Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2022

NHÂN DÂN CÓ VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

 

17 năm qua, kể từ khi có Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, không chỉ các cơ quan, tổ chức mà một người dân bình thường nhất bằng khả năng của mình cũng đã đồng hành cùng lực lượng Công an xây dựng thế trận an ninh vững chắc trên địa bàn Thủ đô.
Ngược quá khứ trở về nơi khởi nguồn
Ra đời trong những ngày sôi sục của Cách mạng Tháng Tám, dù con non trẻ nhưng lực lượng CAND đã vận động nhân dân cùng tham gia vào công tác đảm bảo trật tự trị an.
Trải qua 2 cuộc chiến tranh, ngày 30-4-1975, đất nước thống nhất, lực lượng Công an đã sớm tham mưu với Đảng, Nhà nước thống nhất các phong trào, cuộc vận động nhân dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự trong toàn quốc thành phong trào “Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Đồng thời, Công an các cấp đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội tham mưu phục vụ cấp ủy Đảng, Chính quyền tổ chức, vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Phong trào đã có bước phát triển khá sâu rộng, với nhiều nội dung, hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, cụ thể của từng vùng, từng khu vực, từng lĩnh vực, địa bàn cụ thể.
Nhiều tấm gương tiêu biểu, điển hình tiên tiến được nhân rộng trong toàn quốc. Phong trào đã phát huy năng lực sáng tạo của cơ sở, khơi dậy sức mạnh, tiềm lực to lớn của toàn dân trong phòng ngừa, tấn công, trấn áp tội phạm, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc trong thời kỳ toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện chủ trương của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 13/6/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 521/QĐ-TTg lấy ngày 19 tháng 8 hàng năm là "Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc".
Thành tựu to lớn
Ngay khi Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc công nhận ngày 19-8 hàng năm là “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, nhân dân đã tập trung tuyên truyền, giáo dục giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, tạo chuyển biến mới đối với công tác an ninh, trật tự.
Lực lượng CAND đã chủ động tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các cấp ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức quán triệt, thực hiện Quyết định 521 của Thủ tướng Chính phủ.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trên lĩnh vực bảo vệ ngay từ cơ sở”. Phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và các phong trào thi đua yêu nước của địa phương. Xây dựng lực lượng Công an xã, bảo vệ dân phố; bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp trong sạch, vững mạnh, hướng về cơ sở và địa bàn dân cư. Triển khai, thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ” và phong trào thi đua “CAND học tập, thực hiện sau điều Bác Hồ dạy”.
Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp luôn xác định công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là biện pháp cơ bản, chiến lược lâu dài trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, nên đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn dân tham gia công tác phòng, chống hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự.
Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền và sự phối hợp của các ban ngành, đoàn thể (qua thực hiện nghị quyết liên tịch), phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc đã liên tục có bước phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần tích cực giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội; triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm hoạt động có tổ chức, góp phần kéo giảm số vụ phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội.
Qua 17 năm thực hiện Quyết định 521, “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” đã liên tục được đổi mới về nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng. Ngày hội không chỉ là dịp tập hợp đông đảo quần chúng, mà còn là đợt biểu dương lực lượng tham gia phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội.
Tại Hà Nội, các cấp từ cơ sở đến quận, huyện, xã, phường, thị trấn đều tổ chức ngày hội với quy mô bao gồm phần lễ và phần hội; tổ chức thăm hỏi, tặng quà người có uy tín, chức sắc tôn giáo, người có công trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; tuyên dương những tấm gương tiêu biểu trong phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được lồng ghép, gắn kết với nhiều phong trào khác như cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, “Xoá đói giảm nghèo”, “Xây dựng nông thôn mới”... thực sự đã tạo được sức hút, sự lan tỏa và đem lại hiệu quả to lớn.
Hiệu quả từ Quyết định 521
Ông Vũ Văn Lực, Tổ trưởng tổ dân phố số 9, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội nhìn nhận, 2 năm qua, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, các hoạt động tập trung đông người không được tổ chức nhưng chúng tôi vẫn nhớ lại không khí rộn ràng, rực rỡ cờ hoa, các hoạt động thể dục thể thao của địa phương mình, lấy nó làm động lực để động viên nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng xã phường, cũng như cùng bảo đảm an ninh nơi mình cư trú.
Thông qua những ngày hội như thế, nhân dân hiểu rõ hơn tầm quan trọng của công tác bảo vệ ANTQ. “An ninh Tổ quốc không phải là khái niệm quá lớn lao, mà nó chính là cuộc sống bình yên, ổn định của mỗi gia đình, không tin, không nghe lời người xấu, giữ vững những nền tảng của chế độ xã hội, phát triển kinh tế đất nước và trách nhiệm của mỗi người dân là chung tay bảo vệ những điều bình thường ấy” - ông Nguyễn Hoàng Nam, Bí thư kiêm Tổ trưởng Tổ dân phố 12, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình nhìn nhận.
Trên tinh thần ấy, trong nhiều năm qua từ các gia đình, thôn xóm, đến các xã, phường, cơ quan, đoàn thể, trường học... đã xuất hiện nhiều mô hình quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Theo thống kê, đến nay đã có trên 700 mô hình tổ chức quần chúng tự nguyện, tự quản được hình thành theo cơ chế: “Dân tổ chức, dân tự quản lý, dân thực hiện, dân nuôi” có sự chỉ đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền, CAND tham mưu, hướng dẫn thực hiện như: mô hình “Cụm liên kết bảo vệ an ninh, trật tự”; “Cảm hóa giáo dục người lầm lỗi ở cộng đồng dân cư”; “Tổ liên gia tự quản”; “Dòng họ tự quản về an ninh, trật tự”; “Xã an toàn về an ninh, trật tự”; “Gia đình, khu dân cư, cơ quan, trường học an toàn về an ninh, trật tự”...
Lực lượng an ninh cơ sở, Bảo vệ dân phố, Bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, trường học ngày càng được củng cố về số lượng và chất lượng, đã tích cực phối hợp với lực lượng Công an trong công tác giữ gìn an ninh, trật tự, cung cấp cho cơ quan chức năng hàng nghìn tin liên quan đến an ninh trật tự có giá trị, giúp lực lượng Công an trong công tác phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn tội phạm, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước.
Theo Thượng tá Nguyễn Thanh Bình, Trưởng phòng Xây dựng phong trào bảo vệ ANTQ, CATP Hà Nội, sau 2 năm dịch bệnh Covid-19, dịp kỷ niệm 77 năm Ngày truyền thống CAND Việt Nam, 17 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là để cấp ủy, chính quyền tăng cường chỉ đạo các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tiếp tục phối hợp, giúp đỡ lực lượng CAND hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Lực lượng CAND tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân Việt Nam, siết chặt đội ngũ, nỗ lực phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế./.
Nguồn: Báo ANTĐ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH NỔI BẬT TRONG TUẦN.

 

Xây dựng lực lượng Tình báo Công an nhân dân (CAND) vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tiếp tục quan tâm, chăm lo, thực hiện các chính sách đối với gia đình cán bộ, chiến sỹ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ; tăng cường phối hợp giữa hai lực lượng Công an – Quân đội trong tình hình mới; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (ANTQ); tổ chức Ngày hội toàn dân bảo vệ ANTQ phải thực sự là ngày hội của Nhân dân... là những nội dung chỉ đạo, điều hành nổi bật của Bộ Công an trong tuần từ ngày 01/8/2022 đến ngày 06/8/2022.
- Xây dựng lực lượng Tình báo CAND vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Phát biểu tại Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới đối với một đơn vị của lực lượng Tình báo Công an nhân dân (CAND), Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, việc đón nhận danh hiệu Anh hùng lần này là niềm vinh dự, tự hào vô cùng lớn lao của toàn lực lượng CAND nói chung và lực lượng Tình CAND nói riêng; đồng thời cũng là niềm vui chung của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; là sự ghi nhận xứng đáng của Đảng, Nhà nước với cả quá trình nỗ lực, cống hiến không biết mệt mỏi của lực lượng Tình báo CAND trong 76 năm qua.
Đồng thời, Chủ tịch nước đề nghị, lực lượng Tình báo CAND cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện với công tác tình báo. Không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tình báo, đảm bảo kịp thời, chính xác, nâng cao hơn nữa công tác nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược, tuyệt đối không để đất nước rơi vào thế bị động, bất ngờ…
- Hy sinh vì Nhân dân, là điều mà cán bộ, chiến sỹ lực lượng Công an nhân dân không bao giờ quản ngại.
Trong tuần qua, gương hy sinh dũng cảm của 03 liệt sĩ làm nhiệm vụ chữa cháy và cứu nạn cứu hộ Công an TP. Hà Nội đã để lại trong lòng Nhân dân niềm tin yêu lớn lao đối với lực lượng Công an nhân dân.
Tại buổi thăm hỏi, động viên, chia sẻ nỗi đau mất mát đối với gia đình 03 liệt sĩ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Bộ trưởng Tô Lâm đã xúc động chia sẻ: Sự hy sinh của 03 liệt sỹ là tổn thất lớn đối với gia đình và lực lượng Công an nhân dân, nhưng hy sinh vì Nhân dân là điều mà các cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân không bao giờ quản ngại. Đồng thời khẳng định lực lượng Công an nhân dân sẽ tiếp tục quan tâm, chăm lo, thực hiện các chính sách đối với gia đình các đồng chí hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.
Hành động dũng cảm, không quản ngại hy sinh, quyết tâm bảo vệ sự bình yên, hạnh phúc của nhân dân của các liệt sĩ là tấm gương sáng về tinh thần vì nước quên thân, vì dân phục vụ; tô thắm thêm truyền thống Anh hùng vẻ vang của lực lượng CAND Việt Nam. Là nguồn động lực thôi thúc, cổ vũ cán bộ, chiến sỹ CAND sẵn sàng chiến đấu, không lùi bước trước hiểm nguy, tiếp tục phấn đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao…
- Tăng cường phối hợp giữa hai lực lượng Công an – Quân đội trong tình hình mới.
Tại Hội nghị giao ban hai Bộ (Công an – Quốc phòng) thực hiện Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ 6 tháng đầu năm 2022, lãnh đạo Bộ Công an đề nghị, hai lực lượng Công an – Quân đội tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các chiến lược, nghị quyết, kết luận, đề án quan trọng của Đảng, Nhà nước về quốc phòng – an ninh trong tình hình mới. Làm tốt công tác nắm tình hình, chủ động trong quan hệ phối hợp một cách chặt chẽ, linh hoạt, sáng tạo, kiên quyết không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Phối hợp triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa tội phạm, lấy “chủ động phòng ngừa” từ sớm, từ xa, từ cơ sở là chính; kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa và tích cực phối hợp đấu tranh trấn áp các loại tội phạm.
Tập trung triển khai quyết liệt các phương án, kế hoạch đấu tranh phòng, chống tội phạm trên tuyến biên giới, nhất là trong đấu tranh với các đường dây mua bán, vận chuyển ma túy xuyên quốc gia, mua bán người, buôn lậu qua biên giới. Phối hợp tuần tra, kiểm soát chặt chẽ tuyến biên giới, cửa khẩu, ngăn chặn xuất, nhập cảnh trái phép; làm tốt công tác quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và giúp nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, nhất là mùa mưa bão năm 2022 đang đến gần…
- Nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Tuần qua, Đoàn kiểm tra số 8 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã tổ chức Hội nghị thông qua dự thảo Báo cáo kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác phát hiện, chuyển giao, tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố các vụ việc có dấu hiệu tội phạm về tham nhũng, kinh tế, tiêu cực và công tác giám định, định giá tài sản trong giải quyết các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế, tiêu cực tại Đảng ủy Công an Trung ương.
Phát biểu tại Hội nghị, lãnh đạo Bộ Công an đã tiếp thu những ý kiến đánh giá và các kiến nghị của Đoàn kiểm tra, đồng thời sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị chức năng khắc phục triệt để tồn tại, hạn chế; mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo, phối hợp của cơ quan, ban, ngành có liên quan nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và công tác tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và công tác giám định, định giá trong thời gian tới...
- Bổ sung tổng kết đầy đủ, toàn diện tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI.
Cũng trong tuần qua, Đoàn khảo sát số 2 thuộc Tổ Biên tập, Ban Chỉ đạo Trung ương về xây dựng Đề án "Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới" do Thượng tướng Lương Tam Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an làm Trưởng đoàn đã tiến hành khảo sát tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI tại thành phố Đà Nẵng.
Tai buổi làm việc, thay mặt Đoàn khảo sát, Thượng tướng Lương Tam Quang đề nghị Thành ủy Đà Nẵng thống nhất nhận thức về những thời cơ, thuận lợi, cũng như nguy cơ, thách thức đối với bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay, sự gia tăng các vấn đề an ninh phi truyền thống và những nhân tố có thể gây đột biến, bất lợi từ bên trong; quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc... Trên cơ sở đó bổ sung tổng kết đầy đủ, toàn diện tình hình thực hiện Nghị quyết theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương; đề xuất tầm nhìn mới, tư duy mới, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thực hiện khát vọng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra…
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Tại buổi họp giao ban đánh giá kết quả thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ từ năm 2020 đến nay, Thứ trưởng Lê Quốc Hùng nhấn mạnh, việc tiếp tục kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc theo hướng tập trung toàn diện; đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các thành viên Ban Chỉ đạo; thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo, giao ban định kỳ, tăng cường công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết gắn với làm tốt công tác thi đua, khen thưởng. Tiếp tục quán triệt, triển khai, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình mới, trọng tâm là Kết luận số 44 ngày 22/1/2019 của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình mới”…
- Tổ chức Ngày hội toàn dân bảo vệ ANTQ phải thực sự là ngày hội của Nhân dân.
Đến dự ngày Hội toàn dân bảo vệ ANTQ năm 2022 tại các địa phương Hòa Bình, Hải Phòng, lãnh đạo Bộ Công an đã ghi nhận và đánh giá cao những thành tích, kết quả trong phong trào Toàn dân bảo vệ ANTQ đã đạt được trong thời gian qua, đồng thời đề nghị các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể nhân dân, Ban chỉ đạo phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ tại địa phương tiếp tục dành sự quan tâm, chỉ đạo, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức, để Ngày hội toàn dân bảo vệ ANTQ hướng về cơ sở, thực sự là ngày hội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ ANTQ…
Lực lượng Công an tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt, tinh thần chủ động, sáng tạo, tham mưu cấp ủy, chính quyền các cấp; hướng dẫn người đứng đầu các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục nâng cao chất lượng công tác xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ ANTQ và tổ chức Ngày hội toàn dân bảo vệ ANTQ; chú trọng tổ chức lồng ghép các hoạt động thiết thực vào trong Ngày hội…
- Chính sách phù hợp để thu hút đội ngũ y bác sĩ có trình độ chuyên môn cao.
Tại buổi làm việc với Bệnh viện 30-4, Thứ trưởng Lê Văn Tuyến đề nghị Bệnh viện cần chủ động nghiên cứu xây dựng đề án tổng thể phát triển của Bệnh viện trong thời gian tới, định hướng đến năm 2030 theo đúng Nghị quyết số 12 ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII. Khẩn trương khắc phục, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác cán bộ, có chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ kế thừa; chủ động thực hiện việc chuyển giao, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là những y, bác sĩ trẻ của Bệnh viện.
Đồng thời yêu cầu Bệnh viện 30-4 tiếp tục chủ động đề xuất cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút đội ngũ y bác sĩ có trình độ chuyên môn cao, tạo điều kiện, môi trường làm việc cho lớp cán bộ, công nhân viên, y, bác sĩ trẻ. Tập thể cán bộ nhân viên, y, bác sĩ Bệnh viện nêu cao tinh thần đoàn kết, đồng lòng xây dựng Bệnh viện ngày càng phát triển, xứng đáng với truyền thống 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, xứng đáng là Bệnh viện hạng 1, Bệnh viện đầu ngành của lực lượng Công an…
-Cổng TTĐT BCA-

Có thể là hình ảnh về 3 người, mọi người đang đứng và quân phục
1

Giá trị bền vững của học thuyết sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

 Sau những biến động chính trị ở Đông Âu và Liên Xô, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác, trong đó có vấn đề về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Bài viết tập trung khẳng định giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác, làm rõ những giá trị bền vững của học thuyết Mác về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân trên cơ sở có sự bổ sung, phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Giá trị bền vững của học thuyết sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng

1. Địa vị của giai cấp công nhân trong nền sản xuất xã hội

Trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Đối với chúng tôi vấn đề không phải là ở chỗ người vô sản nào đó, thậm chí toàn bộ giai cấp vô sản coi cái gì là mục đích của mình. Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”(1). Đó là cách đặt vấn đề của chủ nghĩa Mác khi nghiên cứu về giai cấp công nhân (GCCN).

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, GCCN vừa là sản phẩm căn bản nhất, vừa là chủ thể trực tiếp nhất của nền sản xuất công nghiệp. Sự ra đời của nền sản xuất công nghiệp đã kéo theo sự ra đời của GCCN, tạo điều kiện, môi trường thúc đẩy toàn bộ GCCN phát triển không ngừng: “Ở khắp nơi, cách mạng công nghiệp đều thúc đẩy giai cấp vô sản phát triển”(2). Với tính chất tập trung của nền sản xuất công nghiệp, GCCN luôn được tuyển từ các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(3).

Là sản phẩm của nền sản xuất công nghiệp, GCCN không ngừng phát triển về số lượng, chất lượng (trình độ) và cơ cấu cùng với sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp cả về quy mô và trình độ hiện đại do sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ. Là chủ thể của nền sản xuất công nghiệp, GCCN là giai cấp chế tác, cải tiến, điều khiển, điều hành, vận hành, giám sát, kiểm tra quá trình hoạt động của máy móc, kỹ thuật sản xuất hiện đại.

Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nền sản xuất công nghiệp là cơ sở kinh tế khách quan cho sự tồn tại và phát triển của GCCN. Do đó, nền sản xuất công nghiệp còn tồn tại và phát triển thì GCCN cũng còn tồn tại và phát triển.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là với việc ứng dụng công nghệ tin học vào quá trình sản xuất, một số học giả tư sản, mà tiêu biểu là Alvin Toffler, đã đưa ra những lý thuyết khác nhau và cho rằng, xã hội hiện đại đang bước vào thời kỳ “hậu công nghiệp”, “văn minh tin học”, “văn minh trí tuệ”, đi đến phủ nhận sự hiện tồn của sản xuất công nghiệp. Do đó, GCCN với tư cách là sản phẩm của nền sản xuất công nghiệp cũng đương nhiên biến mất cùng với sự biến mất của nền sản xuất công nghiệp. Quan niệm này là hoàn toàn sai trái. Về thực chất, khái niệm “hậu công nghiệp”, “văn minh tin học”, “văn minh trí tuệ” vẫn thuộc phạm trù công nghiệp hiện đại. Bởi lẽ, ngay trong các khái niệm này và trong nền sản xuất hiện đại của thế giới hiện nay vẫn có “công nghiệp phần mềm”, “công nghiệp phần cứng”, “khu công nghiệp”, “chính sách công nghiệp”, “cơ khí vi mạch”, các loại máy móc; các sản phẩm vật chất nuôi sống con người và phát triển xã hội vẫn chủ yếu từ nền sản xuất công nghiệp mà ra. Rõ ràng, các nền văn minh ấy không hề vượt qua, phủ nhận nền sản xuất công nghiệp hiện đại, trái lại nó còn cho chúng ta thấy trình độ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại không ngừng được nâng cao, dẫn đến hình thành kinh tế tri thức.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, cho thấy sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp. Trong cuộc cách mạng này, tài năng, tri thức là những yếu tố quan trọng của sản xuất. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức, tạo ra nhiều ngành, nhiều loại lao động, nhiều hình thức lao động mới. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 23.000 nghề nghiệp liên quan đến máy móc và phương thức lao động công nghiệp, dự đoán đến giữa thế kỷ XXI sẽ có thêm khoảng 10.000 nghề nghiệp mới, chủ yếu là ở lĩnh vực dịch vụ(4). Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năm 1950, toàn thế giới có 290 triệu công nhân, năm 1970 tăng lên 615 triệu, năm 2010 là trên 800 triệu(5), năm 2014 là trên 1,5 tỷ, năm 2018 ước tính trên 1,7 tỷ(6). Nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển cao (nhóm G7) công nhân chiếm khoảng 70 - 90% trong tổng số lao động của quốc gia(7).

Không chỉ phát triển về số lượng, chất lượng của GCCN cũng ngày càng được nâng cao. Sự tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với siêu tự động hóa, siêu kết nối, trí tuệ nhân tạo đã tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc. Lao động cơ bắp dần lùi vào quá khứ, hệ thống máy móc, tự động làm thay người lao động những công việc nặng nhọc. Toàn bộ quá trình sản xuất là quá trình ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, đòi hỏi người lao động phải sử dụng nhiều hơn sức lao động trí tuệ. Lúc này, tri thức trở thành yếu tố quyết định trong việc nâng cao năng suất lao động. Nhưng điều đó không có nghĩa là GCCN đã chuyển thành tầng lớp trí thức như luận điệu của một số các học giả tư sản đã rêu rao. Bởi những người lao động đó vẫn luôn gắn hoạt động lao động của mình với nền sản xuất công nghiệp hiện đại, thường xuyên, trực tiếp lao động công nghiệp chứ không phải chủ yếu là nghiên cứu lý thuyết, lý luận như những người trí thức. Không ai khác, họ chính là bộ phận tinh túy nhất của GCCN hiện đại - công nhân trí thức.

Trong kinh tế tri thức, bản thân người công nhân và GCCN hiện đại không ngừng học tập, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, nhất là khoa học - công nghệ, tạo thành xu hướng trí thức hóa công nhân. Đồng thời, việc rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học vào sản xuất trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại đã dẫn đến một thực tế là, các nhà nghiên cứu, sáng chế, các kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp... gia nhập vào hàng ngũ GCCN hiện đại ngày càng đông, tạo thành xu hướng công nhân hóa trí thức. Hai xu hướng này đồng thời cùng diễn ra trong kinh tế tri thức - một giai đoạn phát triển ở trình độ cao của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, đã dẫn đến sự hình thành và phát triển công nhân trí thức.

Những điều trên cũng không nằm ngoài dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự hình thành của đội ngũ này khi các ông cho rằng: “Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ những người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây”(8). Thực tiễn cho thấy, những nước nào có nền sản xuất công nghiệp phát triển thì ở đó chất lượng đội ngũ công nhân càng cao. Tại các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), 60 - 70% lực lượng lao động là công nhân trí thức(9).

Như vậy, thực tế đã chứng minh quan điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin về GCCN là hoàn toàn đúng đắn và còn nguyên giá trị. GCCN không biến mất như một số người đã nghĩ. Nó vẫn tồn tại, phát triển và sẽ còn phát triển hơn nữa. Trên thế giới hiện nay, mới có khoảng 40 nước (trong khoảng 200 quốc gia) hoàn thành công nghiệp hóa, còn lại phần lớn các nước chưa hoặc đang tiến hành công nghiệp hóa. Sự phát triển của công nghiệp vẫn sẽ là cơ sở kinh tế khách quan để phát triển GCCN cả về số lượng lẫn chất lượng như sự khẳng định của chủ nghĩa Mác - Lênin.

2. Về mối quan hệ của giai cấp công nhân đối với tư liệu sản xuất trong chủ nghĩa tư bản

Khi xem xét vị trí của GCCN trong quan hệ sản xuất TBCN, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Các ông viết: “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau”(10). Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ TBCN nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi GCCN là giai cấp vô sản.

Ngày nay, với sự phát triển của CNTB, diện mạo của GCCN hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Họ không hoàn toàn giống như những mô tả của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thế kỷ XIX. Trong CNTB hiện đại, nhờ có năng suất lao động cao do sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới, mức sống chung của xã hội được nâng lên rõ rệt. Cách mạng khoa học - công nghệ không chỉ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà còn tạo ra cơ sở vật chất hùng hậu để tiếp tục tái đầu tư sản xuất, cải thiện và nâng cao một phần đời sống nhân dân, trong đó có GCCN. Do thu nhập được nâng cao nên một bộ phận công nhân hiện đại không những bảo đảm được các nhu cầu ăn, mặc, chi tiêu cho học tập và các hoạt động xã hội, mà còn có điều kiện mua sắm nhà cửa, sở hữu các phương tiện tiêu dùng hiện đại, đắt tiền và gửi tiết kiệm, mua cổ phiếu... Vin vào những lý do đó, một số học giả cho rằng GCCN hiện nay đã trở thành giai cấp hữu sản, đã được trung lưu hóa và do đó không còn là giai cấp vô sản nữa.

Những luận điệu đó nhằm cố tình xuyên tạc bản chất của GCCN trong CNTB, đồng thời che đậy bản chất CNTB. Việc GCCN có điều kiện sử dụng những phương tiện sinh hoạt tiện nghi, đắt tiền không có nghĩa là họ không còn là giai cấp vô sản, bởi đó chỉ là tư liệu tiêu dùng (hay tư liệu sinh hoạt) chứ không phải là tư liệu sản xuất. Công nhân hiện nay dù có cổ phần, cổ phiếu cũng chẳng làm cho họ trở thành nhà tư bản và giúp họ có thể thay đổi được địa vị làm thuê bởi tỷ trọng cổ phần của công nhân so với giai cấp tư sản vẫn là không đáng kể.

Trong những năm 70 của thế kỷ trước, chính phủ Mỹ thực hiện “kế hoạch phát triển sở hữu cổ phiếu của người lao động làm công” (ESOP), lúc cao nhất gần 40% người lao động làm công Mỹ có cổ phiếu, nhưng tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu chỉ chiếm trên 1% giá trị cổ phiếu mà các công ty phát hành. Số lượng ít, phân tán, người lao động hoàn toàn không có tiếng nói gì ảnh hưởng tới hoạt động của các công ty(11).

Như vậy, công nhân không trở thành “nhà tư bản” theo cách tuyên truyền của các lý luận gia tư sản, mà chỉ là “nhà tư bản” đối với chính mình. Chế độ cổ phiếu thật sự là phương pháp hữu hiệu cột chặt người lao động và bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ. Hy vọng thay đổi địa vị người lao động trở thành người chủ thật sự ở các nước TBCN chỉ là ảo tưởng, là hành động tự lừa dối.

Trên thực tế, cũng có một số rất ít công nhân đã trở thành ông chủ thuê mướn nhân công, thành chủ nhà máy với vốn hàng trăm triệu đôla, lúc này họ đã trở thành các nhà tư sản, chứ không còn là công nhân nữa.

CNTB hiện đại vẫn không thay đổi bản chất bóc lột của mình, mà chỉ thay đổi hình thức bóc lột theo hướng tinh vi hơn, khôn khéo hơn với mức độ gay gắt hơn. Sự bóc lột đó không dừng lại ở bóc lột sức lao động chân tay mà cả sức lao động trí óc. Vì vậy, trong quan hệ sản xuất TBCN, mặc dù có những thay đổi nhưng GCCN vẫn chủ yếu là những người làm thuê cho giai cấp tư sản, và bị bóc lột giá trị thặng dư với tỷ suất cao hơn nhiều so với trước đây. Theo ILO, hiện nay, tỷ suất bóc lột giá trị thăng dư trong các ngành công nghiệp ở Mỹ và Tây Âu trung bình là 300%, cá biệt có những lúc lên tới 5.000% như tại công ty Microsoft(12).

Bên cạnh đó, những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản không hề giảm đi, mà ngày càng trầm trọng, gay gắt thêm. Tình trạng phân cực giàu nghèo, phân biệt đối xử trong xã hội ngày càng lớn. Số người giàu “chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”(13), trong khi có rất nhiều người lao động nghèo khổ, thất nghiệp bị hất ra hè phố, hàng trăm triệu người bị đe dọa chết đói phải sống trong cảnh khốn cùng... Các phong trào chiếm phố Wall ở Mỹ năm 2017, biểu tình chống phân biệt chủng tộc cuối tháng 5, đầu tháng 6-2020 ở Mỹ... là hệ quả của sự phân cực giàu nghèo, phân biệt đối xử... do sự thống trị của chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN gây ra.

Tất cả điều đó đã nói lên tính chất bóc lột, phản động của CNTB. Đúng như sự nhận định của Đảng ta: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản,... chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc”(14).

3. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới

Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu sự hình thành và phát triển của CNTB, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra vai trò lịch sử của GCCN trong cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội XHCN và CSCN. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông đã viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng”(15). GCCN có được sứ mệnh lịch sử đó là do những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội khách quan của GCCN quy định, cụ thể:

Một là, xuất phát từ địa vị kinh tế - xã hội khách quan của GCCN trong CNTB. Về mặt kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao (mà GCCN là đại biểu với tư cách là nhân tố cấu thành, quan trọng nhất của lực lượng sản xuất) với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất (mà giai cấp tư sản là đại diện). Về mặt xã hội, đó là mâu thuẫn giữa GCCN và giai cấp tư sản, dẫn đến phong trào đấu tranh của GCCN chống lại giai cấp tư sản và CNTB. Hai mặt của mâu thuẫn cơ bản đó không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ CNTB do giới hạn của quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Để giải quyết triệt để mâu thuẫn cơ bản đó, tất yếu phải trải qua cách mạng XHCN do GCCN tiến hành.

Hai là, xuất phát từ những đặc điểm chính trị - xã hội khách quan của GCCN trong CNTB. GCCN được hình thành và phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp nên có những đặc điểm, tính chất cơ bản mà những giai cấp, tầng lớp xã hội khác không thể có được. Những đặc điểm và tính chất cơ bản của GCCN quy định tính khách quan trong sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN. Chỉ có GCCN mới có thể lãnh đạo được toàn thể người lao động trong cuộc đấu tranh chống tư bản, có đủ sức tập tan mọi sự phản kháng của bọn tư bản và dẫn dắt nhân dân đến một nền hòa bình lâu dài, đúng như V.I.Lênin khẳng định: “giai cấp công nhân có khả năng nhiều nhất tiếp thu tư tưởng xã hội chủ nghĩa, họ tự giác mang theo chủ nghĩa xã hội và hăng hái xây dựng chủ nghĩa xã hội”(16).

Từ cuối thế kỷ XX, nhân loại bước vào thời đại của công nghệ thông tin, khoa học công nghệ, tri thức đóng vai trò quan trọng, giữ vị trí hàng đầu trong sản xuất công nghiệp và sự phát triển của xã hội. Một số học giả đã cho rằng, lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất mới, có vai trò lãnh đạo xã hội, tiên phong trong mọi cuộc cách mạng hiện nay là tầng lớp trí thức chứ không phải là GCCN như trước đây C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nhận định. Theo họ, C.Mác và Ph.Ăngghen cố tình gán ghép sứ mệnh lịch sử cho GCCN bởi vì các ông thấy đây là giai cấp nghèo khổ nhất, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất chứ hoàn toàn không phải là bản thân giai cấp công nhân có tính tiên phong cách mạng.

Để xem xét vai trò lịch sử của một giai cấp, điều quan trọng là phải dựa trên cơ sở địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó, chứ không phải xuất phát từ sự nghèo khổ của giai cấp, hay từ ý muốn chủ quan của một số cá nhân hoặc một lực lượng xã hội nào.

Một câu hỏi đặt ra là tại sao lịch sử không lựa chọn giai cấp nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nông dân trong xã hội phong kiến - những giai cấp nghèo khổ nhất, bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất đảm nhận sứ mệnh lịch sử mà lại lựa chọn giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản? Bởi địa chủ, tư sản chính là những giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới.

Trong xã hội tư bản, GCCN là đại biểu của lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến chứ không phải là tầng lớp trí thức. Do gắn liền với phương thức lao động công nghiệp mang tính xã hội hóa và có năng suất lao động cao, GCCN có được những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, cách mạng và có năng lực lãnh đạo cách mạng.

Sự xuất hiện công nhân trí thức là sự chuyển biến về chất có tính tích cực và cách mạng của GCCN trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ, là sự khẳng định vai trò tiên phong của giai cấp công nhân và khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân như chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định. Lấy sự nghèo khổ làm cơ sở để luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một lập luận phản khoa học, là mưu đồ hòng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của trí thức trong việc thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Những trí thức tiên tiến đứng trên lập trường của GCCN, đấu tranh vì lợi ích của GCCN và nhân dân lao động, có thể trở thành lãnh tụ cách mạng. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội được”(17). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta cũng khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển”(18).

Tuy nhiên, trí thức là lực lượng xã hội đặc biệt và không thuần nhất. Trí trức chưa bao giờ và không bao giờ là một giai cấp. Trí thức không trực tiếp tham gia sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, do đó không có vai trò quyết định nhất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trí thức không đại biểu cho một phương thức sản xuất độc lập, không phải là một lực lượng kinh tế chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, do đó trí thức không có hệ tư tưởng riêng. Trí thức đi theo và chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp thống trị mà họ phục vụ.

Vì vậy, mặc dù trí thức có vai trò to lớn nhưng không thể đóng vai trò là giai cấp lãnh đạo. Thực tiễn cũng cho thấy, chưa có một quốc gia nào tầng lớp trí thức nắm chính quyền. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ như hiện nay, trí thức chỉ có thể gắn bó cùng với GCCN trong sự nghiệp cách mạng chung là xóa bỏ chế độ TBCN, xây dựng chế độ XHCN cộng sản chủ nghĩa.

Tóm lại, từ khi CNXH còn là một học thuyết cho đến khi trở thành chế độ xã hội hiện thực đã và đang trải qua bốn cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ. Sự ra đời và phát triển của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ đã tác động và làm thay đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có CNXH (xét cả về lý luận lẫn thực tiễn). Song, từ những thành tựu, khủng hoảng và triển vọng của CNXH đều cho thấy, những vấn đề cơ bản nhất về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN mà chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra: về địa vị của GCCN trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại; về quan hệ của GCCN với tư liệu sản xuất trong CNTB; về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn mà không ai có thể bác bỏ được.

__________________

(1), (16) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.56, 565.

(2), (3), (10), (15) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.464, 610, 610, 605.

(4), (6) https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/819840/nhung-nhan-thuc-moi-ve-giai-cap-cong-nhan-hien-nay*.aspx

(5), (7) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2018, tr.40, 40.

(8) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.613.

(9) Học viện Chính trị khu vực II: Tập bài giảng môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr.68.

(11) http://hdll.vn/vi/nghien-cuu-trao-doi/ban-chat-dac-diem-xu-huong-van-dong-cua-chu-nghia-tu-ban-hien-dai.html.

(12) Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Kỷ yếu hội thảo khoa học Những luận điểm về chủ nghĩa xã hội đã bị lịch sử vượt qua hoặc cần nhận thức lại, Hà Nội, 2007, tr.98-99.

(13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 966 (5-2021), tr.5.

(14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.68.

(17) V.I.Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1987, tr.217.

(18) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.67, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.792.

TỔ QUỐC CẦN NHỮNG CON NGƯỜI TẬN HIẾN CHỨ KHÔNG CẦN NHỮNG NGƯỜI NÉ TRÁNH

 

Nhận được lệnh nhập ngũ và trúng tuyển đợt khám tuyển nghĩa vụ quân sự vào đầu năm 2022, song Võ Duy Tính, 23 tuổi, trú xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi đã cố tình trốn né. Ngày 17.6.2022, Tòa án nhân huyện Nghĩa Hành đã xử phạt 15 tháng tù giam.
Sáng ngày 17.6.2022, tại nhà Văn hóa xã Hành Thuận, Tòa án Nhân dân huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức phiên tòa lưu động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Võ Duy Tính, sinh ngày 17.6.2001, trú tại thôn Đại Xuân, xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi về tội danh trốn tránh nghĩa vụ quân sự.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Nghĩa Hành: Trong đợt tuyển quân năm 2021, sau khi thực hiện các thủ tục về khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự thì Ban CHQS huyện Nghĩa Hành ra Lệnh gọi công dân nhập ngũ Số 01/LNN ngày 29.1.2021, đối với Võ Duy Tính, tuy nhiên Tính không có mặt tại địa điểm tập trung tại Trung tâm truyền thông - Văn hóa - Thể thao huyện để nhập ngũ theo lệnh gọi công dân nhập ngũ Số 01 mà không có lý do chính đáng.
Ngày 25.3.2021, Chủ tịch UBND huyện Nghĩa Hành ra Quyết định số 253 xử phạt vi phạm hành chính đối với Võ Duy Tính về hành vi trên với số tiền là 2 triệu đồng và Tính đã chấp nhận nộp phạt.
Taj đợt tuyển quân năm 2022, Võ Duy Tính có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để nhập ngũ năm 2022 nên Ban CHQS huyện Nghĩa Hành ra lệnh gọi công dân nhập ngũ Số 22/LNN ngày 20.1.2022 đối với Võ Duy Tính. Tuy nhiên, Tính vẫn không có mặt để nhập ngũ theo lệnh gọi nhập ngũ.
Đến ngày 7.3.2022, Võ Duy Tính tự nguyện đến cơ quan cảnh sát hình sự huyện Nghĩa Hành đã khai nhận lý do trốn tránh không chấp hành theo lệnh gọi nhập ngũ là vì “Suy nghĩ bản thân đã có vợ, hiện vợ đang mang thai 2 tháng, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, nếu đi bộ đội thì không ai lo cho gia đình vợ con”.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước về an ninh quốc phòng. Tại phiên tòa, bị báo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải.
Căn cứ thân nhân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định theo khoản 1 Điều 332, tại điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hành đã tuyên phạt Võ Duy Tính 15 tháng tù giam về tội danh trốn tránh nghĩa vụ quân sự.
ST
Có thể là hình ảnh về 8 người, mọi người đang ngồi và mọi người đang đứng
1