Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2022

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VÀ 8 CÂU NÓI KHẮC CỐT GHI TÂM CỦA NGƯỜI VIỆT

 

Mặc dù đã mãi mãi ra đi, nhưng hình ảnh về vị tướng tài cả đời lo cho dân, cho nước, hy sinh rất nhiều để người dân có được cuộc sống thái bình sẽ mãi mãi sống trong lòng hàng triệu người Việt Nam. Cùng khắc cốt ghi tâm 8 câu nói của Đại Tướng Võ Nguên Giáp để tưởng nhớ đến Người anh hùng của Dân tộc.
1. Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó.” - Câu nói được Đại tướng nhắc đến trong ngày vị lão tướng cận kề tuổi 100, khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng các thành viên Chính phủ đến chúc thọ mong đại tướng giữ gìn sức khỏe, trí tuệ minh mẫn, trường thọ để tiếp tục có những ý kiến đóng góp quý giá cho Đảng và nhà nước.
2 “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam; quyết chiến và toàn thắng!”
3. “Mỹ thua ở Việt Nam vì Mỹ không hiểu người Việt Nam.”
4. “Giải phóng dân tộc là nghĩa vụ thiêng liêng nhất của mỗi người Việt Nam yêu nước, của toàn thể dân tộc Việt Nam. Nhân dân chúng tôi quyết tâm chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc.”
5. "Từ lo sợ không có trong tư duy quân sự Việt Nam” - Vào ngày 9/11/1995, tại nhà khách Bộ Quốc phòng (phố Phạm Ngũ Lão, Hà Nội), Đại tướng Võ Nguyên Giáp và ông Robert McNamara (cựu Bộ trưởng quốc phòng Mỹ) gặp nhau.
Khi phía Mỹ đưa ra câu hỏi: “Những hành động quân sự nào của Mỹ làm tướng Giáp lo sợ nhất và vào những thời điểm nào?” Câu nói này đã được Đại Tướng nói ra và trở thành câu nói khắc cốt ghi tâm trong lòng người Việt.
6. “Nghệ thuật quân sự của chúng tôi, là lấy tinh thần chế ngự vật chất, lấy yếu chế ngự mạnh, lấy thô sơ chế ngự hiện đại. Chúng tôi đánh bại quân đội đế quốc hiện đại bằng tinh thần yêu nước của nhân dân cùng với chủ nghĩa anh hùng Cách mạng.”
7. “Chúng tôi trả lời là từ “lo sợ” không có trong tư duy quân sự của chúng tôi, bởi vì với chúng tôi, không có gì quý hơn độc lập tự do, chúng tôi quyết đánh Mỹ và chúng tôi luôn tin tưởng là sẽ thắng.”
8. “Quân đội Nhân dân Việt Nam ở cả miền Bắc và miền Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là một quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng, có tinh thần quyết chiến rất cao, thông minh và sáng tạo. Còn vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình."
ĐT (Tổng hợp)

DIỄN ĐÀN "TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH" BIẾN THÀNH NƠI CẤP DƯỚI NỊNH CẤP TRÊN


Diễn đàn "tự phê bình và phê bình" trở thành nơi cấp dưới nịnh cấp trên, bị hào quang bao phủ, nhiều cán bộ, đảng viên không nhận ra khuyết điểm, hạn chế của mình.
Mỗi đảng viên dù trên cương vị nào cũng đều sinh hoạt trong một tổ chức cơ sở Đảng, đều chịu sự quản lý và giáo dục của chi bộ nơi đảng viên công tác. Vì vậy, nếu chi bộ quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên tốt sẽ ngăn chặn kịp thời những biểu hiện vi phạm của đảng viên.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhiều đảng viên là cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý đã vi phạm nguyên tắc, điều lệ đảng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vun vén cho lợi ích cá nhân. Điều đó phần nào cho thấy sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn yếu kém, dẫn đến cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất, tự diễn biến, tự chuyển hóa.
Từ thực tế ấy, PGS-TS Lê Văn Cường, Phó Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, cho rằng cần nhìn thẳng vào sự thật là năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn yếu kém, có biểu hiện dĩ hòa vi quý.
Thậm chí, theo Phó Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, “trong sinh hoạt chi bộ, còn có hiện tượng anh tố tôi thì tôi tố anh, anh không tố tôi, tôi sẽ không tố anh. Rốt cuộc là không ai tố ai, “nước chảy lá khoai” làm cho qua chuyện”.
Cùng quan điểm, PGS-TS Vũ Văn Phúc, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, cho rằng, việc nhiều cán bộ bị truy tố trước pháp luật có thể khẳng định là sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng còn thấp, tinh thần đấu tranh, tinh thần tự phê bình, phê bình ở mức độ kém cũng có khi chỉ mang hình thức. “Thậm chí có những tổ chức Đảng biến diễn đàn tự phê bình và phê bình trở thành diễn đàn để cấp dưới nịnh cấp trên. Nó làm cho nhiều người đứng đầu, nhiều người có chức, có quyền không nhận rõ được khuyết điểm, hạn chế của mình khi đã bị bao phủ bởi một lớp hào quang”, PGS-TS Vũ Văn Phúc nêu thêm.
“Việc đấu tranh tự phê bình và phê bình giống như rửa mặt hằng ngày. Nếu hàng ngày không rửa mặt, anh không thể phát hiện và xóa được vết nhọ trên trán. Nếu đồng chí mình không chỉ cho mình vết nhọ trên mặt, và lại không tự mình soi gương để tự sửa, tự rèn, người ta sẽ không nhìn thấy vết bẩn của mình”.
Dẫn lời Bác Hồ căn dặn, PGS,TS Vũ Văn Phúc nhấn mạnh, một trong những nguyên tắc và cũng là công cụ trong công tác xây dựng Đảng đó là tự phê bình và phê bình, nhưng phải làm thực chất, làm hình thức, qua loa sẽ không đạt yêu cầu.
Khẳng định, đảng viên lợi dụng chức vụ vi phạm kỷ luật tổ chức đảng đều biết, nhưng theo PGS,TS Lê Văn Cường, tình trạng dĩ hòa vi quý, cộng với yếu tố năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu giảm sút nên nhiều sai phạm mới manh nha nhưng không được dập kịp thời khiến sai phạm ngày càng nghiêm trọng.
“Ở nhiều tổ chức Đảng hiện nay, người ta biết có sai phạm nhưng không nói. Cho nên, khi tổng kết về tự phê bình và phê bình, chúng tôi thấy có biểu hiện mới, đó là khen cho chết. Nghĩa là biết người ta làm sai nhưng không nhắc nhở, có khi lại a dua đồng tình, rồi cái sai nhỏ thành sai lớn. Đến lúc vi phạm xảy ra rồi, gây hậu quả rất lớn, dẫn tới mất người, thậm chí mất cả tổ chức”, Phó Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng phân tích.
Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 21 về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Nghị quyết cũng đã chỉ rõ những hạn chế năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng còn hạn chế; thực hiện chưa nghiêm nguyên tắc tập trung, dân chủ; chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ cơ sở, sinh hoạt cấp ủy, tinh thần tự phê bình và phê bình, công tác đánh giá, xếp loại còn nhiều hạn chế. Một số cấp ủy chưa chủ động, kịp thời kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Có những tổ chức đảng làm mất sức chiến đấu, để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Đấu tranh tự phê bình và phê bình trong một số tổ chức đảng vẫn còn rất hình thức. Nhưng để tự phê bình và phê bình được thực chất lại rất khó, bởi lẽ, tâm lý chung, không ai muốn nói điều không hay về mình và người khác.
Vì vậy, theo PGS,TS Lê Văn Cường, phải phát huy tính Đảng, nghĩa là bất luận làm việc gì cũng phải đặt lợi ích của Đảng, của Dân tộc, của Nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Phát huy được tính Đảng, thì tự phê bình và phê bình mới thực chất.
Cụ thể, theo phân tích của Phó Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, nếu trước kia là phê bình và tự phê bình, thì nay phải là tự phê bình và phê bình. Nghĩa là phải phê bình mình trước, phê bình người sau, phê bình mình là chính, phê bình người là phụ. Theo lời dạy của Bác Hồ, phê bình việc, chứ không phê bình người. Anh A vi phạm các nguyên tắc về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng, đó là việc làm sai, anh A được Đảng, được Nhà nước giao quyền lực vào tay nhưng sử dụng quyền lực ấy không đúng, thì chúng ta phê phán việc làm sai đấy, chứ không phải phê phán hay vùi dập con người anh A. Bởi bên ngoài cơ quan, anh ta cũng là người chồng, người cha, là một công dân, cũng có nhiều mặt tốt.
Nếu tự phê bình và phê bình không nghiêm túc, không thực chất sẽ dẫn đến những hệ lụy hết sức khó lường mà nguy hại nhất là dẫn đến suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa. Và để có thế nhận diện được đâu là những biểu hiện suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa để có biện pháp ngăn chặn kịp thời, Ban Tổ chức Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 16-HD/BTCTW trong đó chỉ ra cụ thể 82 biểu hiện suy thoái của đảng viên.
Tuy nhiên, theo PGS-TS Lê Văn Cường, việc chỉ ra những biểu hiện cụ thể như thế là tốt rồi nhưng quan trọng là phải áp dụng vào thực tế. Khi đã áp dụng rồi thì phải có kiểm tra, giám sát việc thực hiện để biểu dương, khuyến khích, khen thưởng hoặc xử lý kịp thời./.
TH/VOV.VN

NỤ CƯỜI GỬI LẠI MAI SAU

 


Một bức ảnh đẹp về nụ cười của Anh hùng LLVT nhân dân Hoàng Đăng Miện. Nụ cười ấy mãi mãi đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là tấm ảnh cuối cùng của người anh hùng vì chỉ vài tháng sau, anh đã vĩnh viễn nằm lại mảnh đất Quảng Trị ở tuổi 19.

Anh hùng LLVT nhân dân, liệt sĩ Hoàng Đăng Miện sinh năm 1953, quê quán (theo địa danh hiện nay) thôn Đông Bình, thị trấn Gia Bình, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Đơn vị Đại đội 9, tiểu đoàn 6, trung đoàn 165, sư đoàn 312 hi sinh ngày 09/9/1972 tại mặt trận Quảng Trị trong trận tiến công Đồi Cháy, một điểm cao ở phía đông nam Như Lệ. Tháng 9/1973, liệt sĩ Hoàng Đăng Miện được truy tặng danh hiệu anh hùng LLVT nhân dân.

Trong ảnh, với khẩu B.41 trên vai, Hoàng Đăng Miện nở nụ cười thật rạng rỡ. Tấm ảnh dù chỉ là đen trắng nhưng có sức truyền cảm thật mạnh mẽ. Nhìn ánh mắt, nụ cười của anh, ta thấy trong đó niềm tin vào tương lai, vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ánh mắt, nụ cười ấy truyền cảm hứng, tiếp thêm sức mạnh cho đồng đội, nhân dân vượt qua đạn bom, khói lửa chiến tranh, tiến lên “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Được biết, tác giả của tấm chân dung tuyệt vời này là liệt sĩ Lương Nghĩa Dũng, phóng viên ảnh của VNTTX khi ấy đi cùng sư đoàn 312. Liệt sĩ, phóng viên Lương Nghĩa Dũng cũng đã hi sinh ở mặt trận Quảng Trị năm 1972.

Nụ cười của niềm tin, hi vọng ấy được toát lên từ những trái tim yêu chuộng hòa bình. Nụ cười của tình yêu Tổ quốc của thế hệ trẻ anh hùng ngày ấy. Trước sự sống và cái chết, niềm lạc quan yêu đời đã giúp người lính sống thanh thản và luôn ấm áp tình đồng chí, đồng đội, tình quân dân son sắt trong những ngày chiến đấu gian nan.

Nụ cười của tuổi 19 sao mà đẹp, sáng ngời lòng nhiệt huyết như thế. Tôi yêu nụ cười ấy. Và nụ cười chất chứa niềm tin của anh mãi gửi lại mai sau...🇻🇳

Chăm lo tốt để có dân quân mạnh

 

Nhiều năm qua, tỉnh Hà Tĩnh luôn đạt thành tích cao trong công tác xây dựng và huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ (DQTV).

Kết quả đó có được nhờ sự tham mưu đúng, trúng, hiệu quả của cơ quan quân sự các cấp, sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát, vào cuộc tích cực của cấp ủy, chính quyền địa phương cùng tinh thần trách nhiệm, nỗ lực, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ.

Chúng tôi về huyện Can Lộc tìm hiểu về công tác xây dựng, huấn luyện lực lượng dân quân và được Thiếu tá Đặng Sỹ Ba, Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Can Lộc cho biết: "Công dân trong độ tuổi tham gia dân quân thường đi làm ăn xa. Hơn nữa, mức phụ cấp, hỗ trợ theo quy định cho dân quân còn rất khiêm tốn, trong khi họ thường là trụ cột gia đình về kinh tế nên công tác xây dựng lực lượng, việc huy động dân quân tham gia huấn luyện gặp nhiều khó khăn. Nhận thấy rõ điều đó, cơ quan quân sự các cấp đã chủ động làm tốt công tác tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương, triển khai đồng bộ, huy động được các cấp, các ngành cùng vào cuộc chăm lo, xây dựng lực lượng dân quân".

Chăm lo tốt để có dân quân mạnh
Huấn luyện Điều lệnh đội ngũ của Tiểu đội Dân quân thường trực xã Sơn Kim 1, huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh). 

Tìm hiểu chúng tôi được biết, hằng năm, cấp ủy các cấp của huyện Can Lộc đều xây dựng nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác quân sự, quốc phòng địa phương. Theo đó, căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ, UBND cấp có thẩm quyền giao chỉ tiêu xây dựng lực lượng dân quân, tạo nguồn cán bộ dân quân cho các đơn vị cơ sở. Định kỳ, cơ quan quân sự các cấp tiến hành rà soát, đôn đốc các đơn vị kiện toàn đội ngũ cán bộ, chiến sĩ DQTV, bảo đảm đủ về số lượng, tốt về chất lượng; tổ chức biên chế các thành phần, lực lượng theo đúng đề án xây dựng lực lượng DQTV của tỉnh.

Bên cạnh đó, cơ quan quân sự huyện tham mưu, giúp chính quyền xây dựng kế hoạch, triển khai huấn luyện cho lực lượng dân quân chặt chẽ. Thời gian tập trung huấn luyện được bố trí phù hợp để có thể huy động tối đa lực lượng tham gia. Công tác chuẩn bị huấn luyện bảo đảm đầy đủ, chu đáo, từ việc tập huấn cán bộ đến việc chuẩn bị giáo án, bài giảng, mô hình học cụ, thao trường, bãi tập... Các địa phương đều trích ngân sách và huy động các nguồn khác để hỗ trợ lực lượng dân quân. Nhờ đó, kết quả huấn luyện dân quân nhiều năm qua của huyện Can Lộc luôn bảo đảm 100% nội dung đạt yêu cầu, trong đó tỷ lệ khá, giỏi hơn 80%.

Không chỉ ở huyện Can Lộc, các địa phương khác của tỉnh Hà Tĩnh, như: Đức Thọ, Nghi Xuân, Vũ Quang, Hương Sơn... công tác xây dựng và huấn luyện lực lượng DQTV đều đạt được kết quả tốt. Có được điều đó nhờ sự vào cuộc tích cực của cấp ủy, chính quyền và các cấp, các ngành của các địa phương. Theo Thượng tá Nguyễn Tú Tài, Phó tham mưu trưởng Bộ CHQS tỉnh Hà Tĩnh, công tác huấn luyện cho lực lượng DQTV luôn được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, chăm lo. Trên thao trường, luôn có cán bộ chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền các xã, phường, thị trấn theo sát động viên, khích lệ; các ban, ngành, đoàn thể địa phương tổ chức các hoạt động tiếp sức như “Bữa cơm huấn luyện”, “Bát nước thao trường”... giúp lực lượng DQTV của địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Hiện nay công tác xây dựng, huấn luyện lực lượng DQTV của tỉnh Hà Tĩnh ngày càng đi vào chiều sâu vững chắc. Tỷ lệ DQTV đạt 1,7% dân số, tỷ lệ đảng viên đạt 30,5% tổng số DQTV. Cán bộ, chiến sĩ DQTV luôn nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, là lực lượng nòng cốt, xung kích trong xây dựng nông thôn mới, tham gia cứu hộ-cứu nạn, phòng, chống thiên tai, bão lụt, cháy rừng... Điều đó chính là minh chứng cho công tác chăm lo tốt để có dân quân mạnh của tỉnh Hà Tĩnh.

Nguồn: QĐND.

Đồng chí Võ Chí Công với phong trào cách mạng thành phố Đà Nẵng

 

Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Võ Chí Công gắn liền với những bước ngoặt lịch sử quan trọng của dân tộc, của Đảng và nhân dân ta, nhất là địa bàn Khu 5 trong thời kỳ kháng chiến.

Đối với phong trào cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng, đồng chí có những đóng góp có tính quyết định, nhất là sự ra đời Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (tháng 1-1959); cùng những quyết định táo bạo, sát thực tiễn của đồng chí trong chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy giải phóng TP Đà Nẵng năm 1975.

Sau Hiệp định Geneva năm 1954, đồng chí Võ Chí Công được giao nhiệm vụ bí mật ở lại miền Nam và phân công làm Phó bí thư Khu ủy, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở Khu 5. Đến năm 1957, tư tưởng đấu tranh vũ trang trong Đảng bộ và nhân dân Khu 5 đã ngấm ngầm sục sôi vì thấy không thể chỉ dùng con đường đấu tranh chính trị mà giành được chính quyền, đồng chí Võ Chí Công và các đồng chí trong Liên khu ủy 5 kết luận: “Thực tiễn miền Nam đã dạy cho chúng ta rằng bạo lực chống lại bạo lực mới thắng được” và nhấn mạnh: “Đây là kinh nghiệm xương máu từ cuộc sống, là thực tiễn, là chân lý được kiểm nghiệm trong thực tiễn”.

Đồng chí Võ Chí Công với phong trào cách mạng thành phố Đà Nẵng
Đồng chí Võ Chí Công thăm hỏi nhân dân huyện Phước Sơn, ngày 30-10-1989. Ảnh tư liệu 

Đầu năm 1958, đồng chí Võ Chí Công ra Hà Nội trực tiếp báo cáo tình hình trước Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị. Trên cơ sở ý kiến của đồng chí Võ Chí Công, cùng với bản Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15 và ban hành Nghị quyết 15, kết luận: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”, tạo ra phong trào “đồng khởi”, mở đầu thời kỳ đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù ở miền Nam”. Từ tình hình thuận lợi đó, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng quyết định thành lập Ban cán sự Đà Nẵng với nhiệm vụ nhanh chóng phục hồi và phát triển cơ sở bên trong TP Đà Nẵng.

Đến năm 1974, khi tình hình chuyển biến theo hướng tích cực, đồng chí Võ Chí Công thống nhất chủ trương phải “thọc thẳng” để giải phóng TP Đà Nẵng. Khi đưa ra bàn bạc chọn điểm “đột phá khẩu” để tiến công giải phóng Đà Nẵng, nhiều người đề xuất nên đánh Quế Sơn, song với nhãn quan của một nhà lãnh đạo chiến lược, đồng chí Võ Chí Công đã quyết định chọn Thượng Đức và thực tế đã chứng minh chọn đánh Thượng Đức chính là chọn tử huyệt của địch và chiến thắng đó đã mở ra thời cơ lớn, là cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược “giải phóng miền Nam”.

Để gấp rút triển khai kế hoạch tiến công giải phóng Đà Nẵng, ngày 21-3-1975, đồng chí Võ Chí Công triệu tập phiên họp của Khu ủy 5. Tại cuộc họp này, đồng chí Võ Chí Công nêu vấn đề: Cần phải “Thọc thẳng, địch tan rã Đà Nẵng rồi” và yêu cầu Đặc khu Quảng Đà phải tự giải phóng là đáp ứng yêu cầu “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”. Tất cả các phương án phải bảo đảm cho được phương châm “táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng”. Ngày 27-3-1975, đồng chí Võ Chí Công cùng với bộ phận chỉ huy tiền phương của Khu ủy 5 về Quảng Đà, trực tiếp theo dõi, chỉ đạo cuộc tổng tấn công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng. Từ diễn biến nhanh chóng của tình hình, đồng chí chủ trương không phải chờ đến ngày 30 mới giải phóng như kế hoạch đề ra. Sáng 29-3-1975, lệnh khởi nghĩa được ban bố, các cánh quân tập kết trước đó (bao gồm lực lượng của địa phương và quân chủ lực) từ các hướng tiến vào Đà Nẵng; đồng bào ở vùng ven và nội thị cùng với tù chính trị nổi dậy phá nhà lao cùng tham gia giành chính quyền dưới sự hướng dẫn của các ủy ban khởi nghĩa. Đúng vào lúc 11 giờ 30 phút, ngày 29-3-1975, quân ta cắm cờ trên Tòa thị chính, Đà Nẵng được giải phóng.

Giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng là chiến thắng mang tính chiến lược, trực tiếp quyết định thay đổi toàn bộ cục diện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Với bản lĩnh chính trị vững vàng, với phẩm chất anh hùng, gan dạ, với một tư duy chiến lược sắc bén, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn dạn dày, phong phú, với một tinh thần bất khuất, kiên quyết tấn công kẻ thù, với tính cách dám nghĩ, dám làm, quyết liệt và táo bạo, đồng chí Võ Chí Công cùng các đồng chí lãnh đạo Khu ủy Khu 5 đã có những quyết định xoay chuyển tình thế cách mạng, tạo ra những bước ngoặt lịch sử trên chiến trường miền Nam nói chung và TP Đà Nẵng nói riêng.

Từ những đóng góp to lớn của đồng chí Võ Chí Công đã cho lãnh đạo TP Đà Nẵng nhiều bài học kinh nghiệm, đóng góp quan trọng vào những thành tựu trong quá trình xây dựng và phát triển thành phố thời gian qua, đó là: Coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, sáng tạo và quyết liệt; phát huy dân chủ, sức mạnh đoàn kết, tính tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu; phát huy phẩm chất anh hùng, gan dạ của quân và dân Đà Nẵng; bám sát chủ trương, chỉ đạo của Trung ương và trên cơ sở thực tiễn, tình hình địa bàn thành phố để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế-xã hội; luôn kiên định với mục tiêu phát triển bền vững, đặt lợi ích người dân, Nhà nước lên trên hết, trước hết.

Với những phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của đồng chí Võ Chí Công sẽ mãi mãi là tấm gương sáng để cán bộ, đảng viên và đồng bào, chiến sĩ trong cả nước học tập, noi theo. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP Đà Nẵng luôn ghi nhớ, tri ân những đóng góp to lớn của đồng chí trong những bước ngoặt lịch sử quan trọng của thành phố, đồng thời tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng cách mạng của đồng chí và các thế hệ đi trước, đoàn kết, đồng thuận, chung tay xây dựng phát triển thành phố ngày càng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại.

Nguồn: QĐND.

Việt Nam - Nhân tố quan trọng trong sự phát triển của ASEAN

 Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã ngày càng trưởng thành, chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào các hoạt động chung của ASEAN với tinh thần trách nhiệm, được các nước đánh giá cao.

Nghi thức thượng cờ tại Lễ kết nạp Việt Nam là thành viên chính thức thứ bảy của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), chiều 28/7/1995, tại Thủ đô Bandar Seri Begawan (Brunei).

Ngày 28/7/1995, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM-28) diễn ra tại Brunei Darussalam, Việt Nam đã chính thức gia nhập ASEAN, trở thành thành viên thứ bảy của Hiệp hội.

Trải qua những bước đi ban đầu, từng bước học hỏi, trưởng thành và hòa nhập cùng các nước bạn bè trong ASEAN, Việt Nam luôn xác định tinh thần là một thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm, đóng góp hết sức mình vào sự phát triển vững mạnh của ASEAN. Đến nay, Việt Nam đã trở thành nhân tố quan trọng của tổ chức khu vực.

Gia nhập ASEAN - Hướng đi đúng đắn

Tham gia ASEAN, Việt Nam đã chứng kiến những bước chuyển quan trọng của Hiệp hội: từ một khởi đầu khiêm tốn, ASEAN đã từng bước lớn mạnh, trở thành một trong những tổ chức khu vực được đánh giá là thành công nhất, là hạt nhân thúc đẩy đối thoại và hợp tác vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực, là đối tác quan trọng của nhiều cường quốc và trung tâm chính trị-kinh tế lớn trên thế giới.

Việt Nam đã góp một phần tích cực vào các mốc phát triển đầy ý nghĩa của ASEAN, từ hoàn tất ý tưởng ASEAN-10, thúc đẩy và cụ thể hóa mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN, xây dựng Hiến chương ASEAN cho đến phát huy vai trò trung tâm và vị thế quốc tế của ASEAN...

Theo nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, quyết định gia nhập ASEAN của nước ta đã đưa đến kết quả “cùng thắng” cho cả Việt Nam và ASEAN. Với ASEAN, đó là bước khởi đầu để quy tụ toàn bộ 10 nước Đông Nam Á, mở đường xóa bỏ nghi kỵ, đối đầu, chuyển sang hòa bình, hợp tác. Với Việt Nam, đây là nấc thang đầu tiên để Việt Nam “tập dượt” hội nhập với thế giới. Gia nhập ASEAN là sự khởi đầu tích cực cho quá trình mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng của Việt Nam, bước đột phá trong đổi mới tư duy đối ngoại của nước ta.

Quá trình hội nhập và tham gia của Việt Nam trong ASEAN gắn liền với quá trình Đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước. Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong đổi mới tư duy đối ngoại, với chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, “chuyển từ đối đầu sang đối thoại” và trở thành “thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm” trong ASEAN.

Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta tiếp tục xác định phương hướng đối với hợp tác trong ASEAN là “chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh”, “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc.”

Chính sách đối với ASEAN đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Điều này được nhấn mạnh trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng về đối ngoại, đặc biệt là Chỉ thị 25-CT/TW ngày 8/8/2018 của Ban Bí thư về “đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030.”

Nội dung được nhấn mạnh là cần “tiếp tục phát huy và khai thác có hiệu quả vai trò thành viên của Cộng đồng Kinh tế ASEAN,” “phát huy vị thế của Việt Nam trong xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN 2025, tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực và nâng cao vị thế, sự hiện diện của Cộng đồng trên trường quốc tế.”

Tại Đại hội XIII của Đảng (năm 2021), tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những bước phát triển mới. Về đối ngoại đa phương, Đảng ta xác định cần “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị-kinh tế quốc tế” và “trong những vấn đề, các cơ chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể.”

Dù hội nhập thế giới nhưng đường lối đối ngoại của Đảng vẫn “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.”

Vai trò dẫn dắt

Là thành viên muộn của ASEAN, từ khi gia nhập tổ chức khu vực này, với tư duy, chính sách đối ngoại đúng đắn, Việt Nam đã ngày càng trưởng thành, chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào các hoạt động chung của ASEAN với tinh thần trách nhiệm, được các nước đánh giá cao.

Việt Nam đã cùng các nước tích cực thúc đẩy việc kết nạp Lào, Myanmar (năm 1997), Campuchia (năm 1999), hiện thực hóa giấc mơ về một ASEAN bao gồm cả 10 nước Đông Nam Á. Nhờ đó, ASEAN đã mở ra một chương mới cho khu vực và tạo nền tảng thiết yếu cho ASEAN trở thành một tổ chức khu vực toàn diện, liên kết sâu rộng, có vai trò quan trọng ở khu vực và thế giới.

Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6, lần thứ 17 và lần thứ 36, 37 (1998, 2010, 2020); Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (WEF on ASEAN) năm 2018, Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN lần thứ 41 (AIPA 41) năm 2020, Diễn đàn cấp cao của ASEAN về hợp tác tiểu vùng vì tăng trưởng bao trùm và phát triển bền vững năm 2021. Cùng với đó, Việt Nam đảm nhiệm vai trò điều phối viên quan hệ ASEAN với Liên minh châu Âu (EU); là Chủ tịch luân phiên Ủy ban các nước ASEAN tại Buenos Aires từ tháng 7/2022.

Việt Nam góp phần đáng kể trong thúc đẩy ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), phối hợp cùng các quốc gia cho ra đời Hiến chương ASEAN; đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN (năm 2001) và Chủ tịch ASEAN (năm 2010) với nhiều dấu ấn tích cực.

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Lương Minh được tin tưởng giao nhiệm vụ làm Tổng Thư ký ASEAN nhiệm kỳ 2013-2017 - Đây là lần đầu tiên Việt Nam có đại diện chính thức đảm nhiệm vị trí này. Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Hoàng Anh Tuấn được tín nhiệm đề cử và trở thành Phó Tổng Thư ký ASEAN phụ trách Chính trị -An ninh nhiệm kỳ 2018-2021.

Tháng 2/2021, Đại sứ Trần Đức Bình, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại ASEAN từ năm 2018-2021 được đề cử trở thành Phó Tổng Thư ký ASEAN phụ trách Cộng đồng và Nội bộ nhiệm kỳ 2021-2024. Trong cơ chế nghị viện ASEAN, bà Nguyễn Tường Vân, Phó Vụ trưởng Vụ Đối ngoại, Văn phòng Quốc hội đã trở thành Tổng Thư ký thứ 5 của AIPA, nhiệm kỳ 2019-2022.

Viet Nam - Nhan to quan trong trong su phat trien cua ASEAN hinh anh 2
Hội nghị ASEAN-Hoa Kỳ, trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN 43 và các hội nghị liên quan, ngày 22/7/2010, tại Hà Nội. 

Việt Nam đã đưa ra nhiều sáng kiến nhằm thúc đẩy tăng cường liên kết nội và ngoại khối, như thành lập cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) năm 2010, các cơ chế ASEAN+, mở rộng Hội nghị cấp cao Đông Á với sự tham gia của Nga và Mỹ (năm 2010), thành lập Cộng đồng ASEAN (năm 2015).

Những nỗ lực này đã giúp tăng cường vị thế quốc tế của ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng, đem lại những lợi ích to lớn đối với Việt Nam trên các khía cạnh an ninh-chính trị và vị thế quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi giúp Việt Nam xử lý các thách thức trong khu vực và trên thế giới.

Năm 2020, khi dịch COVID-19 bùng nổ, gây thách thức rất lớn đối với khu vực và thế giới, trên cương vị Chủ tịch luân phiên ASEAN 2020, Việt Nam vẫn chèo lái con thuyền ASEAN vững vàng, duy trì được các hoạt động của ASEAN thông qua hình thức trực tuyến và thúc đẩy bình thường tiến trình xây dựng cộng đồng.

Nước Chủ tịch Việt Nam cùng các nước thành viên, các đối tác đã tổ chức hơn 550 cuộc họp, bằng hình thức trực tuyến-bán trực tuyến, thông qua số lượng kỷ lục các văn kiện. Riêng Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các Hội nghị Cấp cao liên quan, 20 cuộc họp liên quan đã được tổ chức thành công và hơn 80 văn kiện được thông qua. Đây là số văn kiện được thông qua cao nhất trong các kỳ họp ASEAN.

Ngày 14/2/2020, Chủ tịch ASEAN ra Tuyên bố Chủ tịch về ứng phó của ASEAN trước dịch COVID-19. Nhiều sáng kiến có tính thiết thực nhất của ASEAN về hợp tác ứng phó COVID-19 và các nguy cơ dịch bệnh đã được Việt Nam đề xuất và triển khai như: Quỹ ASEAN ứng phó COVID-19; Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp ASEAN; Khung phục hồi tổng thể ASEAN; Khung chiến lược ASEAN về các vấn đề y tế khẩn cấp; Trung tâm khu vực về Ứng phó dịch bệnh mới nổi và các tình huống y tế công cộng khẩn cấp; Nhóm công tác liên ngành của Hội đồng điều phối Cộng đồng ASEAN về ứng phó các tình trạng y tế công cộng khẩn cấp...

Với sự dẫn dắt của nước Chủ tịch Việt Nam, các nước thành viên đã duy trì đà xây dựng Cộng đồng, thực hiện thành công các mục tiêu, ưu tiên đề ra trong năm 2020. Đáng chú ý là việc hoàn tất đánh giá giữa kỳ triển khai Kế hoạch tổng thể Cộng đồng ASEAN 2025 và Kế hoạch tổng thể Kết nối ASEAN 2025, đưa ra Tuyên bố Hà Nội về Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2025, xây dựng nền tảng vững chắc cho con đường phát triển phía trước của Cộng đồng ASEAN.

Bên cạnh đó, trên tinh thần “gắn kết và chủ động thích ứng”, ASEAN đã nỗ lực hợp tác chặt chẽ để đem lại kết quả tốt đẹp, đó là việc ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 tháng 11/2020.

Tổng Thư ký ASEAN Dato Lim Jock Hoi đánh giá: Việt Nam đã thể hiện “tầm lãnh đạo mạnh mẽ” trong việc dẫn dắt một phản ứng tập thể của khu vực trước đại dịch COVID-19. ASEAN đã đoàn kết và nhanh chóng ứng phó với đại dịch kể từ tháng 2/2020. Điều này một lần nữa khẳng định “tầm lãnh đạo của Việt Nam” đặc biệt trong việc thúc đẩy các quốc gia thành viên đối thoại và hợp tác thông qua một loạt các hội nghị trực tuyến. ASEAN hoàn toàn có thể vượt qua thử thách của dịch COVID-19 với sự đồng thuận, kiên cường và nỗ lực.

Bằng ý chí kiên cường, quyết tâm cao, hành động mạnh mẽ của cả Cộng đồng ASEAN, sự hợp tác hiệu quả của các đối tác và tay lái vững vàng của “thuyền trưởng” Việt Nam, ASEAN bước qua năm 2020 đầy khó khăn với nhiều những thành quả đáng tự hào. Nhiều sáng kiến của năm 2020 trở thành nền tảng cho hoạt động của ASEAN trong những năm tiếp theo.

