Chống
phá Đảng, Nhà nước ta nói chung, xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng
nói riêng là mục tiêu không thay đổi của các thế lực thù địch. Đặc biệt gần
đây, trên không gian mạng xuất hiện không ít luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng
Cộng sản Việt Nam là “Đảng toàn dân”, từ đó phủ nhận bản chất giai cấp công
nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này cần được nhận diện và kiên quyết
đấu tranh bác bỏ.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
“Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”1.
Đây là cách diễn đạt hoàn toàn đúng đắn, phù hợp về bản chất giai cấp công nhân
của Đảng trong điều kiện mới.
Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, các thế lực
thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng vấn đề này, thường
xuyên tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất của Đảng. Họ cho
rằng, nếu “ôm đồm” như vậy, Đảng không còn là Đảng của giai cấp công nhân nữa,
mà là “Đảng toàn dân”. Để minh chứng cho luận điệu này, chúng còn lấy số liệu
thực tế về tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân không cao, trong khi số lượng
đảng viên của Đảng xuất thân từ nông dân, trí thức cao hơn để phụ họa. Thâm
hiểm hơn, lợi dụng việc Đảng ta chủ trương kết nạp những quần chúng ưu tú là
chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng, để suy diễn, xuyên tạc cho rằng: bản chất
giai cấp công nhân của Đảng sẽ bị phai nhạt, Đảng Cộng sản đang dần thành “Đảng
toàn dân”. Đồng thời, hô hào “Đảng toàn dân” thì mới “chính danh” cầm quyền,
“đại diện cho toàn dân tộc”(!).
Có thể khẳng định, những luận điệu trên là
hoàn toàn sai trái, phản động, không ngoài dụng ý xấu là nhằm phủ nhận bản chất
giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó đi đến
xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, làm rõ bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động là vấn
đề cấp thiết hiện nay.
Lý luận Mác - Lênin đã chỉ rõ, bản chất giai
cấp công nhân của Đảng Cộng sản là tổng hòa các mặt, các yếu tố thuộc tính, mối
liên hệ tất yếu bên trong quy định sự vận động, phát triển của đảng, được biểu
hiện thông qua các tính chất, cách tổ chức và hoạt động của đảng. Đảng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân - giai cấp mà bản chất và lợi
ích của nó gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản chất giai cấp công nhân
của đảng thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng; ở cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư
tưởng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ
cán bộ, đảng viên; mối quan hệ gắn bó giữa đảng với nhân dân và giải quyết vấn
đề dân tộc với đoàn kết quốc tế; do đó, về mặt nhận thức, không thể lẫn lộn
đảng với toàn bộ giai cấp, với toàn thể nhân dân và dân tộc. Điều đó cũng được
V.I.Lênin khẳng định “... không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong
của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”2. Trên thực tế, Đảng
Cộng sản được tổ chức chặt chẽ, khác với các tổ chức khác của giai cấp công
nhân, là tổ chức của những người cách mạng, lấy hoạt động cách mạng làm nghề
nghiệp. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đại hội II của
Đảng khẳng định: “Đảng Lao động Việt Nam là đội tiền phong và bộ tham mưu của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng về thực chất, nó vẫn là một
chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam”3.
Ở Việt Nam, xuất phát từ đặc điểm đất nước và
điều kiện của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc nên Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước. Điều này làm cho bản chất giai cấp công nhân của
Đảng thống nhất biện chứng với tính nhân dân và tính dân tộc. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp tục “Khẳng định bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp
nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng
đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc.
Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải
phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà
còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó nhân dân lao
động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân
chính cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của mình”4. Đến nay, cách
diễn đạt bản chất của Đảng đã được bổ sung đầy đủ, sâu sắc hơn như ở đầu bài
viết đã nêu. Diễn đạt như vậy không hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, cũng không trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, “đảng phi giai cấp”, mà
diễn giải bản chất giai cấp công nhân của Đảng sâu sắc, biện chứng hơn; phản
ánh sự thống nhất về lợi ích, mục tiêu, lý tưởng của các giai cấp, tầng lớp
nhân dân và toàn dân tộc trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác,
diễn đạt này không trái với học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, bởi: “...
giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên
thành giai cấp dân tộc”5. Khi đã có chính quyền, giai cấp công nhân
và nhân dân lao động chính là đại diện của dân tộc, là chủ nhân của đất nước,
thì Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân đương nhiên là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Bên cạnh đó, Ðảng Cộng sản Việt Nam vốn dĩ ra
đời, phát triển ở nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu nên ban
đầu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, số lượng còn ít so với các thành phần xã
hội khác như giai cấp nông dân,... song luôn chứng tỏ tinh thần cách mạng triệt
để, tính tổ chức kỷ luật cao, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đủ khả
năng lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp
công nhân chiếm tỷ lệ không cao trong Đảng, song có vai trò rất quan trọng. Đại
hội IV của Đảng đã khẳng định: “Thành phần xã hội xuất thân của đội ngũ cán bộ,
đảng viên tuy không phải là yếu tố duy nhất hoặc là yếu tố chủ yếu, nhưng rất
quan trọng, vì nó góp phần bảo đảm tính chất giai cấp công nhân của Đảng, có
ảnh hưởng không nhỏ đến sức chiến đấu, đến sự trong sạch về tư tưởng và tổ chức
của Đảng,...”6. Đây là sự vận dụng, phát triển sáng tạo vấn đề thành
phần giai cấp trong Đảng ở nước ta. Đồng thời, phù hợp với chỉ dẫn của
V.I.Lênin về các tiêu chí đặc biệt quan trọng để xem xét, đánh giá một
đảng có thực sự là đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công
nhân, một đảng Mác xít chân chính hay không: “Dĩ nhiên, đại bộ phận Công đảng
là công nhân. Nhưng nó có thực sự là một chính đảng của công nhân hay không,
điều đó không phải chỉ phụ thuộc vào chỗ đảng đó có bao gồm công nhân hay
không, mà cũng còn phụ thuộc vào chỗ ai lãnh đạo nó, và ở tính chất của hành
động và của sách lược chính trị của đảng đó ra sao nữa”7. Như vậy,
số lượng đảng viên là công nhân tuy có vai trò quan trọng song không quyết định
bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà được quyết định bởi: Ai là người lãnh
đạo của Đảng; chất lượng của đội ngũ cán bộ chiến lược của Đảng ra sao; đường
lối lãnh đạo và hành động của Đảng có đúng đắn hay không. Từ những phân tích
trên cho thấy, luận điệu về cái gọi là “Đảng toàn dân” mà các thế lực thù địch
rêu rao, gán ghép cho Đảng Cộng sản Việt Nam đều xuất phát từ những ý kiến chủ
quan và không có cơ sở khoa học. Điều đó càng lộ rõ mưu đồ của họ nhằm phủ nhận
bản chất giai cấp công nhân và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng; từ đó, thúc
đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm phai nhạt vai trò, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cũng như mục tiêu, lý tưởng cách mạng của
Đảng.
Thực tiễn đã cho thấy, cùng với lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi
đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Dù trong bất kỳ điều kiện,
hoàn cảnh nào, Đảng không hoài nghi, dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng, luôn
kiên định lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đã được
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”8.
Và để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta thường
xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, năng lực hoạch định đường
lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả.
Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thường xuyên bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với yêu cầu, thực tiễn phát triển
đất nước, nguyện vọng của nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và
toàn xã hội. Đồng thời, Đảng không ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp
công nhân; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; giữ vững, thực hiện
nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo quan điểm, lập trường, ý thức
tổ chức của giai cấp công nhân. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất
là cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín; dám nghĩ, dám nói, dám làm,
dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử
thách và dám hành động vì lợi ích chung, thực sự là tấm gương về phẩm chất, đạo
đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đẩy mạnh
công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những
sâu mọt, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo.
Mặt khác, Đảng, Nhà nước ta luôn củng cố quan
hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm
lo đời sống, đại diện và bảo vệ lợi ích của toàn dân tộc; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chú trọng
hoàn thiện thiết chế dân chủ hóa đời sống xã hội, thực hiện hiệu quả Quy chế
dân chủ ở cơ sở; thường xuyên đổi mới, hoàn thiện chế độ dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện mà Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục hoàn thiện, cụ
thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng”9. Xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội
ngũ cán bộ, đảng viên, công chức liêm chính, thực sự là công bộc của nhân dân.
Cùng với đó, Đảng, Nhà nước ta luôn kết hợp
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đẩy mạnh công tác
đối ngoại, hội nhập quốc tế thông qua đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và
đối ngoại nhân dân; mở rộng hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế, là thành
viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đã
khẳng định, Ðảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam,
mãi xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc; lãnh đạo đất nước ngày càng phát
triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thực tế đó là minh chứng rõ ràng nhất
bác bỏ luận điểm xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà các thế lực
phản động, thù địch vẫn rêu rao, xuyên tạc./.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét