Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

Thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch

 

 Lợi dụng những hạn chế, thiếu sót cả về đường lối và chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, quản lý, điều hành xã hội, công tác cán bộ để minh chứng cho sự cần thiết “chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng”. Các thế lực thù địch, ra sức khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở các cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tham nhũng, tha hoá, kích động nhằm tạo sự phân hoá sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết trong Đảng và giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Chúng tập hợp lực lượng, thành lập các tổ chức phản động hô hào, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trắng trợn hơn, chúng đã ra sức xây dựng, nhen nhóm các tổ chức đảng đối lập phản động như cái gọi là “Đảng Việt Tân”, Khối 8406, “Đảng Dân chủ”, “Đảng Dân chủ xã hội”, Quỹ người Thượng...

 Trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay, vấn đề con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng ta xác định trong Cương lĩnh, đường lối luôn là một trong những chủ đề nóng bỏng nhất mà các thế lực thù địch tập trung công kích, chống phá với những luận điệu xuyên tạc, giả dối và hằn học. Chúng cho rằng, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, và hiện nay Chủ nghĩa tư bản đang ngày càng phát triển trên phạm vi toàn thế giới, nên Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, là “đi theo vết xe đổ của Liên Xô”. Chúng cho rằng hiện nay thế giới đang toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, hầu hết các nước trên thế giới đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nên Việt Nam không thể giữ mãi định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là không phù hợp, là trái với quy luật tự nhiên; Chúng lập luận, giá như Việt Nam không đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, mà đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì đất nước không phải lâm vào mấy chục năm chiến tranh tàn khốc “nồi da xáo thịt” và kinh tế sẽ phát triển như Mỹ, Hàn, Nhật... Do đó, chúng “khuyên” Việt Nam hãy thay đổi tư duy từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa cũng chưa muộn. Chúng đòi xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đối với Quân đội, đòi thực hiện cơ chế tam quyền phân lập trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và khuyên Việt Nam từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chúng thường đồng nhất những yếu kém, hạn chế của chủ nghĩa xã hội hay những sai lầm, hạn chế của một số Đảng cộng sản để minh chứng Việt Nam phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Như gần đây ngày 02/02/2023, Hạ viện Mỹ chính thức thông qua Nghị quyết “Lên án sự khủng khiếp của chủ nghĩa xã hội” quy kết những tội ác của CNXH qua 09 điểm, đây là thủ đoạn chính trị của một số Nghị sĩ Mỹ với thái độ thù địch, chống phá quyết liệt đối với Chủ nghĩa xã hội. Đằng sau tất cả những luận điệu ấy, chúng không ngoài mục đích hàng đầu và quan trọng nhất là hòng xóa bỏ CNXH trên phạm vi toàn thế giới trong đó có Việt Nam chúng ta, làm suy yếu, đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo và loại bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Đó chính là mưu đồ hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của chúng. Vì thế, đòi hỏi chúng ta cần phải có những giải pháp phù hợp đấu tranh có hiệu quả chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

Luận điệu chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch

 

Cùng với nhiều văn kiện khác của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc... Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Nhằm xuyên tạc, phủ nhận điều được khẳng định trên trong Cương lĩnh, các thế lực thù địch tập trung tung ra nhiều luận điệu đòi thực hiện đa đảng đối lập. Chúng phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam không chịu thay đổi tư duy kinh tế, đổi mới về chính trị, chúng cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là độc tài, ở Việt Nam “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”, chế độ và thể chế chính trị một đảng duy nhất cầm quyền là mảnh đất tốt cho sự nảy sinh, dung dưỡng và phát triển tư tưởng, hành vi chuyên quyền, độc đoán, từ đó dẫn đến sự lộng hành quyền lực của Đảng, Nhà nước, gây mất dân chủ, làm rối loạn chính trị, bế tắc kinh tế, cản trở quá trình phát triển xã hội. Các thế lực thù địch đòi Việt Nam phải sửa đổi Hiến pháp, xoá bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013 với âm mưu xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng.

 

Cần nhận rõ mục tiêu của các thế lực thù địch trong chống phá cách mạng Việt Nam

 

Mục tiêu cuối cùng của các thế lực thù địch là chống phá tận gốc về tư tưởng chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. “Phi chính trị hóa”, vô hiệu hóa quân đội và lực lượng công an, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xét lại lịch sử, làm cho nhân dân Việt Nam nghi ngờ thành quả cách mạng trong quá khứ, nhìn vào thực tại chỉ thấy đất nước kém phát triển so với các cường quốc, xã hội tiêu cực, bất công, không có dân chủ, tham những tràn lan.... Chúng làm cho đại đa số nhân dân và một bộ phận cán bộ, đảng viên tin rằng mọi khuyết điểm, yếu kém, tiêu cực đều do Đảng và việc lựa chọn định hướng xã hội chủ nghĩa là sai lầm, không phù hợp với điều kiện của Việt Nam, từ đó làm suy giảm ý chí, mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoài nghi, bất bình âm ỉ trong xã hội, nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, công lao vĩ đại của Bác Hồ và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Do đặc thù của đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Cương lĩnh, đường lối của Đảng đòi hỏi trước hết và quyết liệt nhất là phải đấu tranh trực diện phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, phản động, đặt ra phải phát huy hơn nữa vai trò chỉ đạo của Ban Chỉ đạo 35 ở các cấp, trong đó Lực lượng 47 giữ vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh. Chính vì thế, phải tập trung xây dựng lực lượng này thực sự tiên phong, có dũng khí đấu tranh, có quyết tâm cao, kiên trì, bền bỉ, dũng cảm, nêu cao tính Đảng, tính chiến đấu, tính khoa học, nhạy bén và sắc sảo trong đấu tranh, chú trọng xây dựng và phát huy hơn nữa đội ngũ cán bộ chính trị các cấp. 

 

Nhận diện sự xuyên tạc, chống phá, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến khó lường, chúng ta đã đạt được những bước tiến mới trên các lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế, quốc phòng-an ninh, đối ngoại…đã mở ra một kỷ nguyên mới và vị thế mới của Việt nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên những khó khăn, phức tạp trong đời sống xã hội, nhất là sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, hoang mang, dao động, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân ta đã chọn. Các thế lực thù địch đã và đang dùng mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc để tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng bằng các hình thức xuyên tạc, phủ nhận Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng; xuyên tạc lịch sử Đảng; bôi nhọ cá nhân các lãnh tụ, lãnh đạo của Đảng; lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm của Đảng để xuyên tạc bản chất Đảng, ca ngợi chủ nghĩa tư bản để phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội…, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, dân chủ, đàn áp tôn giáo, chúng kết hợp soạn các các tài liệu văn bản và dàn dựng, cắt ghép các video tung lên mạng xã hội hòng cố tình đổi trắng thay đen, dựng chuyện Việt Nam đàn áp tôn giáo, dành đất, kỳ thị, phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số; chia rẽ khối đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân. Các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa, từng bước làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội nói riêng. Do vậy trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch thì việc nhận diện các loại quan điểm xuyên tạc, chống phá, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là việc làm cấp bách và đặc biệt quan trọng.

 

Đấu tranh phản bác biểu hiện “lệch chuẩn về văn hóa” trên không gian mạng

 

Hoạt động nhận diện, đấu tranh phản bác biểu hiện “lệch chuẩn về văn hóa” trên không gian mạng là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Theo đó, các cấp ủy, chính quyền và toàn xã hội cần tập trung làm tốt một số biện pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” tới mọi người dân. Qua đó, xác định tốt chức trách, nhiệm vụ, nâng cao ý thức, trách nhiệm của công dân trong tham gia mạng xã hội, tuyên truyền giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc. Đồng thời, cần nhận diện, tích cực đấu tranh với những hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp ấn phẩm văn hóa đồi trụy, hành vi bạo lực, lối sống vô văn hóa, phi vô sản. Theo đó, cần quán triệt những yêu cầu của Đảng: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam[1], để có cái nhìn toàn diện, đầy đủ, sâu sắc hơn về những vấn đề chính trị - xã hội phức tạp. Đặc biệt, những vấn đề tiêu cực trên internet, mạng xã hội đã và đang tác động không nhỏ đến nhận thức, tư tưởng, tâm lý, lối sống của nhân dân nếu họ không có mục tiêu, lý tưởng phấn đấu rõ ràng, bản lĩnh chính trị không vững vàng, không đủ khả năng phát hiện, phân biệt đúng - sai, tốt - xấu, tiến bộ - lạc hậu ...

Hai là, phát huy trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong định hướng, điều chỉnh, hướng dẫn công dân nói chung và thế hệ trẻ nói riêng nhận biết được đúng, sai, điều chỉnh hành động một cách đúng đắn. Hiện nay, vẫn còn tình trạng gia đình, nhà trường và các tổ chức đoàn thể chưa thật sự quan tâm, coi trọng đúng mức đến việc giáo dục, dìu dắt, chỉ bảo đối với thế hệ trẻ. Nhiều gia đình vì mải mê kiếm sống mà sao nhãng, bỏ qua việc giáo dục con. Nhiều trường học chỉ chú trọng phần học “văn” mà bỏ qua phần “lễ”, coi trọng giáo dục kiến thức mà xem nhẹ giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh. Vẫn còn nhiều tổ chức đoàn thể hoạt động theo phong trào, bề nổi lấy thành tích, chưa tạo ra những hoạt động thực tiễn, theo chiều sâu có tác dụng lôi kéo, thúc đẩy các em tham gia các hoạt động văn hóa, tinh thần, chưa định hướng lý tưởng trong các hoạt động văn hóa, xã hội cho giới trẻ. Do đó, sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường, các đoàn, hội trong công tác giáo dục, định hướng công dân là việc làm cần thiết và mang tính cấp bách. Cơ quan báo chí phải chú trọng công tác in ấn, xuất bản, phát hành tin bài theo đúng quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật nhà nước, định hướng dư luận xã hội, thay đổi hành vi cộng đồng bằng cách nêu nhiều gương tốt, phê phán cái xấu; báo chí không chỉ mô tả, phản ánh các vụ việc, hành vi văn hóa, mà phải phân tích thấu đáo, từ đó đưa ra khuyến nghị về phong cách ứng xử, lối sống có văn hóa trong xã hội cho người dân.

Ba là, tăng cường công tác quản lý hệ thống mạng xã hội, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những hành vi “lệch chuẩn về văn hóa”. Toàn xã hội cần lên tiếng tố giác, tẩy chay những nội dung, thông tin xấu độc. Các cơ quan chức năng cần kiểm tra, giám sát và triệt xóa những nội dung thông tin “lệch chuẩn về văn hóa”; xử phạt nghiêm các đối tượng vi phạm. Các cấp, các ngành và toàn xã hội cần đẩy mạnh tuyên truyền Luật an ninh mạng và các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt đông tham gia mạng xã hội để nâng cao ý thức, trách nhiệm của cộng đồng trong thực hiện các biện pháp phòng ngừa. Ngành giáo dục và đào tạo chỉ đạo các trường học tăng cường tuyên truyền về tác hại của việc sử dụng internet không lành mạnh; cách sử dụng thông tin trên mạng hiệu quả; cách nhận biết dấu hiệu bị xâm hại, lạm dụng trên mạng xã hội nhằm tuyên truyền, đăng tải, bình luận các thông tin, vấn đề, sự kiện nhằm mục đích trục lợi.

Bốn là, tích cực trong công tác bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng cho nhân dân, nhất là thanh thiếu niên. Công tác giáo dục đạo đức, bồi đắp niềm tin cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là thanh niên giữ vai trò vô cùng cần thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa còn căn dặn trong Di chúc: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Trước sự hội nhập về văn hóa toàn cầu, tuổi trẻ rất dễ bị tiêm nhiễm văn hóa độc hại, cổ súy lối sống lai căng, tư tưởng lệch lạc. Trong bối cảnh ấy, chúng ta càng phải quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện thế hệ thanh niên có đủ đức, tài, niềm tin, khát vọng để xứng đáng với vị thế, trọng trách cao cả của mình đối với dân tộc và Tổ quốc.

Tóm lại, nhận diện, đấu tranh phản bác biểu hiện “lệch chuẩn về văn hóa” trên không gian mạng là một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, then chốt trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Theo đó, mỗi biện pháp nêu trên có vị trí, vai trò, nội dung và yêu cầu thực hiện khác nhau, song có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Sự quyết tâm thực hiện một số biện pháp nêu trên sẽ góp phần tăng cường công tác giữ gìn an ninh mạng, phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng, chỉ rõ vấn đề, giúp nâng cao nhận thức, góp phần xây dựng thành công nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tập 1, Hà Nội, 2021, tr. 181.

Nhận diện sự “Lệch chuẩn về văn hóa” trên không gian mạng

 

Để nhận diện rõ những biểu hiện “lệch chuẩn về văn hóa” trên không gian mạng cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, sử dụng mạng xã hội với mục đích trục lợi. Không ít người đã đưa các bài viết, hình ảnh nhằm câu “view”, câu “like”, đánh bóng tên tuổi hoặc thực hiện Live stream trực tiếp chia sẻ những hình ảnh, sự việc phản cảm, trái với thuần phong mĩ tục, suy đồi về đạo đức lối sống, mang tính bạo lực hoặc tham gia bình luận trái chiều trên mạng xã hội. Đây là thủ đoạn dùng tài khoản Facebook với công cụ Live stream để phát videoclip trực tiếp về một sự việc hoặc “lên sóng” trực tiếp trên mạng xã hội để tạo “diễn đàn” kêu gọi mọi người tham gia bình luận, chia sẻ về một vấn đề “nóng” được dư luận xã hội quan tâm. Hoạt động này được xây dựng “kịch bản” khá công phu, nội dung đa dạng trên nhiều lĩnh vực trong đó lĩnh vực văn hóa giữ vai trò then chốt.

Thứ hai, các thế lực thù địch còn sử dụng “khoảng trống thông tin” để tấn công vào sự hiếu kỳ của công chúng. Lợi dụng “khoảng trống thông tin”, chúng phát tán ồ ạt, trực tiếp những tin, bài xuyên tạc, bóp méo sự thật, thông qua những tiêu đề “giật gân”, “câu khách” về vấn đề dư luận đang quan tâm, nhất là vấn đề liên quan đến nội bộ Đảng, Nhà nước, tham nhũng, tiêu cực dưới các dạng như: thông tin sự việc, đặt câu hỏi, bỏ ngỏ vấn đề để bạn đọc suy ngẫm,… Tán phát các ấn phẩm văn học, nghệ thuật, phim, tài liệu có quan điểm sai trái, thù địch để tuyên truyền chống phá, móc nối, lôi kéo các đối tượng cơ hội chính trị có cả cán bộ đương chức, có tướng lĩnh đã nghỉ hưu và thành phần chống đối trong trí thức, văn nghệ sĩ tăng cường chống Đảng, cổ xúy cho “dân chủ tư sản”, “xã hội dân sự”, “xã hội dân chủ”.. Thời điểm chúng chọn để Live stream thường vào dịp có các sự kiện chính trị của Đảng, Nhà nước (các kỳ họp, ngày lễ, ngày kỷ niệm, nguyên thủ các nước đến thăm Việt Nam,…); qua đó, chúng kêu gọi sự can thiệp của quốc tế và các tổ chức phản động vào Việt Nam, hoặc chúng lồng ghép quan điểm cá nhân, bình luận xuyên tạc, thu hút sự quan tâm của cộng đồng mạng, kêu gọi sự “phụ họa” của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị tham gia bình luận, chia sẻ... Với những thông tin trộn lẫn thật giả, kích thích tính hiếu kỳ, tò mò của cộng đồng mạng muốn vào các trang Twiter, Facebook, Tiktok, Instagram, Pinteret, Zalo, Blog, FGT… và các tờ báo điện tử phản động, gây tâm lý hoang mang, bán tín, bán nghi về đời sống văn hóa của nhân dân.

Thứ ba, xu thế toàn cầu hoá đã tác động khá toàn diện đến mọi phương diện của đời sống văn hóa dân tộc. Xét trên phương diện tiêu cực, toàn cầu hoá cũng mang lại nhiều vấn đề khiến các quốc gia phải mau chóng tìm biện pháp giải quyết nếu không muốn bị hoà tan về văn hoá, bị thao túng bởi chính trị, bị dẫn dắt bởi kinh tế, xã hội trong nước bất ổn, môi trường tự nhiên và các nguồn tài nguyên bị tổn hại. Dưới góc nhìn từ triết lý nhân sinh, toàn cầu hoá là hiện tượng, là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người. Trong xu hướng ấy, có dòng chảy thuận, nhưng cũng có nhiều dòng chảy nghịch. Có những dòng chảy thực sự khai phóng, làm mới tư duy, tinh thần, lối sống, phong cách dân tộc, nhưng cũng có dòng chảy đang “cố tình” làm tan loãng, xoá mờ, thậm chí làm biến dạng “hồn cốt” văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia.

 

Sự “Lệch chuẩn về văn hóa” trên không gian mạng

 

Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Với đặc điểm nổi trội là tốc độ kết nối nhanh, phạm vi chia sẻ rộng, hiệu quả tác động lớn, internet, mạng xã hội trở thành môi trường cung cấp, chia sẻ, trao đổi, khai thác sử dụng thông tin, đem lại những lợi ích to lớn, từng bước khẳng định vai trò thiết yếu trong đời sống xã hội, tác động một cách trực tiếp, làm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá thể, qua đó tác động đến sự phát triển của toàn xã hội. Tuy nhiên, internet, mạng xã hội cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó đối với đời sống văn hóa xã hội và sự phát triển của đất nước.

Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, mỗi chúng ta đều dễ dàng có được những phương tiện để truy cập internet, mạng xã hội. Điều đó vừa tạo thuận lợi cho việc tiếp thu, chia sẻ thông tin, tình cảm, học hỏi, giao lưu văn hoá,… nhưng đồng thời cũng ẩn chứa hiểm hoạ khi người sử dụng không biết khai thác, tiếp nhận, xử lý, chia sẻ thông tin. Trong khi, mạng xã hội của chúng ta chưa được quản lý triệt để, có rất nhiều “rác thải” thông tin gây ảnh hưởng đến tâm lý, nhân cách và cả phong cách sống của người sử dụng. Với lượng thông tin lớn, người truy cập đa dạng về lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn, do đó khó phân biệt được hết cái tốt, cái xấu; với tính tò mò, thích khám phá cái mới, lạ, không được định hướng cũng như chưa biết tự kiểm soát, dễ dàng bị hấp dẫn và hòa nhập theo những lời nói, hành vi - biểu hiện “lệch chuẩn về văn hóa” đi ngược lại những giá trị, nét đẹp của văn hóa dân tộc ta.

Có thể khẳng định chưa bao giờ việc nhận diện và đấu tranh với những biểu hiện “lệch chuẩn về văn hóa” trên không gian mạng đã và đang diễn ra nóng bỏng, phức tạp và cấp bách như hiện nay. Nóng bỏng là vì nó liên quan trực tiếp đến những vấn đề “hót”, có tính thời sự; phức tạp và cấp bách là bởi không chỉ xuất phát từ nhận thức đến hành vi không đúng của một bộ phận xã hội mà còn bị các tổ chức, cá nhân lợi dụng để trục lợi bất chính, nguy hiểm hơn cả là dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “văn hoá” để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng trên không gian mạng, điều này đe dọa trực tiếp tới chiến lược phát triển con người Việt Nam, đến sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đặc biệt, trong khi một bộ phận không nhỏ nhân dân còn chủ quan, mơ hồ, mất cảnh giác, nhận thức chưa đầy đủ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh với biểu hiện “lệch chuẩn về văn hóa” trên không gian mạng trong thời gian gần đây.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO, LÀM CHỦ CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT QUỐC PHÒNG!

     Phát triển Công nghiệp quốc phòng, an ninh trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia!
Nhằm hướng tới phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại và lưỡng dụng theo phương châm tự lực, tự cường, cần phải xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao để nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, làm chủ công nghệ sản xuất, tránh sự lệ thuộc từ bên ngoài. Để làm được điều đó, cần có cơ chế tuyển dụng và chính sách ưu đãi đối với nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh.

Thu hút nhân lực chất lượng cao: Cần có cơ chế tuyển dụng và chính sách ưu đãi
Qua khảo sát thực tế tại một số nhà máy công nghiệp quốc phòng, lãnh đạo các đơn vị cho biết, hiện nay tại nhiều đơn vị xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao và rất khó tuyển dụng lao động có trình độ tay nghề, để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ sản xuất.

Minh chứng cho tình trạng “chảy máu” nguồn nhân lực đang xảy ra tại đơn vị, Thượng tá Nguyễn Hữu Đoan, Phó Giám đốc Nhà máy Z173 (Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Hồng Hà) cho biết: Trong những năm gần đây, nhà máy luôn đối mặt với tình trạng thiếu nguồn lao động trẻ và lực lượng kế cận. Trước đây, toàn nhà máy luôn có khoảng 60% nhân lực là đoàn viên, thanh niên nhưng hiện nay con số này chỉ là 6%. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là rất nhiều người lao động tay nghề cao, gắn bó lâu năm nhưng cũng xin chuyển công tác. Một phần là do thu nhập chưa đáp ứng được kỳ vọng của họ nhưng điều quan trọng nhất là họ đã có thời gian cống hiến lâu năm mà vẫn chưa hoàn thành ước mơ trở thành công nhân, viên chức quốc phòng, cao hơn nữa là được chuyển quân nhân chuyên nghiệp, được chính thức mặc trên mình bộ quân phục, một biểu tượng tự hào, hãnh diện của những người yêu quân đội, yêu đất nước, bởi chỉ tiêu biên chế mỗi năm vào công nhân, viên chức quốc phòng chỉ được 5 đến 7 trường hợp trong khi số người lao động lên đến hàng nghìn người.

Nhà máy Z121 (Công ty TNHH Một thành viên Hoá chất 21) và Nhà máy Z129 (Công ty TNHH một thành viên Cơ khí chính xác 29) là hai nhà máy có doanh thu và thu nhập bình quân của người lao động nằm trong top các nhà máy có doanh thu lớn nhất trong Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (hơn 20 triệu đồng/tháng) song vẫn rất khó khăn trong tuyển dụng lao động có tay nghề cao và giữ chân người lao động lâu năm bởi với họ tiền lương chưa đủ hấp dẫn cũng như thiếu chế độ ưu đãi đặc thù.

Để thu hút được nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu của các nhà máy công nghiệp quốc phòng, an ninh, nhằm hướng tới phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại hóa theo phương châm tự lực, tự cường, theo lãnh đạo chỉ huy các nhà máy công nghiệp quốc phòng cho rằng cần có những cơ chế tuyển dụng và chính sách ưu đãi đối với nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh.

Đại tá Chu Việt Sơn, Giám đốc Nhà máy Z121 chia sẻ, là đơn vị hạch toán kinh doanh nên lương của cán bộ, sĩ quan, người lao động tại nhà máy được hưởng theo kết quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Vì thế, nếu được tăng chỉ tiêu tuyển dụng công nhân, viên chức quốc phòng cho nhà máy gần như không ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước. Điều thay đổi lớn nhất liên quan tới chế độ về bảo hiểm y tế (bảo hiểm cho bản thân và bảo hiểm cho người thân), bảo hiểm xã hội, hoặc trong trường hợp không may có rủi ro, người lao động sẽ được bảo hiểm theo các chế độ, chính sách của quân đội. Nếu làm được thế, các đơn vị công nghiệp quốc phòng sẽ giữ chân người lao động có tay nghề cao.

Liên quan đến việc làm thế nào để thu hút và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp quốc phòng, Đại tá Nguyễn Gia Trọng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Nhà máy Z127 (Công ty TNHH một thành viên 27) đánh giá cao dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, trong đó có quy định về người đại diện theo pháp luật của công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt được thuê và trả mức chi trả cho chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư theo thỏa thuận, tương ứng với nhiệm vụ được giao; người đứng đầu cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt được sử dụng kinh phí chi thường xuyên giao hàng năm và nguồn thu hợp pháp để thuê chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, người có tài năng đặc biệt thực hiện được giao. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng để các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh thu hút và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao.

Được biết, trong quá trình xây dựng dự án luật, cơ quan soạn thảo đã xác định một trong những nội dung quan trọng là phải xây dựng được chính sách thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công nghiệp quốc phòng , an ninh. Theo đó, dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp quy định về chế độ, chính sách đối với người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt, cơ sở công nghiệp động viên.

Nhấn mạnh đây là những quy định hoàn toàn vượt trội so với các quy định hiện hành của các luật chuyên ngành, Đại tá Nguyễn Phi Trường, Chủ tịch Nhà máy Z129 (Công ty TNHH một thành viên Cơ khí chính xác 29) cho rằng, dự thảo Luật quy định về chế độ, chính sách đối với người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt, cơ sở công nghiệp động viên. Trong đó, xác định một số chế độ, chính sách đặc biệt, đặc thù, hoàn toàn vượt trội đối với đối tượng là chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư tham gia hoạt động công nghiệp quốc phòng, an ninh như đàm phán mức lương, thưởng lợi ích từ kết quả công việc theo thỏa thuận, được giao thẩm quyền và trách nhiệm triển khai các chương trình, đề án khoa học và công nghệ, bảo đảm tính an ninh, an toàn...

Thúc đẩy hoạt động khoa học - công nghệ, phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh
Thúc đẩy hoạt động, khoa học, công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh là một trong 5 chính sách lớn đã được các cơ quan chức năng nghiên cứu kỹ để xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Việc nghiên cứu để làm chủ công nghệ và tự sản xuất được cái loại vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ là cốt lõi của công nghiệp quốc phòng, an ninh.

Theo đó, để xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, yêu cầu về làm chủ khoa học, công nghệ luôn được đặt lên hàng đầu. Với mục tiêu thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh, dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đã cụ thể hóa bằng các chính sách, khuyến khích, hỗ trợ, bảo vệ và trao quyền tự chủ để phát huy hơn nữa đổi mới, sáng tạo.

Xác định việc xây dựng các yêu cầu, nội dung trong hoạt động khoa học- công nghệ và đổi mới sáng tạo, phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh là rất cần thiết trong điều kiện khoa học, công nghệ phát triển như hiện nay, các nhà máy công nghiệp quốc phòng như Z127 (Công ty TNHH một thành viên 27), Nhà máy 173 (Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Hồng Hà), Nhà máy Z113 (Công ty TNHH một thành viên Cơ khí hóa chất 13), Nhà máy Z189 (Công ty TNHH một thành viên 189) luôn chú trọng đến công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ và đây là ưu tiên hàng đầu nhằm hiện thực hóa các mục tiêu, kế hoạch đề ra với kết quả cao nhất.

Là một trong những đơn vị đóng tàu hàng đầu của Quân đội - Nhà máy Z189 luôn quan tâm, tạo điều kiện và có cơ chế, chính sách trong hoạt động nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ; kịp thời động viên, thúc đẩy cán bộ, công nhân viên người lao động tích cực tham gia nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất. Trong giai đoạn từ năm 2018 –2022, Nhà máy Z189 đã thực hiện được 5 đề tài nghiên cứu cấp Tổng cục, 1 đề tài cấp cơ sở; phát huy 192 sáng kiến, giải pháp được áp dụng vào thực tế sản xuất đem lại hiệu quả cao, giá trị làm lợi hàng chục tỷ đồng, trong đó có 3 sáng kiến đoạt giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội. Những cá nhân có nhiều thành tích trong nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến được khen thưởng xứng đáng, tạo điều kiện chuyển quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng và nâng lương trước thời hạn... Sự động viên kịp thời giúp cán bộ, công nhân viên quốc phòng tại Nhà máy vững tâm, cống hiến hết mình để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Cũng như Nhà máy Z189, trong thời gian qua, nhờ tập trung vào công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, Nhà máy Z113 (Công ty TNHH một thành viên Cơ khí hóa chất 13) đã nghiên cứu, sản xuất thành công nhiều sản phẩm mới. Trong đó, có một số sản phẩm trước đây phải nhập khẩu nay đã được Nhà máy tự chủ về sản xuất, góp phần tiết kiệm nguồn ngoại tệ, bảo đảm trang bi cho quân đội, phục vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt, đối với sản phẩm kinh tế, công tác nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới dựa trên thế mạnh của đơn vị như lĩnh vực hóa nổ, cơ khí, từ đó, góp phần tạo ra sản phẩm chủ lực không những đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước mà còn hướng đến xuất khẩu.

Liên quan đến việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công nghệ tại đơn vị, Đại tá Nguyễn Quý Hoài, Phó Giám đốc kỹ thuật Nhà máy Z176 (Công ty TNHH Một thành viên 76) cho biết: Xác định đổi mới công nghệ, tự động hóa trang - thiết bị sản xuất luôn là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu, có vai trò rất quan trọng, quyết định đến năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, nên trong những năm qua, Nhà máy Z176 luôn chú trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; tối ưu hóa sản xuất, dịch chuyển cơ cấu sản xuất để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh…. Qua đó, nhiều công trình, đề tài có hàm lượng kỹ thuật cao được nghiên cứu và ứng dụng thành công trong thực tiễn, như: Ứng dụng công nghệ dán siêu âm tự động thay thế cho công nghệ may truyền thống nhóm sản phẩm Frakta; công nghệ xẻ vải microfie thay cho công nghệ may vắt sổ; công nghệ sản xuất các sản phẩm lều phục vụ xuất khẩu và nhiệm vụ quốc phòng; công nghệ kéo sợi tăng tỷ lệ nhựa phế liệu; công nghệ dán các sản phẩm dạng bơm hơi; công nghệ in Flexo; công nghệ sản xuất tấm nilon mưa và vải vinilon cán PVC trên máy cán 4 trục…

Thực tế trên cho thấy, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong sản xuất trong các đơn vị công nghiệp quốc phòng, an ninh là một xu thế tất yếu khách quan. Chính vì vậy, dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đã cụ thể hóa chính sách thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ, phục vụ phát triển công nghiệp, quốc phòng an ninh tại mục riêng. Trong đó, chính sách đối với hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh và cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt. Theo dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, bên cạnh việc được hưởng các ưu đãi theo quy định của pháp luật chuyên ngành, còn được trao quyền tự chủ trong quá trình hoạt động cũng như được bảo đảm đầy đủ các điều kiện cần thiết khi thực hiện nhiệm vụ.

Đề cập đến những rủi ro, tai nạn xảy ra trong hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh, Đại tá Nguyễn Gia Trọng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công ty TNHH một thành viên 27 (Nhà máy Z127) cho rằng, hoạt động nghiên cứu khoa học bao giờ cũng có hệ số rủi ro nhất định. Nhận thức rõ những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ từ khả năng nghiên cứu, thử nghiệm đến việc có thể xảy ra tai nạn, sự cố, cơ quan soạn thảo đã đề xuất và được Quốc hội đồng thuận để quy định trong dự thảo luật về trường hợp và điều kiện miễn trách nhiệm dân sự đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân khi thực hiện hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ sản xuất quốc phòng, an ninh. Ngoài ra, dự thảo luật cũng đã bổ sung quy định giao Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với cá nhân trong quá trình thực hiện hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ.

Đánh giá về các quy định trong dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp liên quan đến chính sách về khoa học công nghệ, đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An, Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội cho rằng, chính sách về khoa học công nghệ của dự thảo luật đang bám rất sát với mục tiêu của việc xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh mang tính hiện đại, vượt qua chính sách đơn giản để đầu tư, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ nền, công nghệ lõi, hướng đến làm chủ khoa học, công nghệ, hướng tới phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại hóa theo phương châm tự lực, tự cường./.



Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGA CÓ THỂ GIÚP VIỆT NAM XÂY DỰNG NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN!

     Nga có thể xây dựng ở Việt Nam cả nhà máy điện hạt nhân theo kiểu Ninh Thuận-1 hoặc một nhà máy loại khác, sự lựa chọn thuộc về nước chủ nhà, người đứng đầu Rosatom Alexei Likhachev nói với Sputnik!

“Chúng tôi hiện vẫn chưa biết các đối tác của mình sẽ chọn hình thức hợp tác nào - đó sẽ là Ninh Thuận-1 hay một nhà máy công suất cao khác, hoặc các tổ máy nhỏ theo phương án xây dựng trên đất liền hoặc nổi trên biển”, - ông Likhachev nói về triển vọng nối lại đàm phán với Việt Nam về việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở nước này.

Đối với NMĐHN Ninh Thuận-1, Rosatom từng đề xuất dự án dựa trên các tổ máy công suất lớn với các lò phản ứng VVER-1200 tiên tiến của Nga. Hiện nay Rosatom không chỉ cung cấp cho các đối tác nước ngoài loại nhà máy điện hạt nhân công suất lớn mà còn cả các nhà máy công suất thấp được xây dựng cả trên đất liền và trên biển./.
Yêu nước ST.

 

Đại đoàn kết toàn dân tộc - Cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam

Đảng luôn xác định, đoàn kết là giá trị cốt lõi, đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

 NHÂN DÂN ĐÓNG VAI TRÒ CHỦ THỂ, VỊ TRÍ TRUNG TÂM TRONG  QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Trong hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng của Người về đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, được cụ thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh lớn nhất là ở nhân dân, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1), đoàn kết được nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn nhất. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”(2). Người căn dặn: Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”(3).

Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Ngay sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan điểm đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng, đưa lên nhiệm vụ hàng đầu. Cùng với việc thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, ngày 24/5/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thống nhất các đoàn thể nhân dân và các tổ chức Mặt trận dân tộc trong cả nước (Các tổ chức Mặt trận là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam). Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận cả nước được tổ chức trọng thể tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 31/1 đến ngày 4/2/1977, quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh dấu bước phát triển lớn mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên phạm vi cả nước, mở ra một thời kỳ hoạt động mới của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, góp phần tích cực vào công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của dân tộc.

Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Muốn đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Xây dựng chế độ làm chủ tập thể là xây dựng một xã hội, trong đó, người làm chủ là nhân dân lao động, có tổ chức mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Quan điểm này đã được Đại hội V của Đảng khẳng định: Thành công rực rỡ của Đảng và nhân dân ta đã nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt nhà nước, triển khai thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo cuả Đảng. Tăng cường Nhà nước là vấn đề cấp bách để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới đề cập trực tiếp đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc như: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”.

Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước, trong đó nhấn mạnh hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: (1) Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…; (2) Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.

Đến Đại hội VIII, Văn kiện Đại hội một lần nữa khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”.

Đại hội IX nhấn mạnh: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.

Đại hội X chỉ rõ, nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội; coi đó là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(4).

Tiếp tục khẳng định quan điểm của các nhiệm kỳ đại hội trước, Đại hội XI chỉ rõ: Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân…”.

Đại hội XII nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(5). Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung một số nội dung, phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của Nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số. (Ảnh tư liệu)

Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số. (Ảnh tư liệu)

ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC - CỘI NGUỒN SỨC MẠNH CỦA MỌI THÀNH CÔNG

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của mọi thành công, chiến thắng. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn.

Vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề những năm sau khi đất nước thống nhất bởi hậu quả tàn phá nặng nề của chiến tranh kéo dài chưa kịp được khắc phục, đất nước bị bao vây, cấm vận, mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bộc lộ nhiều khiếm khuyết…, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng mặt trận dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc và phát huy mạnh mẽ vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa đất nước tiến lên.

Chỉ thị số 17-CT/TW của Đảng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển của Mặt trận, đề cao vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc, có ý nghĩa thiết thực đối với việc tạo ra sức mạnh nội sinh để đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng; tạo điều kiện, tiền đề để phá bỏ bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân; động viên Nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội kịp thời có chính sách, pháp luật đúng đắn, phù hợp với mọi lực lượng nhân dân tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần động viên nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, năng động, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, mở rộng quan hệ hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.

Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, Đảng ta và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể đồng bào ở trong nước và ngoài nước đã đoàn kết, chung sức đồng lòng, quyết tâm “chống dịch như chống giặc” để từng bước đẩy lùi và vượt qua đại dịch COVID-19. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò nòng cốt trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; vận động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân; vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước và các chương trình an sinh xã hội...

Những kết quả đạt được trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng tầm cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet)

Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet)

Đánh giá những thành tựu đạt được, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Những thành tựu này đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung một số nội dung, phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của Nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
 

NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUÝ BÁU

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, có vai trò quyết định thành công của cách mạng

Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc vì lợi ích của nhân dân, lợi ích của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc... để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta cần đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

Trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán xác định đoàn kết là giá trị cốt lõi trong kho tàng truyền thống quý báu của dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu mang đến thành công cho cách mạng Việt Nam. Đây cũng là giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho chiến lược đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam đi tới thắng lợi.

Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc “là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(6).

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và coi đó là một nguyên tắc có ý nghĩa như là một quy luật để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu vì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác-Lênin mới đánh giá đúng vai trò, sức mạnh của nhân dân Việt Nam trong lịch sử.

Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động; đồng thời quan tâm đến quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân

Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc - thực hiện đại đoàn kết trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. Trước đây, trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc thì lợi ích tối thượng chung là giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Nếu không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa củng cố miền Bắc và giải phóng miền Nam; giữa cải thiện đời sống của nhân dân lao động với việc xóa bỏ giai cấp địa chủ và cải tạo đối với giai cấp tư sản dân tộc. Trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp lúc đó, để khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, mặt trận dân tộc thống nhất phải được mở rộng, Đảng đã nêu nguyên tắc tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, giàu mạnh, coi đó là mẫu số chung để thực hiện đoàn kết dân tộc.

Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu đó cũng chính là đích đến quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự hòa quyện giữa Ý Đảng - Lòng Dân; giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân.

PHÁT HUY VAI TRÒ, SỨC MẠNH CỦA CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG THỰC HIỆN ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược tạo ra sức mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đảng luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện dân chủ trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở tất cả các cấp các ngành. Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong đó, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc: lấy dân làm gốc, phát huy quyền làm chủ của dân, nguồn lực nhân dân, thực hiện đoàn kết toàn dân; lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng và do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động; tổ chức đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất; lấy tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục làm phương thức hoạt động chủ yếu.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược tạo ra sức mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Nguồn: PGS. TS Lê Hải Bình
Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng,
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương