Sau
gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy vậy, một số thế lực thiếu thiện
chí vẫn có cái nhìn phiến diện, cho rằng đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam là “thiếu khoa học, không khả thi”, không tạo ra được chuyển biến căn
bản cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, đòi hỏi
chúng ta phải đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ.
Với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử mà đất nước ta đạt được trong gần 40 năm đổi mới là minh chứng cho thấy,
đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, khả thi, đáp ứng với đòi hỏi
của thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, với mưu đồ
thâm độc, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã “tung ra” không ít
những luận điệu sai trái, thù địch cho rằng: đường lối đổi mới của Đảng Cộng
sản Việt Nam là “thiếu khoa học, không khả thi”, không tạo ra được sự chuyển
biến căn bản cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chúng còn xuyên tạc
rằng, sự phát triển của Việt Nam là chậm so với các nước trong khu vực và thế
giới. Hơn thế nữa, chúng rêu rao “võ đoán” rằng, những thành tựu mà đất nước ta
đạt được gần 40 năm qua chỉ là “ăn may”, chứ không phải là do đường lối đổi mới
của Đảng ta là đúng đắn, khoa học, khả thi, v.v. Phải khẳng định ngay rằng,
những quan điểm trên là hoàn toàn sai trái, phản khoa học, mang động cơ chính
trị xấu, nhằm mục đích phủ nhận đường lối đổi mới, từ đó phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta; làm giảm sút lòng tin, cũng như tính tích cực chính trị - xã hội của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu cuối cùng của
chúng là lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tính khách quan, khoa học và khả thi của đường lối đổi mới của Đảng
Thực tế cho thấy, công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước, do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, được mở đầu từ Đại
hội VI của Đảng năm 1986, đó là một tất yếu khách quan, xuất phát từ quá trình
vận động, biến đổi và phát triển của đất nước, do những quy luật khách quan chi
phối, cùng với những đòi hỏi bức thiết của cuộc sống, nhằm đưa đất nước vượt
qua những khó khăn, thử thách, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù sau giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, chúng ta đã tạo ra được những tiền đề nhất định để xây dựng chủ nghĩa
xã hội; trong đó, tập trung vào phát triển kinh tế, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chính trị, cải biến các mặt của đời sống xã hội, xây dựng đời sống văn
hóa, tinh thần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đất nước còn đứng
trước nhiều thử thách, khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng làm cho kinh tế
chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, v.v. Để đưa đất nước
vượt qua khó khăn, có bước phát triển mạnh mẽ mang tính đột phá, nhất thiết
phải thực hiện một sự thay đổi mang tính cách mạng, nhằm chuyển đổi mô hình
quản lý và phát triển kinh tế - xã hội cho phù hợp với tình hình mới. Đó là cơ
sở để Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986.
Có thể khẳng định, đường lối đổi mới của Đảng
là khoa học, cách mạng và khả thi. Bởi đường lối ấy được xây dựng trên cơ sở
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - học thuyết khoa học và cách mạng
vì sự nghiệp giải phóng nhân loại, giải phóng giai cấp và giải phóng con người,
cũng như xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở nền tảng tư
tưởng ấy, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới khoa học và cách mạng, mang tính
sáng tạo, đột phá, được thể hiện tập trung ở ba trụ cột chủ yếu là: lý luận
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, lý luận “kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” là một sáng tạo đột phá của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong lý luận về đường lối đổi mới. Lý luận này được đề xuất trên
cơ sở tổng kết thực tiễn chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới thế kỷ XX,
cũng như xuất phát từ thực tế khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước theo mô
hình kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp đã tồn tại lâu dài trong chủ
nghĩa xã hội. Lý luận này tạo ra bước ngoặt căn bản cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, tạo tiền đề cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đại hội IX của Đảng xác định mô hình kinh tế tổng quát ở Việt Nam là “nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Từ Đại hội IX đến
Đại hội XIII, lý luận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng được
nhận thức, bổ sung, phát triển đầy đủ, sâu sắc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát
triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Tiếp đó, sự hình thành khái niệm
“nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là một trong những đóng góp
quan trọng bổ sung, phát triển cơ sở lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đồng thời, làm thay đổi căn bản lý luận về quyền lực chính trị trong chủ
nghĩa xã hội hiện thực. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước
đột phá trong đổi mới tư duy chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc quan trọng
trong đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới Nhà nước ở nước ta nói
riêng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Cùng với đó, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội cũng là
sự phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng. Thực tế cho thấy, dân chủ là một
nội dung của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ khi mới thành
lập - cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sau 40 năm đổi mới đất nước, từ
quan điểm “Dân là gốc”, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đến “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa đã tạo cơ sở, điều kiện cho toàn thể nhân dân lao động Việt
Nam thực hiện được những quyền và thụ hưởng được những lợi ích căn bản của
mình, góp phần giải phóng, phát triển con người và hoàn thiện xã hội.
Như vậy, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa được coi là trụ cột của đường lối
đổi mới. Bởi lẽ, ba yếu tố này tạo nên nền tảng cho chế độ kinh tế, chế độ
chính trị và chế độ xã hội của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ba yếu tố
này làm điều kiện, tiền đề cho nhau, vừa tạo ra sự vững chắc, ổn định, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tạo ra nền tảng vật chất cho nhà nước xã hội chủ nghĩa, thông qua vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước; đồng thời, tạo ra cơ chế tự do, tự chủ thúc đẩy sự
tiến bộ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở cho sự giải phóng và phát
triển con người. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo tính định hướng, cơ chế,
chính sách thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng và minh bạch; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, dân chủ trong xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi nào có dân chủ thực sự thì kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mới có môi trường phát triển đầy đủ, lành mạnh và khi có
dân chủ thực sự thì quyền lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa mới được thực thi
một cách thực chất. Do đó, không thể phán bừa rằng đường lối đổi mới của Đảng
là không khoa học, không có cơ sở lý luận và thực tiễn,... như những luận điệu
xuyên tạc thường rao giảng.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử gần 40 năm qua là minh chứng
rõ nhất khẳng định tính đúng đắn, khả thi của đường lối đổi mới
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau gần 40 năm đổi
mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử:
“Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh,
liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải
quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại
và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng
cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”.
Có được kết quả đó là nhờ có đường lối phát triển đúng đắn, “phù hợp với quy
luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại;
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Chính vì vậy mà cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước đang
ngày càng được tăng cường, củng cố. Điều đó được thực tế minh chứng, bác bỏ
những quan điểm, nhận định sai trái, phiến diện của các thế lực thù địch.
Hiện nay, Việt Nam là một quốc gia độc lập,
toàn vẹn, có chủ quyền, được tất cả các nước trên thế giới trong Liên hợp quốc
công nhận. Việt Nam có tiềm lực ngày càng mạnh mẽ về kinh tế, quân sự, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại…; tham gia các tổ chức quốc tế lớn, như: Liên hợp
quốc, Hội đồng nhân quyền và nhiều tổ chức quốc tế khác. Những giá trị bản sắc
văn hóa truyền thống, con người Việt Nam đang được phát huy mạnh mẽ, góp phần
định hình những giá trị chung cho nhân loại.
Trên lĩnh vực kinh tế, quy mô
GDP của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 433,3 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khu vực Đông
Nam Á và là nền kinh tế lớn thứ 34 trên thế giới. Năm 2024, quy mô GDP của Việt
Nam được dự báo đạt khoảng 469,67 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu
người đạt ngưỡng 4.000 USD/người/năm; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ
lục 732 tỷ USD, đưa Việt Nam vào trong nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn
nhất thế giới và duy trì xuất siêu năm thứ bảy liên tiếp. Đặc biệt,
giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam nằm trong top 5 nước có quy mô kinh tế
tăng nhiều nhất thế giới.
Về chính trị, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được củng cố;
dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát huy được quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng Cộng sản cầm quyền ngày càng khẳng định vai trò lãnh đạo đối với hệ thống
chính trị và toàn xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng và
ngày càng hoàn thiện, góp phần quan trọng trong bảo vệ lợi ích chính đáng và
hợp pháp của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt
quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị và đời sống xã
hội, góp phần thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Về xã hội, việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển đạt
được nhiều tiến bộ vượt bậc. Con người trở thành mục tiêu, động lực của sự phát
triển. Người dân được thụ hưởng những thành quả của sự nghiệp đổi mới, chất
lượng cuộc sống được nâng cao rõ rệt. Tuổi thọ trung bình, giáo dục, y tế, chăm
sóc sức khỏe,… đạt mức độ tương xứng với trình độ phát triển của nhiều nước
trên thế giới. Năm 2023, tuổi thọ trung bình của cả nước là 73,7 (năm 2022 là
73,6 tuổi), trong đó nam là 71,1 tuổi và nữ là 76,5 tuổi. Chỉ số
Phát triển con người (HDI) của Việt Nam ngày càng tăng cao; từ năm 1990 đến năm
2022, giá trị HDI của Việt Nam thay đổi từ 0,492 lên 0,726, tăng gần 50%. Việt
Nam liên tục đạt được tiến bộ trong 30 năm qua.
Về văn hóa, những giá trị cốt lõi của văn hóa, con
người Việt Nam như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, ý chí
tự lực, tự cường, tự tôn, tự hào dân tộc, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, thẩm
mỹ,… được phát huy mạnh mẽ. Tính tích cực xã hội, sức sáng tạo, những năng lực
bản chất nhất của con người Việt Nam được khơi dậy mạnh mẽ. Đây là sức mạnh vĩ
đại, nguồn lực to lớn, mạnh mẽ, sống động,… thúc đẩy sự phát triển của quốc gia
- dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về quốc phòng, an ninh, gần 40
năm đổi mới, đất nước luôn giữ được ổn định về an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội; quốc phòng được củng cố và bảo vệ vững chắc “Năm 2023, Việt Nam
nằm trong nhóm các quốc gia cải thiện thứ hạng về chỉ số hòa bình, tăng 4 hạng
lên vị trí 41/163 quốc gia và vùng lãnh thổ”. Với chủ trương đa
phương hóa, đa dạng hóa, chủ động tích cực hội nhập quốc tế, là bạn là đối tác
tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp
tác và phát triển, Việt Nam trở thành địa điểm gặp gỡ, giao lưu văn hóa, kinh
tế, đối thoại an ninh, chính trị an toàn của nhiều quốc gia và nhiều tổ chức
quốc tế lớn trên thế giới, như: Chủ tịch ASEAN-2020, AIPA-41, Ủy viên không
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc khóa 77; tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN,
Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2; Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA, Hội
đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, 2023 - 2025, Ủy ban Di sản Thế giới của
UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc
(ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018, v.v.
Thế giới đánh giá cao lực lượng gìn giữ hòa
bình của Việt Nam tại Phái bộ Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Nam Sudan, Khu vực
Abyei và đội tham gia tìm kiếm, cứu nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ..., qua đó góp phần quảng
bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhân văn và có
trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, v.v.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
của 40 năm đổi mới đất nước đã minh chứng cho tính ưu việt về bản chất của chế
độ xã hội chủ nghĩa, tính đúng đắn, khả thi của đường lối đổi mới và vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như những nỗ lực của toàn thể nhân
dân Việt Nam trong hành trình gian nan đó. Điều này bác bỏ hoàn toàn những luận
điệu xuyên tạc, phủ nhận, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, phản động
đối với đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét