họ. "Họ lấy số vũ khí chúng tôi mang theo, rồi dẫn chúng tôi tới một bãi đất trống nơi họ đóng quân", Sarantidis cho biết.
"Họ giết thịt một con bê, quá nhiều để đền đáp chúng tôi và số súng đạn mang theo. Nước mắt họ như chực trào ra, họ nói rằng 'chúng tôi rất muốn sở hữu một khẩu súng như vậy, giờ chúng tôi đã có một khẩu cùng rất nhiều đạn nữa'".
Sarantidis kể rằng lực lượng Việt Minh chỉ sở hữu ba khẩu súng hỏa mai của Pháp với độ dài khác nhau, các sĩ quan đeo súng ngắn, một số chiến sĩ mang theo dao, kiếm hoặc dùng súng ngắn rất cũ. "Chúng tôi gia nhập lực lượng du kích Việt Nam", Sarantidis nói. "Trong một buổi lễ đơn giản, họ đặt cho tôi cái tên Nguyễn Văn Lập, và người bạn Merinos của tôi được đặt tên Nguyễn Văn Vĩ".
Chiến sĩ Nguyễn Văn Lập cho biết giai đoạn những năm 1946-1948, ba năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, hết sức khắc nghiệt. "Chúng tôi được cấp khẩu phần ăn 800 g mỗi ngày. Nếu mua được rau thì tốt, còn không chúng tôi cố gắng tìm thứ mang tên rau tàu bay. Đó là nguồn cung lương thực duy nhất cho toàn quân".
"Đêm trước chiến dịch, anh nuôi nấu cơm và nặn thành những vắt cơm như cách người châu Âu chúng tôi nhào bột mì", ông Nguyễn Văn Lập nói. "Trước trận đánh, tôi ăn hết khẩu phần với suy nghĩ rằng nếu lính Pháp giết và mổ bụng tôi, chúng sẽ thấy rằng tôi được ăn no và không thể cười nhạo rằng 'thằng khốn này chết vì đói'".
Nguyễn Văn Lập nói rằng không có sự khác biệt giữa chiến sĩ với sĩ quan trong lực lượng Việt Minh. "Họ cư xử với nhau như anh em", ông cho biết. "Khẩu hiệu của họ, tương đồng với người Hy Lạp chúng tôi, 'Tự do hay là chết'".
Ông Lập sau đó được cử đi học và gặp một sĩ quan gốc Đức của Quân đội Nhân dân Việt Nam. "Anh ấy ủng hộ tôi thi vào trường sĩ quan. Tôi theo học một thời gian rồi quay lại với các đồng đội ở Đà Nẵng", ông nói. "Tôi chiến đấu ở Đà Nẵng trong suốt 9 năm, được phong quân hàm trung úy".
Trong một trận đánh ở gần ga Phú Cang, tỉnh Quảng Nam, xạ thủ trung liên Nguyễn Văn Lập bắn hạ một máy bay Morane-Saulnier và bắt ba phi công Pháp. Ông cùng đồng đội tham gia chống càn tại Hương An - Bà Rén ngày 13/4/1948, bẻ gãy đợt tiến công và tiêu diệt 200 lính Pháp. Nguyễn Văn Lập được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam năm 1949, cấp bậc cao nhất của ông là đại úy.
Sau Hiệp nghị Geneva năm 1954, Nguyễn Văn Lập tập kết ra Bắc và lấy vợ 4 năm sau đó. Ông cùng gia đình xin phép trở về Hy Lạp năm 1965 vì mẹ ông mong chờ tin về con trai. "Mọi thứ khi đó thật khó khăn, tôi gần như quên sạch tiếng Hy Lạp và không hiểu gì cả. Tôi cố đọc và cũng chẳng hiểu vì mới chỉ học đến lớp 4. Vốn từ vựng của một đứa trẻ 10 tuổi có được bao nhiêu đâu", ông Lập nói.
"Từ ngày trở về Hy Lạp, tôi luôn nghĩ tới Việt Nam", ông Lập nói và cho biết cảm thấy vui sướng khi nhận được tin Việt Nam đại thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. "Trong tâm trí tôi luôn có hình ảnh những trẻ em là nạn nhân chất độc dioxin. Tôi gặp các em trong vài chuyến thăm Đà Nẵng sau này. Nếu chứng kiến tận mắt, bạn sẽ thấy trái tim mình đau đớn đến chừng nào".
Nguyễn Văn Lập tham gia nhiều hoạt động xây đắp quan hệ giữa Việt Nam và Hy Lạp. Trên hòm thư trước cổng nhà, ông đề cái tên Hy Lạp và Việt Nam Kostas Sarantidis Nguyễn Văn Lập. "Mỗi ngày tôi mơ về những điều đã diễn ra ở mảnh đất này, những năm tháng khó khăn trong quá khứ xa xôi", ông Lập cho biết.
Nguyễn Văn Lập được nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trao tặng Huân chương Hữu nghị và quyết định cấp quốc tịch Việt Nam ngày 7/1/2011. Ông được trao danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam năm 2013, trở thành người nước ngoài đầu tiên và duy nhất tới nay được nhận danh hiệu cao quý này.
Người chiến sĩ gốc Hy Lạp của Quân đội Nhân dân Việt Nam qua đời ngày 25/6 ở tuổi 94. Trong đám tang được tổ chức 4 ngày sau đó, quốc kỳ Hy Lạp và Việt Nam lần lượt được phủ lên linh cữu ông.
"Không ai biết về định mệnh của mình. Nếu không tham gia Binh đoàn Lê dương, không tới Việt Nam và không gia nhập Việt Minh, tôi sẽ trở thành người thế nào? Tôi sẽ rơi xuống vũng lầy nào?", ông Nguyễn Văn Lập nói trong cuộc phỏng vấn năm 2014.
"Tôi tự hào về những điều tôi đã và sẽ tiếp tục cống hiến cho Việt Nam với cả trái tim của mình, bởi họ xứng đáng với điều đó. Tôi yêu mến và kính trọng họ", người chiến sĩ gốc Hy Lạp cho biết. "Tôi chẳng hối tiếc điều gì. Nếu cuộc đời tôi còn cơ hội tương tự, tôi sẽ làm giống hệt quá khứ".
Theo VnExpress

CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH TUỔI NGHỈ HƯU CAO HƠN ĐỐI VỚI VIÊN CHỨC TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

 

Ngày 2/8, Phó Thủ tướng thường trực Phạm Bình Minh ký ban hành Nghị định 50 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Nghị định này quy định việc nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với viên chức có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao trong đơn vị sự nghiệp công lập và viên chức làm việc trong một sô lĩnh vực sự nghiệp đặc thù.
Cụ thể, nghị định này áp dụng đối với: Viên chức có học hàm Giáo sư, Phó giáo sư; viên chức giữ chức danh nghề nghiệp có yêu cầu tiêu chuẩn trình độ đào tạo là Tiến sĩ hoặc chuyên khoa II; giám định viên pháp y, giám định viên pháp y tâm thân; viên chức có chuyên môn, kỹ thuật cao trong một số lĩnh vực sự nghiệp đặc thù theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Nguyên tắc thực hiện việc nghỉ hưu ở tuỗi cao hơn bảo đảm khách quan, công bằng, công khai và đúng quy định.
Việc nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với viên chức không quá 5 năm (60 tháng), tính từ thời điểm viên chức đủ tuổi nghỉ hưu theo Nghị định số 135/2020 của Chính phủ quy định về tuôi nghỉ hưu.
Trong thời gian thực hiện nghỉ hưu ở tuổi cao hơn, viên chức chỉ làm nhiệm vụ chuyên môn, không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và không được bảo lưu phụ cập chức vụ lãnh đạo.
Trong thời gian thực hiện nghỉ hưu ở tuổi cao hơn, nếu viên chức có nguyện vọng nghỉ làm việc hoặc đơn vị sự nghiệp không còn nhu câu thì được giải quyết chê độ hưu trí theo quy định của pháp luật. Nghị định quy định rõ điều kiện, trình tự, thủ tục xem xét, quyết định nghỉ hưu ở tuôi cao hơn đối với viên chức.
Cụ thể, viên chức nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nếu có đủ các điêu kiện:
Đơn vị sự nghiệp công lập có nhu câu; có đủ sức khỏe; không đang trong thời gian bị xem xét xử lý kỷ luật, bị điều tra, truy tô, xét xử hoặc thi hành kỷ luật vê đảng, chính quyền và có đơn đề nghị được kéo dài thời gian công tác.
Hàng năm, đơn vị sự nghiệp công lập căn cứ định hướng phát triển, tình hình nhân lực của tổ chức và yêu câu của vị trí việc làm, thông báo chủ trương, nhu câu kéo dài thời gian công tác.
Viên chức đáp ứng các điều kiện quy định, có đơn đề nghị được kéo dài thời gian công tác, gửi cấp có thâm quyên theo phân cấp quản lý quyết định kéo dài trước thời điểm nghỉ hưu ít nhất 6 tháng.
Cấp có thẩm quyền theo phân cấp quản lý xem xét, đánh giá các điều kiện của viên chức có nguyện vọng được kéo dài thời gian công tác và chủ trương, nhu cầu của đơn vị sự nghiệp công lập để xem xét, quyết định việc kéo dài thời gian công tác, thời gian được kéo dài đối với từng trường hợp viên chức.
Viên chức được kéo dài tuổi nghỉ hưu hưởng chế độ lương theo hạng chức danh nghề nghiệp hiện giữ và chế độ, chính sách khác theo quy định của pháp luật.
Nghị định cũng quy định rõ, viên chức giữ chức danh giảng viên của cơ sở giáo dục đại học công lập hoặc viên chức giữ chức danh khoa học, chức danh công nghệ tại tổ chức khoa học và công nghệ công lập đã được cấp có thầm quyên quyết định việc kéo dài thời gian làm việc theo quy định hiện hành thì tiếp tục thực hiện.
Theo TTXVN

NHẬN DIỆN BIỂU HIỆN LẠM DỤNG QUYỀN LỰC NHÂN DÂN


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực”… Thế nhưng, trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang phải đối mặt với những lực cản, trong đó có biểu hiện lạm dụng quyền lực nhân dân - thực chất là biến quyền lực tập thể, quyền lực nhân dân thành quyền lực cá nhân.
Thời gian qua, vẫn còn một số cán bộ thuộc các bộ, ngành, địa phương khi xây dựng và đề xuất dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật thường đưa vào những điều khoản có lợi cho lĩnh vực mình quản lý, nhất là những lĩnh vực có điều kiện để trục lợi về kinh tế và phục vụ lợi ích nhóm. Cử tri rất dễ nhận ra biểu hiện này khi một số đại biểu còn vận động hành lang (lobby) để hợp pháp hóa một số ngành nghề, lĩnh vực nhạy cảm trái với thuần phong, đạo đức dân tộc, trái với giá trị của chủ nghĩa xã hội và không đồng ý thông qua Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia! Thậm chí có đại biểu nhân danh việc phản ánh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân đã tuyệt đối hóa, thổi phồng những khó khăn, bức xúc của đơn vị, địa phương và của cử tri nơi mình công tác để được ưu tiên giải quyết trước hoặc “tô hồng” tình hình đơn vị, ngành, địa phương mình để tạo uy tín giả cho bản thân, cho nhóm lợi ích...
Trong thực thi công vụ, biểu hiện lạm dụng quyền lực nhân dân thể hiện ở việc để bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương mình, một số ít cán bộ, đảng viên giữ vị trí quản lý đã chậm cắt giảm những thủ tục hành chính gây phiền hà cho nhân dân và doanh nghiệp. Mặt khác, lại “đẻ” thêm các quy định, rào cản mới làm cho nhân dân và doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ công... Cũng có trường hợp cán bộ đi cơ sở, tranh thủ phát biểu, úy lạo tinh thần cấp dưới, nói bằng giọng “dân túy” đánh vào tâm lý vốn đang bức xúc của một bộ phận người dân, doanh nghiệp để vận động hành lang, tranh thủ sự ủng hộ. Trong khi đó lại có người sẵn sàng “xắn tay vớt bèo”, làm sạch môi trường “trống dong, cờ mở”, kéo theo hàng loạt các phóng viên báo chí để đánh bóng tên tuổi…
Tất cả đều để mị dân, tạo uy tín giả và để khỏa lấp đi những hạn chế về phẩm chất, năng lực cũng như những sai phạm trước đó của bản thân…
Trong công tác cán bộ, vì tư tưởng cục bộ, bản vị, một số cán bộ nhân danh sự tín nhiệm của nhân dân địa phương đối với mình, tìm mọi cách để “kéo dài” vị trí công tác nhằm mục đích đưa người nhà, người thân vào các vị trí chủ chốt trong hệ thống chính trị các cấp hay trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước. Không những vậy, họ tìm cách để gây khó khăn, cản trở cán bộ từ địa phương, ban, ngành và đơn vị khác được các cấp có thẩm quyền điều động đến. Có cán bộ chủ trì nhân danh tập thể hoặc là áp đặt ý kiến của cá nhân bắt tập thể phải thông qua các quyết định thiếu dân chủ về công tác cán bộ. Vì vậy, trong các kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đối với các vụ việc nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng vừa qua đều chỉ ra khuyết điểm là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ của cán bộ chủ chốt và cấp ủy.
Trong giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, một số “công bộc”, “đầy tớ” của dân, chẳng những không “lấy dân làm gốc” mà còn “lấy gốc làm thớt” khi kê khai khống thiệt hại của bà con lúc giáp hạt, thiên tai, dịch bệnh để trục lợi các gói an sinh xã hội của Nhà nước. Qua đó làm méo mó chính sách nhân văn, nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta, gây bức xúc trong nhân dân. Đó còn là những cán bộ hứa vô tội vạ, khi thực hiện quyền vận động bầu cử nhưng khi trúng cử thì "thất hứa"...
Những biểu hiện trên thực chất là tha hóa quyền lực, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân bằng hình thức này hay hình thức khác. Quyền lực đó được nhân dân ủy quyền cho đội ngũ cán bộ để bảo đảm quyền làm chủ của mình theo luật định. Thế nhưng, họ lại bị chính người được ủy quyền đó biến quyền lực nhân dân thành quyền lực cá nhân và sử dụng sai mục đích, làm biến dạng bản chất của chế độ dân chủ ở ta. Đó là trở lực lớn để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Các biểu hiện lạm dụng quyền lực nhân dân trong đội ngũ cán bộ được nhận diện ở trên không phải là phổ biến, là bản chất của chế độ ta mà chỉ rơi vào một số cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp và ở một số lĩnh vực nhất định. Mặc dù chỉ là hiện tượng, nhưng nếu không nhận diện đúng và trúng để kịp thời có phương cách khắc phục thì rất dễ để xảy ra vi phạm quyền làm chủ của nhân dân trên diện rộng. Vì vậy, từ thực tiễn công cuộc đổi mới, nhất là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, một trong những bài học kinh nghiệm quý báu mà Đảng đúc rút là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bài học đó vẫn vẹn nguyên giá trị trong thời điểm hiện nay cũng như lâu dài.
ST

SÓNG DỮ BIỂN ĐÔNG: SAO PHẢI CÚI ĐẦU TRƯỚC NHỮNG KẺ BẠI TƯỚNG?


(Nhắc lại để nhớ, tránh ỷ lại)
"Mỹ sẽ điều hạm đội 7 đến bãi Tư Chính"
- Đó là câu nói được cho rằng là của Đô đốc, tư lệnh hạm đội 7, cũng là hạm đội mạnh nhất hải quân Hoa Kỳ G. Sawyer. Dĩ nhiên, câu nói này chưa được xác thực nhưng việc Hoa Kỳ "đánh tiếng" ở một mức độ nào đó quan tâm đến xung đột tại bãi Tư Chính của Việt Nam là có thật.
Và (một số) con dân Việt Nam mừng ra mặt, ơ sao thế không biết họ mừng vì cái gì?
Năm 1974, khi quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc nổ súng xâm lược, quân lực hạng 4 và hải quân hạng 3 thế giới không dám bay, không dám xuất tàu chỉ vì "Mỹ quan ngại gia tăng xung đột" hay đúng hơn là người Mỹ đã thỏa thuận cho phép Trung Quốc tấn công Hoàng Sa, đổi lại Mỹ nhận được sự ủng hộ của Trung Quốc trong vấn đề Liên Xô, Đông Âu. Những phi cơ bị cấm bay mặc dù đã chuẩn bị tất cả. Bấy giờ, hải quân và không quân VNCH được cho rằng mạnh áp đảo Trung Quốc và gần như "chấp" toàn bộ ASEAN.
Hay như năm 2012, bãi cạn của anh bạn Philippines cũng "đôi chủ". Mỹ vẫn im lặng mặc dù trước đó cam kết sẽ "đồng hành vĩnh viễn cùng đồng minh Philippines".
"Ơ thế hóa ra là "cú lừa" à?"
Hay lại như tòa án quốc tế Hà Lan chỉ nói mồm ăn đẫy 10 triệu USD tiền án phí của Philippines kèm theo một tuyên bố "thắng cuộc". Và rồi anh bạn phương Bắc vẫn ngông nghênh "bố lại sợ tòa án của tụi mày quá".
Nói vui chút, chỉ cần một tàu tên lửa của hải quân Việt Nam cũng đủ để "làm gỏi" toàn bộ hạm đội của hải quân Philippines.
Nếu cư dân mạng Việt Nam đọc được những dòng mà người dân Philippines nhắn gửi đến Việt Nam, các bạn có lẽ sẽ nổi da gà. Họ nói rằng người Việt Nam đáng nhẽ nên tự hào về hải quân của mình.
"Họ là nước duy nhất tại châu Á dám, sẽ và không ngại đối đầu với hải quân Trung Quốc, họ mới thực sự dũng cảm"
“Họ là quốc gia từng bị Trung Quốc chiếm đóng gần 1000 năm, bị Mỹ đánh gần 30 năm, bị Pháp đô hộ cả trăm năm. Nhưng chưa bao giờ họ chùn bước, lịch sử đã dạy họ trở thành những chiến binh có một không có hai. Chúng ta hổ thẹn trước họ”
“Ngư dân họ đánh bắt tận Indonesia, Úc và sang cả Ấn Độ vẫn thấy có lực lượng bảo vệ, còn chúng ta đi xa khỏi bãi biển 30km cũng đã nghĩ đây không phải là Philippines rồi”.
“Tàu cá của họ bị húc, họ cứu. Tàu cá của ta bị húc, họ cũng ứng cứu. Họ dường như có mặt mọi nơi tại Biển Đông”
Chúng ta không thể "bốc" đất nước từ chỗ này sang chỗ kia được.
Cũng không thể nhờ vả một quốc gia nào khác giải quyết hộ vấn đề của mình được.
Bản thân một quốc gia không tự giải quyết được vấn đề của nước mình, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền, thì đất nước đó không xứng đáng có được độc lập, không xứng đáng có được tự do.
Bãi Tư Chính là chủ quyền của Việt Nam, nó không thuộc Trường Sa và càng không phải là vùng đất có tranh chấp.
Nếu Mỹ đưa quân vào Biển Đông, Trung Quốc càng có cái cớ để họ điều thêm lực lượng vào Hoàng Sa hay Trường Sa. Lực lượng này sẽ không phải cảnh sát biển, hải giám mà sẽ là hải quân. Với động thái nhanh không cần thiết của Mỹ, Trung Quốc sẽ biến “vùng đất không xung đột” thành “xung đột”, biến “nơi không có tranh chấp” thành “tranh chấp”.
Thế giới biết đến một Việt Nam sòng phẳng trên bàn đàm phán với Mỹ, Pháp, Trung Quốc. Thế giới biết đến Việt Nam "bất cần đời" trước gần 150 thành viên Liên Hợp Quốc trong vấn đề Khơ Me Đỏ. Việt Nam đâu có ngại ai và thực ra việc gì phải sợ. Họ gần như đều bị chúng tôi đánh bại rồi - Ông Nguyễn Cơ Thạch nói.
Việc gì phải cúi mình trước những kẻ bại tướng?
Chỉ duy nhất trên thế giới này có một quốc gia làm được như vậy.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh và hệ quả của nó cũng chính là giá trị của Hòa Bình.
Philippines, Thái Lan, Singapore, Indonesia… sẽ không hiểu cái giá Việt Nam đã phải trả để đường hoàng hiên ngang sống giữa đất trời. Việt Nam chưa bao giờ và sẽ không bao giờ cần một hiệp định “trao trả độc lập”. Hàng triệu người Việt đã ngã xuống để có thể ngồi sòng phẳng tại Genève và Paris. Các cường quốc thế giới đã phải hạ mình cúi đầu chấp nhận đầu hàng hoặc rút quân vô điều kiện khỏi cái dải đất chữ S này.
"Chúng tôi đã làm được những cái việc mà người ta cho rằng: Không làm được.
Một cái việc là tưởng như là huyền thoại nhưng mà nó thành sự thật.
Nhưng phải chứng tỏ rằng nếu mà có sự quyết tâm lớn.
Không gì quý hơn độc lập, tự do."
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Biển Đông sẽ còn sóng dữ.
Chúng ta sẽ không thể hiểu hay biết hết những gì đang diễn ra ngoài kia.
Chúng ta sẽ không thể rõ đang có những hy sinh lớn lao gì ở nơi đầu sóng ngọn gió.
Từ đáy lòng mình, nghiêng mình và nguyện cầu mọi điều tốt đẹp nhất đến các chiến sĩ, cán bộ, nhà báo ngoài kia, những người con giữ biển.!
vubao12-st

VĂN TẾ CỦA VIỆT TÂN!

 Người được Việt Tân đưa tiễn 1 đoạn đường

Có thể là hình ảnh về 2 người, mọi người đang đứng và văn bản cho biết 'ĐẠI TÁ AN NINH NGUYỄN ĐĂNG QUANG: "TÔI ĐÃ GỬI NIỆM TIN NHÂM CHÃ.'


Nhà rân chủ Nguyễn Đăng Quang (thường được nhắc tới là đại tá an ninh) đã về với tiên tổ, kết thúc một cuộc đời phản trắc của mình. Để đưa tiễn bằng mồm một cây bút, một cộng tác viên xuất sắc của mình, Việt Tân đã dành một bài viết được coi như văn tế đưa tiễn ông Nguyễn Đăng Quang (thay cho phong bì viếng và đạt chỉ tiêu bài).
Phải nói rằng từ trước tới nay ông Nguyễn Đăng Quang được lăng xê như một đại tá an ninh nhưng quả thực ông này trước khi về hưu đeo hàm thượng tá, ăn lương đại tá. Ông Quang cũng chưa thực sự chiến đấu mà chuyên môn của ông là công tác hậu cần. Nghe từ đại tá an ninh chỉ làm sang cái miệng khi đám phản động tung hê ông mà thôi.
Khi nói về việc ra khỏi Đảng, Quang nói vì đã gửi niềm tin nhầm chỗ. Nhưng xin lỗi ông Quang, ở đây người đã gửi niềm tin nhầm chỗ chính là Đảng, Nhà nước chúng ta. Bởi Đảng, Nhà nước không tin ông Quang thì đã không để ông trót lọt trong nội bộ ngành công an cho đến khi về hưu, đã không cho ông cái quân hàm thượng tá. Ông Quang đã lợi dụng niềm tin của Đảng để tiến thân và khi về hưu thì phản bội lại niềm tin ấy.
Ông Quang từng tự hào rằng khi về hưu ông không chuyển Đảng, mạnh dạn ra khỏi Đảng nhưng thử hỏi ông có mạnh dạn xé sổ lương hưu của mình không. Đã dứt tình thì phải dứt cho hết chứ sống khôn như vậy, đến giờ mới quy tiên là còn muộn.
Hứt, hứt, hứt. Sau bài văn tế của Việt Tân, âu thì cũng xong một đời người. Đáng lẽ con cháu ông Quang sẽ tự hào khi ông là một sỹ quan an ninh chứ không phải lầm lũi vì một người ông, người bố trở cờ như vậy. Được Việt Tân viết văn tế cho, ở Việt Nam này được có mấy người đâu./.
vubáo11-st