Có thể thấy, ngay từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam luôn thể hiện vai trò tích cực và có trách nhiệm của mình, giúp mở rộng và tăng cường tính cố kết trong ASEAN cũng như thúc đẩy khả năng của ASEAN trên mọi lĩnh vực.

Bên cạnh đó, Việt Nam không ngừng cải thiện, nâng cao năng lực, uy tín và tiếng nói của mình trên trường quốc tế thông qua các hình thức hội nhập quốc tế, như tham gia các tổ chức quốc tế, các diễn đàn đa phương khu vực, liên khu vực và toàn cầu, đăng cai tổ chức các sự kiện quốc tế quan trọng, trúng cử vào các vị trí quan trọng của các cơ chế quốc tế..., góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trong ASEAN và tạo điều kiện để Việt Nam có cơ hội đóng góp nhiều hơn cho ASEAN.

Một trong những mục tiêu cơ bản và xuyên suốt của Việt Nam khi tham gia ASEAN là mong muốn duy trì một môi trường an ninh hòa bình, ổn định tại khu vực. Tuy nhiên, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn thời gian qua tại khu vực đã và đang tác động không nhỏ tới vai trò trung tâm của ASEAN cũng như tác động tới vai trò dẫn dắt của Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc bảo đảm hòa bình, an ninh tại Biển Đông và thúc đẩy hoàn tất đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) đều có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam, song việc đàm phán này hiện gặp nhiều khó khăn do sự bất đồng giữa các bên liên quan trên nhiều vấn đề. Vì vậy, để có thể gắn kết quan điểm của các nước ASEAN, Việt Nam cần nỗ lực đóng vai trò trong quá trình đàm phán COC. Đây sẽ là tiền đề để Việt Nam tiếp tục nâng cao vị thế và tiếng nói của mình trong quá trình xử lý các vấn đề quốc tế.

Cũng theo Tổng Thư ký ASEAN Dato Lim Jock Hoi, Việt Nam đã góp phần nâng cao hơn nữa vị thế quốc tế của ASEAN trong những năm qua. Ví dụ, khi bắt đầu đảm nhận chức Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc với tư cách là thành viên không thường trực nhiệm kỳ 2020-2021, Việt Nam đã đặt ra các ưu tiên vào các vấn đề có ý nghĩa, trong đó Hà Nội có thể đóng vai trò quan trọng, như biến đổi khí hậu, sự phối hợp giữa Liên hợp quốc và ASEAN...

Thực tế đã khẳng định, Việt Nam đã hội nhập thành công với đại gia đình ASEAN kể từ khi gia nhập tổ chức này. Với vị trí địa lý của mình, Việt Nam đang đóng vai trò quan trọng, đi đầu trong việc tăng cường sự kết nối giữa Đông Nam Á và phần còn lại của khu vực, đặc biệt là trong các vấn đề mới nổi toàn cầu như: biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, ô nhiễm rác thải trên biển, nông nghiệp, và môi trường bền vững, nhất là dọc theo tiểu vùng sông Mekong.

Cơ hội nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam

Hậu đại dịch COVID-19, Việt Nam đang từng bước mở cửa trở lại nền kinh tế; đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế nhằm tạo động lực phát triển bên trong.

Nước ta đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn trong bối cảnh hiện nay. Cơ hội được mở ra với việc năm 2020 Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất tại Đông Nam Á và nằm trong số ít các quốc gia trên thế giới đạt mức tăng trưởng dương.

Viet Nam - Nhan to quan trong trong su phat trien cua ASEAN hinh anh 3
Phiên toàn thể Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 qua hình thức trực tuyến. 

Cùng với đó, Việt Nam luôn giữ được sự ổn định chính trị, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn. Tình hình kiểm soát dịch bệnh tại Việt Nam có nhiều tín hiệu tích cực. Việt Nam thuộc 6 nước có tỷ lệ bao phủ tiêm vaccine cao nhất thế giới, cơ bản kiểm soát được dịch bệnh, đang từng bước đẩy mạnh phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.

Việt Nam cũng ngày càng tạo dựng được uy tín, vị thế trên trường quốc tế với việc đăng cai tổ chức Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 2017, Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần thứ hai (năm 2019)...; tham gia đàm phán, ký kết các thỏa thuận thương mại đa phương lớn, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Đặc biệt là việc Việt Nam trúng cử là ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần như tuyệt đối (192/193).

Tuy nhiên, thách thức vẫn còn. Đó là việc tái thiết nền kinh tế, nối lại chuỗi cung ứng vốn bị đứt gãy do dịch bệnh; tác động từ cạnh tranh giữa các nước lớn…Những thách thức này đòi hỏi Việt Nam phải có những ứng xử linh hoạt, vừa mềm dẻo, vừa giữ vững nguyên tắc để không ngừng nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Chia sẻ về vai trò và phương hướng tham gia ASEAN của Việt Nam trong thời gian tới, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Dũng (nguyên Trưởng SOM ASEAN) cho rằng, định hướng phát triển của ASEAN trong thời gian tới rất phù hợp với chính sách của Việt Nam.

ASEAN luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Vừa tận hưởng những lợi ích mà Cộng đồng ASEAN mang lại, Việt Nam sẽ tiếp tục chủ động đề xuất những sáng kiến, định hướng để chung tay xây dựng cộng đồng. Một Cộng đồng ASEAN lớn mạnh và tự cường sẽ là chỗ dựa vững chắc của Việt Nam để cùng vượt qua những khó khăn, sóng gió ngày càng lớn trong thời gian tới.

Kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của cả khối, từ đó nâng cao vị thế và vai trò dẫn dắt của nước ta trong tổ chức. Những đóng góp nổi bật của Việt Nam cùng với thành tựu của đất nước trong giai đoạn hiện nay là động lực giúp Việt Nam có thể tự tin triển khai chính sách đối ngoại hướng tới vai trò ngày càng quan trọng đối với ASEAN trong giai đoạn tới./.

Tuyệt đối không chủ quan trước dịch Covid-19, đẩy nhanh tiến độ tiêm chủng vaccine

 Sáng 6/8, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch Covid-19, chủ trì Phiên họp lần thứ 16 của Ban Chỉ đạo. Phiên họp truyền trực tuyến tới 63 tỉnh, thành phố.

Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 phát biểu tại Phiên họp. (Ảnh: TRẦN HẢI)
Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 phát biểu tại Phiên họp

Phát biểu ý kiến khai mạc phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, chúng ta không bao giờ quên những ngày tháng vất vả, mất mát, hy sinh vì đại dịch Covid-19. Lúc đó, chúng ta chưa có kinh nghiệm về phòng, chống dịch, chưa có vaccine, chưa có thuốc chữa Covid-19, phải dùng các biện pháp hành chính, dẫn đến tê liệt mọi hoạt động xã hội. Vì vậy, phải tốn nhiều công sức, nguồn lực để phòng, chống dịch bằng biện pháp hành chính, lao đao vì biện pháp hành chính. Để từ đó, phải nâng cao nhận thức trong phòng, chống dịch.

Tuyệt đối không chủ quan trước dịch Covid-19, đẩy nhanh tiến độ tiêm chủng vaccine ảnh 1

Theo Thủ tướng, khi kiểm soát được dịch bệnh thì bắt đầu xuất hiện tư tưởng chủ quan, lơ là chống dịch, mà lại xuất phát từ các cơ quan phòng, chống dịch, có tâm lý say sưa với thắng lợi ban đầu. Bài học lịch sử cho thấy không được chủ quan.

Ngay khi đỉnh dịch ở Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều văn bản gửi các cơ quan liên quan. Chúng ta đã có phong trào tiêm vaccine tốt mới kiểm soát được tình hình. Năm ngoái nhờ có Nghị quyết 128/NQ-CP thì mới cải thiện tình hình, sau đó đạt độ bao phủ vaccine lớn mới kiểm soát được dịch bệnh, nhờ đó nhân dân mới được hưởng cái Tết an toàn.

Tuyệt đối không chủ quan trước dịch Covid-19, đẩy nhanh tiến độ tiêm chủng vaccine ảnh 2

Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế phải nhất quán trong tuyên truyền phòng, chống dịch, tiêm vaccine. Những bài học vẫn đang còn hiện hữu trước mắt. Theo Thủ tướng, có tình trạng lơ là cả trong công tác tuyên truyền, nhận thức, tổ chức thực hiện phòng, chống dịch. Chúng ta đã đặt sức khỏe, tính mạng của nhân dân là trên hết, phòng dịch từ sớm, từ xa, từ cơ sở với kinh nghiệm xương máu. Nếu không có độ bao phủ vaccine tốt thì Việt Nam không thể tổ chức thành công SEA Games 31.

Thủ tướng đánh giá, nhiều nơi đã làm tốt công tác tiêm chủng, nhưng nhiều nơi cũng làm chưa tốt; đồng thời nêu rõ, đến nay là tháng 8 mà nhiều địa phương vẫn chưa đạt kế hoạch tiêm chủng, kể cả đối với mũi tiêm thứ 2.

Thủ tướng nhấn mạnh cần quan tâm tiêm chủng cho các đối tượng tuyến đầu, người già, người có bệnh nền, những người làm dịch vụ, giao hàng…; cần đẩy nhanh tốc độ tiêm chủng, phải đánh giá miễn dịch cộng đồng trên toàn quốc.

Theo Thủ tướng, Bộ Y tế phải chỉ đạo các Sở Y tế; cấp ủy lãnh đạo, chính quyền phải tổ chức thực hiện; người dân phải vào cuộc. Bộ Y tế phải chủ động trong vấn đề này, quan trọng nhất là có đủ vaccine, không sợ thừa mà chỉ sợ thiếu; phải huy động mọi nguồn lực có thể. Công thức phòng, chống dịch đã có, trong đó vaccine là vũ khí quan trọng nhất; thuốc chữa bệnh Covid-19 đã sản xuất được; công nghệ phải tiếp tục đẩy mạnh; tiếp tục tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân. Công thức chống dịch của chúng ta đơn giản, dễ nhớ. Các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao các biện pháp phòng, chống dịch của Việt Nam. Vaccine đã có Nhà nước lo, do đó, dứt khoát là phải lo cho dân, tiêm vaccine phòng Covid-19 là miễn phí.

Thủ tướng nêu rõ, nếu không quyết liệt làm thì sẽ bị động, lúng túng. Điều này sẽ là không chấp nhận được khi chúng ta đã có kinh nghiệm.

Thủ tướng đề nghị các đại biểu thảo luận rõ tình hình thế giới. Trong điều kiện xuất hiện các loại dịch bệnh như sốt xuất huyết, bệnh đậu mùa khỉ…, không thể để “dịch chồng dịch”. Bởi quy mô nền kinh tế nước ta còn khiêm tốn, độ mở nền kinh tế cao, sức chống chịu với các cú sốc từ bên ngoài còn có hạn, một biến động nhỏ bên ngoài có thể tác động lớn trong nước.

Thủ tướng yêu cầu phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sâu sát, tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác; phải cùng nhau gánh vác, mỗi cấp, mỗi ngành đều phải lo toan, có trách nhiệm với công tác phòng, chống dịch; phòng bệnh hơn chữa bệnh. Ban Chỉ đạo cũng cần hoạt động tích cực hơn nữa, phải bàn các vấn đề ngoài việc tăng cường phòng, chống dịch; phải lo tăng cường y tế dự phòng và y tế cơ sở; tăng phụ cấp cho nhân viên y tế; cơ cấu lại nhân lực; tiếp tục kêu gọi cộng đồng quốc tế, doanh nghiệp ủng hộ công cuộc phòng, chống dịch. Bộ Y tế phải tham mưu Chính phủ vấn đề này.

Thủ tướng đặc biệt nhấn mạnh thực hiện công tác phòng, chống dịch có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó. Nhân dịp này, Thủ tướng biểu dương lực lượng Quân đội luôn nêu cao phẩm chất anh hùng, vì nhân dân phục vụ, không quản ngại gian khó, luôn đi đầu trong phòng, chống dịch. Thủ tướng cũng yêu cầu phải thực hiện đồng bộ công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của nhân dân; phải suy nghĩ cách tuyên truyền bảo đảm hiệu quả hơn nữa.

Phát biểu kết luận tại phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính chia sẻ với những khó khăn, gian khổ, mất mát, hi sinh của các lực lượng tuyến đầu, các địa phương, của người dân, doanh nghiệp trong hơn 2 năm phòng, chống dịch vừa qua. Đến nay, chúng ta đã kiểm soát được dịch bệnh, đưa các hoạt động kinh tế-xã hội trở lại bình thường. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang phải tiếp tục khắc phục hậu quả của đại dịch tác động tới sức khỏe, tâm lý, đời sống người dân, nền kinh tế… Dịch bệnh vẫn có nguy cơ diễn biến phức tạp, khó dự báo, trong khi khả năng miễn dịch suy giảm theo thời gian; mặt khác, khi dịch bệnh vừa được kiểm soát thì tâm lý chủ quan, lơ là, mất cảnh giác lại xuất hiện.

Trong khi đó, dịch bệnh vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường trên thế giới, nhiều nước phát triển, có nền y tế hiện đại cũng đang bùng phát dịch trở lại. Nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, quy mô còn khiêm tốn, khả năng chống chịu thì có hạn, cho nên chỉ cần một biến động nhỏ ở bên ngoài có thể tác động lớn đến trong nước.

Do đó, Thủ tướng nhấn mạnh, dứt khoát không lơ là, chủ quan, mất cảnh giác trước dịch bệnh, không say sưa, ngủ quên với những kết quả đã đạt được. Thủ tướng yêu cầu phải tổ chức thực hiện nghiêm túc hơn, hiệu quả hơn đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống dịch trên cơ sở nắm chắc tình hình, diễn biến dịch bệnh; các bộ, ngành, địa phương phải chủ động, tích cực hơn nữa và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Chính phủ, Thủ tướng về các phần việc được phân công.

Thủ tướng nêu rõ mục tiêu dứt khoát không để dịch bệnh bùng phát trở lại, cơ quan, địa phương nào để dịch bệnh bùng phát trở lại phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước, trước nhân dân; trong tháng 8, phải hoàn thành việc tiêm mũi 3, 4 cho các đối tượng chỉ định và mũi thứ 2 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12; bảo đảm đủ vaccine, trang thiết bị, sinh phẩm, vật tư y tế cho phòng, chống dịch bệnh.

Thủ tướng khẳng định quan điểm chỉ đạo là: kiên quyết, kiên trì, kiên định kiểm soát dịch bệnh có hiệu quả để góp phần thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững kinh tế-xã hội; đặt tính mạng, sức khỏe người dân lên trên hết, trước hết; phòng bệnh hơn chữa bệnh, phòng bệnh từ sớm, từ xa, từ cơ sở; đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người để vận động tiêm vaccine và phòng, chống dịch; tiêm chủng vaccine phòng ngừa dịch bệnh là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi người dân.

Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch, nhất là sự xuất hiện của các biến thể mới của dịch Covid-19, thường xuyên đánh giá, phân tích tình hình và các yếu tố nguy cơ; chủ động xây dựng các kịch bản, phương án ứng phó, đáp ứng với mọi tình huống. Làm tốt hơn nữa, đồng bộ, quyết liệt, bài bản, hiệu quả hơn công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức, nhận thức của người dân và các cấp, các ngành trong phòng, chống dịch; nêu rõ những kết quả đã đạt được, biểu dương, lan tỏa các điển hình người tốt việc tốt, những tấm gương hy sinh, cống hiến vì tính mạng, sức khỏe người dân, nêu cao tinh thần đoàn kết, giữ vững bản lĩnh, vượt qua khó khăn, thách thức…

Thủ tướng chỉ đạo phải đẩy mạnh, thần tốc hơn nữa việc tiêm vaccine, bởi vaccine vẫn là vũ khí quan trọng nhất, quyết định nhất trong phòng, chống dịch. Bộ Y tế phải bảo đảm đủ, phù hợp, kịp thời vaccine phòng Covid-19, không để tình trạng thiếu vaccine; tăng cường đôn đốc, hỗ trợ, hướng dẫn và thúc đẩy việc tổ chức tiêm vaccine phòng Covid-19 tại các địa phương; tiếp tục đôn đốc, hướng dẫn việc triển khai nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước.

Thủ tướng nêu rõ, phải phát huy trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tiêm chủng; biểu dương, khen thưởng những người làm tốt, phê bình những người làm chưa tốt, xử lý nghiêm, kịp thời các vi phạm. Thủ tướng lưu ý Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cần đặc biệt chú ý việc thúc đẩy tiêm vaccine cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi, do số học sinh đông, không gian học tập tại trường hạn chế hơn các địa phương khác.

Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố, Trưởng Ban chỉ đạo phòng, chống dịch chịu trách nhiệm chỉ đạo tiêm chủng vacccine phòng Covid-19 đạt chỉ tiêu đề ra; bảo đảm đủ thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế, nhân lực cho công tác phòng, chống dịch Covid-19 và phục vụ khám, chữa bệnh cho người dân.

Nêu rõ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo rất cụ thể để xử lý vấn đề thuốc, vật tư, nhân lực y tế, Thủ tướng yêu cầu các cơ quan liên quan tích cực, chủ động hơn nữa để khẩn trương triển khai, xử lý các vấn đề cấp bách, bức xúc, với các vấn đề vượt thẩm quyền thì kịp thời đề xuất, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Bộ Tài chính phản ứng chính sách nhanh, bảo đảm kinh phí cho công tác phòng, chống dịch; Bộ Kế hoạch và Đầu tư kịp thời hướng dẫn thủ tục đấu thầu liên quan tới mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế, giải quyết các khó khăn, vướng mắc.

Đến nay, Trung ương và các địa phương đã dành tổng kinh phí 82.121 tỷ đồng thực hiện các chính sách hỗ trợ 728.488 lượt người sử dụng lao động và trên 49,94 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19. Thủ tướng giao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tích cực triển khai, đôn đốc các địa phương làm tốt hơn một số chính sách hỗ trợ còn hạn chế trong thực hiện.

Thủ tướng cũng nêu rõ, phòng, chống dịch để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triển doanh nghiệp, tạo sinh kế, công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; tiếp tục vận động các nguồn lực cho phòng chống dịch theo chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định để bảo đảm công khai, minh bạch, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong phòng, chống dịch; luôn quan tâm bảo đảm an toàn, an ninh, an dân, ngăn chặn, đấu tranh kịp thời, xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng, xuyên tạc, thông tin sai sự thật để chống phá Đảng, Nhà nước; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực hợp pháp và đóng góp phù hợp với cộng đồng quốc tế trong phòng, chống dịch.

Thủ tướng yêu cầu các cơ quan, đơn vị phải cùng nhau gánh vác, mỗi cấp, mỗi ngành đều phải lo toan, trách nhiệm với công tác phòng, chống dịch, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thống nhất về nhận thức và hành động, quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn, hành động quyết liệt hơn, xác định trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào, dứt điểm việc đó.

Theo Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch Covid-19, tính đến ngày 4/8, Việt Nam đã triển khai tiêm được hơn 247 triệu liều vaccine phòng Covid-19, là quốc gia có số liều vaccine sử dụng và tỷ lệ bao phủ vaccine cao trên thế giới (tỷ lệ tiêm mũi 1, mũi 2 cho người từ 12 tuổi trở lên đạt xấp xỉ 100%); hiệu suất sử dụng vaccine cao (đạt 100%) và tốc độ tiêm nhanh (tháng cao điểm - tháng 10 và 11/2021 tiêm được 39-40 triệu liều/tháng); tỷ lệ tiêm mũi 3 cho người từ 18 tuổi trở lên trên tổng dân số là 52%, cao gấp đôi tỷ lệ trung bình trên thế giới); tỷ lệ tiêm mũi 1, mũi 2 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi cao hơn một số quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Đức, Italia, Pháp...

Tiến độ tiêm chủng có xu hướng tăng trở lại trong thời gian gần đây. Trong nửa cuối tháng 7/2022, cả nước triển khai tiêm được hơn 7,7 triệu liều vaccine, tăng 34% so với nửa đầu tháng 7/2022. Việt Nam là nước triển khai tiêm vaccine phòng Covid-19 với quy mô rộng rãi, nhiều đối tượng, nhiều mũi tiêm và sử dụng đa dạng các loại vaccine. Các bộ, ngành, các tổ chức chính trị xã hội và các địa phương đã rất nỗ lực đẩy nhanh tốc độ tiêm vaccine. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ghi nhận và đánh giá Việt Nam có chiến lược sử dụng vaccine phù hợp, hiệu quả với cam kết thực hiện của toàn hệ thống chính trị và người dân.