BÍ THƯ KIM NGỌC, NGƯỜI ĐI TRƯỚC THỜI GIAN
Kim Ngọc (1917-1979) là nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phú,
ông là người khởi xướng việc “khoán hộ” trong nông nghiệp vào thập kỷ 60 của thế
kỷ XX. Thời kỳ đó do sự bắt chước một cách máy móc mô hình tổ chức xã hội của
Liên Xô, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã không đánh giá đúng về khoán hộ nên
ra sức kìm hãm và hạn chế. Kim Ngọc phải làm kiểm điểm và tự nhận “có sai lầm
nghiêm trọng trong khoán hộ”.
Kim Ngọc tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh ngày 10 tháng 10
năm 1917 tại thôn Đại Nội, xã Bình Định, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc. Ngày 26
tháng 5 năm 1979, ông mất ở tuổi 62 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt – Đức, Hà Nội.
“Khoán hộ” ở Vĩnh Phúc
Với gần 40 năm tham gia cách mạng nhất là từ khi giữ cương vị
Bí thư Tỉnh ủy, ông đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đổi mới, sáng tạo.
Trên cương vị là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, trong bộn bề công việc, Kim Ngọc vẫn
luôn dành 1/3 thời gian làm việc của mình để đi cơ sở. Ông luôn trăn trở về
tình hình sản xuất nông nghiệp và cuộc sống của người nông dân và tự hỏi tại
sao người nông dân lại không mặn mà với đồng ruộng, cái mà họ mất bao xương máu
mới giành lại được. Tại sao vẫn đồng đất ấy, vẫn con người ấy, không có thiên
tai mà sản lượng lúa sụt giảm.
Sự sâu sát đời sống thực tiễn giúp người Bí thư Tỉnh ủy sớm
nhận ra sự không ổn trong quan hệ sản xuất nông nghiệp theo mô hình hợp tác xã.
Đó là tác phong, thời gian làm việc của các xã viên theo kiểu “đánh trống ghi
tên”, làm ít, tán chuyện nhiều, làm cầm chừng, cốt sao có nhiều công điểm. Các
đội trưởng đội sản xuất làm ít nhưng công điểm lại nhiều… Từ đó đã gây bất bình
trong các hộ xã viên, nhiều hợp tác xã sau khi ăn chia người lao động chỉ được
2 đến 3 lạng thóc/1 công.
Mùa qua mùa, sự đối nghịch giữa những khoảng ruộng nhỏ bé 5%
được giao cho người nông dân làm chủ luôn xanh tốt trong khi 95% ruộng đất, những
thửa ruộng chung mênh mông của hợp tác xã luôn xác xơ vàng vọt vì người nông
dân chỉ làm ăn công điểm, ông hiểu rằng xã viên không coi ruộng đất là của mình
nên họ chẳng thiết tha gì với đồng ruộng. Phải để nông dân làm chủ mảnh đất của
mình, gắn thành quả và quyền lợi của người lao động mới tạo được động lực thực
sự để phát triển sản xuất, mới có thể làm chuyển biến tình hình sản xuất nông
nghiệp của tỉnh.
Trên cơ sở những suy ngẫm chiêm nghiệm cá nhân và kết quả việc
thí điểm cải tiến quản lý hợp tác xã với nội dung khoán đến hộ gia đình xã viên
tại một số hợp tác xã trong tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1963 đến 1965 và kết quả
khoán thí điểm ở 3 xã của huyện Vĩnh Tường vụ Đông Xuân 1965-1966, ngày
10/9/1966, dưới sự chủ trì của ông Kim Ngọc, Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã ban hành Nghị
quyết số 68-NQ/TU mang tên “Về một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong
hợp tác xã hiện nay”.
Cốt lõi của Nghị quyết là đổi mới cơ chế quản lý trong HTX
nông nghiệp, nhằm tạo ra động lực mới trong sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
cải thiện đời sống nhân dân và đáp ứng yêu cầu đóng góp của địa phương đối với
nhà nước ngày càng cao lúc đó. Nghị quyết đã nhận định con người là yếu tố quyết
định thắng lợi của tiến trình sản xuất, nếu được tin cậy, được giao quyền tự chủ,
sáng tạo: “Lao động là một trong ba điều kiện cơ bản để tiến hành sản xuất, là
vốn quí không thể thiếu được. Điều kiện cơ bản quyết định nhất để tăng năng suất
lao động là con người lao động có kỹ thuật, sử dụng được thành thạo công cụ sản
xuất tiên tiến”.
Thời gian thực hiện Nghị quyết 68 không dài nhưng những kết
quả mà “khoán hộ” tạo ra là vô cùng to lớn, đem lại hiệu suất lao động ngày
càng cao. Tính đến cuối năm 1967, Vĩnh Phúc có 160 hợp tác xã (chiếm 70% số hợp
tác xã) đạt năng suất bình quân từ 5 tấn đến trên 7 tấn/ha; sản lượng lương thực
quy thóc đạt 222.000 tấn, tăng hơn năm trước 4.000 tấn, góp phần cải thiện đời
sống nhân dân, làm thay đổi diện mạo của nông thôn Vĩnh Phúc giữa những năm 60
của thế kỷ XX.
Tại thời điểm Nghị quyết ra đời và triển khai, “Khoán hộ” bị
coi là đốt cháy giai đoạn, không phù hợp với chủ trương đẩy mạnh phong trào hợp
tác hóa của Trung ương và được coi là một sự “vượt rào”, vi phạm nghiêm trọng
đường lối của Đảng về phát triển nông nghiệp thời bấy giờ nên không thể triển
khai rộng rãi.
Ngày 6-11-1968, tại Hội nghị cán bộ tỉnh Vĩnh Phú, chủ
trương “khoán hộ” đã bị phê phán hết sức nặng nề với kết luận: “Việc khoán ruộng
cho hộ đã dẫn đến hậu quả tai hại là phát triển tư tưởng tự tư tự lợi, làm phai
nhạt ý thức tập thể của xã viên, thủ tiêu phong trào thi đua yêu nước trong hợp
tác xã. Kìm hãm và đẩy lùi cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp; giảm nhẹ vai
trò của lao động tập thể xã hội chủ nghĩa, phục hồi và phát triển lối làm ăn
riêng lẻ, đẩy hợp tác xã sản xuất nông nghiệp vào con đường thoái hóa và tan
rã”. “Bằng cách giao khoán ruộng đất của hợp tác cho hộ, trong một số hợp tác
xã đang diễn ra tình trạng chia lại ruộng đất… Bằng cách khoán sản lượng cho hộ,
một số hợp tác xã đã biến mình thành người phát canh thu tô đối với xã viên…
Trong nhiều hợp tác xã, phương thức sản xuất cá thể đang lấn át phương thức sản
xuất tập thể…” (Trích tài liệu lưu trữ của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phúc).
Ngày 12/12/1968, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri số
224-T/TW “Về chấn chỉnh công tác ba khoán và quản lý ruộng đất của hợp tác xã sản
xuất nông nghiệp ở một số địa phương”. Khoán hộ bị coi là buông lỏng quản lý,
khoán trắng ruộng đất, khoán trồng trọt, khoán chăn nuôi, khoán cả công cụ sản
xuất cho hộ dẫn đến tư hữu hoá tư liệu sản xuất, “trái với đường lối hợp tác
hoá nông nghiệp của Đảng”, phá vỡ nguyên tắc quản lý XHCN, phục hồi kinh tế cá
thể…
Trên cơ sở những kết luận và nhận định đó, chủ trương “khoán
hộ” của Vĩnh Phú bị chính thức đình chỉ vào cuối năm 1968, Bí thư Tỉnh uỷ Kim
Ngọc bị buộc phải kiểm điểm và thừa nhận là “có sai lầm nghiêm trọng trong chủ
trương khoán hộ”.
Tuy bị buộc phải chấp hành tổ chức kỷ luật của Đảng, công
khai thừa nhận là “sai lầm nghiêm trọng” về chủ trương khoán hộ nhưng ông Kim
Ngọc vẫn dũng cảm bảo lưu chủ trương của mình và trong gần mười năm sau đó khi
còn giữ cương vị Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, ông vẫn không ngần ngại bênh vực và cổ
vũ cho chủ trương mà ông cho là ích nước lợi dân và không hề xa rời mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội này.
Ông vẫn luôn rằng tin đó là con đường đúng đắn mang lại no ấm
cho người dân và tâm sự với các đồng chí thân thiết của mình: “Phải tìm mọi
cách duy trì cho được “khoán hộ” chứ để quay lại kiểu làm ăn theo tiếng kẻng,
rong công phóng điểm thì chết đói hết”.
Và trên thực tế, tuy bị cấm đoán, nhưng do lợi ích hiển
nhiên và to lớn của nó, “khoán hộ”, vẫn được nhiều hợp tác xã ở Vĩnh Phú tiếp tục
âm thầm thực hiện nên này còn gọi là “khoán chui”. Và không chỉ ở Vĩnh Phú,
“khoán chui” lan nhanh sang Hà Sơn Bình, Hải Phòng, Thanh Hóa, Thái Bình, khắp
cả miền Bắc và đến cả một số tỉnh miền Nam như Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền
Giang, Hậu Giang…
Sự ra đời của “khoán 10”
Lịch sử đã kiểm chứng niềm tin của cố Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc.
“Khoán hộ” từ Nghị quyết 68 của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã trở thành cơ sở lí luận và
thực tiễn để ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về
mở rộng công tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác
xã, đến ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản
lý kinh tế nông nghiệp (hay còn gọi là “Khoán 10”).
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị ra đời, chính thức xác định “hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ”
và cho thực hiện khoán hộ trong toàn bộ nền nông nghiệp, tạo nên một bước phát
triển kỳ diệu của nông nghiệp Việt Nam, thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn Việt Nam.
Khoán 10 đã làm thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của
cả nước. Như vậy, sau hơn 22 năm, những hạt nhân hợp lý của “khoán hộ” ở Vĩnh
Phúc đã được Trung ương khẳng định trong Nghị quyết 10-NQ/TU.
Năm 1995, ghi nhận những đóng góp công lao, trí tuệ của ông
cho sự nghiệp đổi mới của cách mạng Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng
Huân chương Độc lập hạng Nhất cho Kim Ngọc. Năm 1996, hai ngôi trường nơi ông
sinh ra ở xã Bình Định, huyện Yên Lạc được đặt tên ông. Năm 2005, một trong những
con đường đẹp nhất của thành phố Vĩnh Yên được mang tên ông. Năm 2004, Tỉnh ủy
Vĩnh Phúc của Đảng Cộng sản Việt Nam tặng gia đình ông bức tượng tạc bằng đồng
nặng tới 45 kg để biểu thị lòng kính trọng Kim Ngọc. Năm 2009, ông được Nhà nước
truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
(Tổng hợp từ nhiều nguồn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét