Tháng 7-1939, với
bút danh Trí Cường, đồng chí Nguyễn Văn Cừ - trên cương vị Tổng
Bí thư của Đảng lúc bấy giờ-viết tác phẩm "Tự chỉ trích" nhằm chống lại
những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, tả khuynh và hữu khuynh, bảo đảm tính đúng đắn
và tất thắng của đường lối chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tác phẩm
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với công tác xây dựng Đảng nói chung, tự phê bình và phê bình trong
Đảng nói riêng.
Vấn đề tự phê bình và phê bình trong
tác phẩm "Tự chỉ trích"
"Tự
chỉ trích" khẳng định tính tất yếu của tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Đối với một đảng chính trị lãnh đạo cách mạng, việc mắc phải những sai lầm,
khuyết điểm là điều không thể tránh khỏi. Đảng thông qua tự phê bình và phê
bình để nhận thức rõ, sớm về những sai lầm, khuyết điểm, có bản lĩnh thừa nhận
sai lầm, khuyết điểm và kịp thời sửa chữa. Khi tự phê bình và phê bình
thực hiện tốt thì người đảng viên có thể rèn luyện bản lĩnh vững vàng trước cả
thành công và thất bại, “không bi quan, hoảng hốt mà cũng không đắc chí tự
mãn”, “tìm ra những nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa lỗi và
tiến thủ”, dám chịu trách nhiệm trước tổn thất, sai lầm, không đổ lỗi cho
khách quan, né tránh trách nhiệm hoặc nhận lỗi một cách hời hợt. "Tự chỉ
trích" chỉ rõ: “Mỗi cuộc thất bại là một dịp cho ta kinh nghiệm, coi
những khẩu hiệu ta đề ra có được quảng đại quần chúng hiểu, công nhận và thực
hành không”.
Mục đích
của tự phê bình và phê bình không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng mạnh
lên, “thống nhất tư tưởng, một sự thống nhất thật sự, mạnh mẽ, dựa trên sự giác
ngộ và trung thành của mọi người”. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ phân tích, tự phê
bình và phê bình không sợ địch nhân lợi dụng, chửi rủa vu cáo cho Đảng, không
sợ “nối giáo cho giặc”. Qua tự phê bình và phê bình, đảng viên có quyền bày tỏ
ý kiến của mình, phát huy sáng kiến, phê bình, đóng góp vào việc xây dựng và
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Qua tự phê bình và phê bình để tăng
cường đoàn kết trong Đảng và uy tín của Đảng với nhân dân.
Tự phê
bình và phê bình “để huấn luyện quần chúng, giúp đảng viên tự huấn luyện để làm
tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng được càng thống nhất và củng cố
đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi”. Nếu không dám đấu
tranh, chỉ cốt “giữ cái vỏ thống nhất mà bên trong thì hổ lốn một cục, đầy rẫy
bọn hoạt đầu” thì chứng tỏ “không phải một đảng tiền phong cách mạng”, nói
một cách khác, đó chính là mắc sai lầm cơ hội, hữu khuynh. Sai lầm này sẽ dẫn
đến thủ tiêu đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng, làm cho Đảng không
còn tính chiến đấu, không còn vai trò tiền phong, sẽ bị địch lợi dụng chống phá
và như vậy sẽ không còn uy tín với quần chúng cách mạng.
Nội dung
phê bình và tự phê bình: Tác phẩm "Tự chỉ trích" xoay quanh nội dung
phê bình là những xu hướng sai lầm trong hàng ngũ, trong đó có xu hướng tả
khuynh, cô độc, làm cho Đảng co bé, rút hẹp bởi tư tưởng biệt phái, cách xa
quần chúng và xu hướng thỏa hiệp hữu khuynh, lung lay trước tình hình nghiêm
trọng, lãng quên hoặc che lấp sự tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-Lênin, lăm le rời
bỏ những nguyên tắc cách mệnh...
Phương
pháp tự phê bình và phê bình: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ khẳng định quan
điểm của Đảng trong vấn đề tự phê bình và phê bình là “công khai, mạnh dạn,
thành thực”. Đồng chí phê phán “thái độ lãnh đạm hay mù mờ”, “đầy lòng tự ái”
khi tự phê bình và phê bình. Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí đã công khai
thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm của Mặt trận Dân chủ trong cuộc tuyển cử
vào Hội đồng quản hạt với tinh thần “Chúng ta phải biết nhìn nhận khuyết điểm
về chủ quan mà chính ta gây ra, chúng ta phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm", không được đổ lỗi hết cho những nguyên nhân khách quan như
việc quân thù đàn áp, cử tri chưa được giác ngộ.
Tự phê
bình và phê bình phải tuyệt đối tuân thủ những nguyên tắc của Đảng. Trước hết,
việc nêu khuyết điểm của Đảng nhất thiết phải xuất phát từ động cơ xây dựng
Đảng. Trong tự phê bình và phê bình, nếu chủ nghĩa cá nhân nảy sinh sẽ không
chỉ gây phương hại lớn đến Đảng, làm cho Đảng bị phân hóa mà còn làm cho quần
chúng hiểu sai về Đảng, dẫn đến thiếu tin tưởng vào Đảng. Theo "Tự chỉ
trích", người đảng viên cộng sản phải biết lấy uy tín, lấy danh dự chung
của toàn Đảng làm danh dự của mình, bởi vậy, không được “đặt cá nhân mình lên
trên Đảng, đem ý kiến riêng-dù là đúng-đối chọi với Đảng, vin vào một vài
khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi
lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái chia rẽ trong đội ngũ Đảng...”. Đó là
những hành động mang tính chất cơ hội, vô chính phủ. Bởi vậy, trong tự phê bình
và phê bình, phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
Tác phẩm
cũng chỉ ra nguyên tắc của Đảng không cho phép tranh luận, phô bày công khai các
vấn đề nội bộ. Mọi đảng viên đều có quyền tự do thảo luận, tự do chỉ trích,
nhưng phải giữ tinh thần Bôn-sê-vích, không làm giảm uy tín của Đảng...
Sau khi đã thảo luận rõ ràng, đã xây dựng thành nghị quyết thì “chỉ có một ý
chí duy nhất là ý chí của Đảng, ngàn người sẽ như một để thực hành ý chí ấy”.
"Tự
chỉ trích" là tác phẩm duy nhất về tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng lúc bấy giờ. Những chỉ dẫn về mục đích, nội dung, phương pháp, nguyên tắc
cũng như về văn hóa tự phê bình và phê bình trong tác phẩm có ý nghĩa lớn trong
công tác xây dựng Đảng giai đoạn hiện nay.
Ngẫm chuyện tự phê bình của cán bộ, đảng viên hiện nay
Đại hội
lần thứ VI của Đảng là Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
đã nêu cao tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”. Với tinh thần
đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên,
đánh giá thực trạng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, Đại hội XIII của
Đảng vẫn tiếp tục khẳng định: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một trong những nguyên nhân của
thực trạng trên là "tự phê bình và phê bình yếu” hay “tự phê bình và phê
bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ
thể”.
Thời gian
vừa qua, không ít nơi, công tác tự phê bình diễn ra không thường xuyên, liên
tục hoặc có tiến hành nhưng chưa đạt hiệu quả thực chất. Một số biểu hiện cụ
thể như, đối với người tự phê bình do “nuông chiều chính mình”, thiếu bản lĩnh,
sợ tự đánh mất uy tín và thể diện nên không dám tự phê bình. Có trường hợp có
tự phê bình nhưng chưa thẳng thắn, khách quan, mới chỉ nói đến ưu điểm mà không
nói đến khuyết điểm hoặc có nói đến khuyết điểm nhưng đổ lỗi cho những nguyên
nhân và hoàn cảnh khách quan. Một số đảng viên tự phê bình một cách hời hợt,
qua loa, hình thức hoặc chung chung, không gắn với trách nhiệm cụ thể, không tự
giác nhận kỷ luật. Đáng nói, có một số nơi tự phê bình nhưng chưa gắn với biện
pháp để sửa chữa, khắc phục triệt để những sai lầm, khuyết điểm, làm cho những
sai lầm, khuyết điểm ngày càng nhiều thêm.
Việc tự
phê bình có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào thái độ và hành động của người
phê bình. Không ít trường hợp, cán bộ, đảng viên trước việc tự phê bình của
đồng chí, đồng nghiệp tỏ ra thờ ơ, thiếu trách nhiệm; hoặc có góp ý nhưng xuê
xoa, thỏa hiệp. Đáng lưu ý, một số nơi, có tình trạng cán bộ, đảng viên lợi
dụng việc tự phê bình của đồng nghiệp để tuyên truyền lệch lạc, hạ thấp uy tín
của người khác nhằm mục đích tư lợi cá nhân, gây rối nội bộ hoặc trù dập những
người phê bình thẳng thắn.
Nghị
quyết Đại hội XIII, Đảng đã chỉ ra nhóm giải pháp đồng bộ, có trọng tâm,
trọng điểm, kết hợp cả "chống và xây", "xây và chống",
trong đó, nhóm giải pháp đầu tiên là phải thực hiện tốt, nêu cao tinh thần tự
phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên. Tự phê bình và phê bình là một giải pháp thực sự hiệu quả trong xây
dựng Đảng. Tuy nhiên, trong thực tế, tự phê bình để tự giáo dục mình, tự mình
phải thắng được chính mình là một việc không đơn giản. Thực hiện những chỉ
dẫn của đồng chí Nguyễn Văn Cừ trong tác phẩm "Tự chỉ
trích", chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất,
tiếp tục chấp hành nghiêm chế độ, quy định về tự phê bình và phê bình. Các
cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở cần nâng cao nhận thức về vai
trò, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương châm, văn hóa trong tự
phê bình và phê bình cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ động xây dựng chương
trình, kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện tự phê bình và phê bình trở thành nền
nếp, thường xuyên, liên tục, “tự soi, tự sửa” như “rửa mặt hằng ngày”.
Thứ hai,
nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý kiểm điểm, liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ
được giao, tự phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với
thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm, theo cương vị công
tác.
Thứ ba,
phát huy dân chủ trong Đảng. Trong sinh hoạt Đảng cần thực hiện nghiêm túc quy
chế dân chủ, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Người lãnh đạo
phải phát huy tinh thần trách nhiệm và tính tích cực, chủ động
của tất cả đảng viên, đưa vấn đề ra trước Đảng để thảo luận, đi đến tập
trung, thống nhất về ý chí, hành động; đồng thời, thường xuyên lắng nghe,
tôn trọng cấp dưới, tạo không khí cởi mở để khơi gợi cho cán bộ, đảng viên thể
hiện quan điểm, ý kiến của mình. Như vậy, người tự phê bình sẽ tránh được tâm
lý sợ bị quy kết, đánh giá, sợ mất uy tín, mất danh dự cá nhân.
Thứ tư,
biểu dương kịp thời những nhân tố tích cực trong tự phê bình. Đối với
những cá nhân thực hiện tốt việc tự phê bình trên tinh thần thẳng thắn, khách
quan, không né tránh những sai lầm, khuyết điểm và hơn thế nữa còn kiên quyết
trong việc sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, đem lại hiệu quả cao trong công
tác hay những cá nhân phê bình với động cơ trong sáng, thái độ chân thành,
đánh giá đúng sự thật, không nể nang, né tránh, bao che khuyết điểm cần
được biểu dương, ghi nhận để khích lệ những cá nhân khác trong tự phê bình và
phê bình.
Thứ năm,
kiên quyết đấu tranh với những phần tử lợi dụng tự phê bình. Chủ động
phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thói ích
kỷ, vụ lợi, lợi ích nhóm, lợi dụng tự phê bình để công kích, nói xấu, hạ
uy tín của đồng chí, đồng đội. Đặc biệt, thực hiện chế độ thông tin minh bạch,
kiên quyết đấu tranh với những thế lực thù địch và phản động lợi dụng tự phê
bình trong Đảng để thực hiện các mưu đồ chính trị đen tối, nói xấu, bôi nhọ
Đảng...
Có thể
nói, việc quán triệt và thực hiện tốt vũ khí tự phê bình và phê bình theo tinh
thần “tự chỉ trích” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ sẽ là phương pháp cơ
bản, quan trọng giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên trở thành những cán bộ tốt,
những tấm gương sáng, tiêu biểu về đạo đức cách mạng.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét