Thứ Ba, 25 tháng 6, 2024

HUYỀN THOẠI MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG GIẢ TRAI ĐI ĐÁNH GIẶC

 Trong lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, có lẽ Mẹ VNAH - Thiếu tá Trần Thị Quang Mẫn là trường hợp duy nhất cải nam trang đi đánh giặc. Từ một cô gái xinh đẹp, da trắng, tóc đen dài, bà phơi nắng, cắt tóc như con trai, gào thét cho vỡ giọng để có tiếng nói được ồm ồm như đàn ông…

🇻🇳"ANH" CHIẾN SĨ TRẦN QUANG MẪN
Ngày đó, sống trong hoàn cảnh đất nước bị chiến tranh nên từ nhỏ bà Mẫn đã có ý thức và trách nhiệm muốn đóng góp công sức cho nước nhà. Dù bị gia đình ngăn cấm nhưng bà Mẫn rủ em gái cùng tham gia hoạt động cách mạng. Vốn được học võ từ nhỏ, lại thêm tính cách gan dạ, muốn trực tiếp cầm súng tham gia đánh giặc nên bà xin gia nhập Vệ Quốc đoàn. Tuy nhiên, đơn vị này chỉ nhân nam quân nhân nên bà phải tìm cách giả trai. Bằng nhiều cách, từ cắt tóc ngắn, quấn chặt ngực, tập thay đổi dáng đi, giọng nói, rèn luyện thể lực, bà Mẫn “biến” mình giống con trai nhất có thể. Cái tên Trần Thị Sáu nhường cho cái tên Trần Quang Mẫn ra đời từ đó. Đầu năm 1946, bà Mẫn trở thành tân binh của Trung đội 1, Đại đội 70, Chi đội 124 của Bộ đội Huỳnh Thủ hoạt động ở Vĩnh Thuận (Kiên Giang).
Nam giới đi đánh giặc vốn đã cực khổ, người cải trang như bà càng khổ hơn. Mỗi tháng, sắp tới ngày của phụ nữ, bà lấy rau răm giã nát, đổ rượu trắng vào uống nửa chén. Đây là "bài thuốc" bà học lóm từ người chị lớn. Áo quần mặc phải rộng hơn, ngủ trong nóp, tắm phải dòm trước ngó sau. Cũng may là sau một ngày đánh giặc mệt mỏi, mạnh ai nấy nhảy ào xuống sông tắm cho nhanh lên nghỉ nên không ai chú ý đến "anh" Mẫn da trắng trẻo như con gái.
“Lần đầu tiên được ôm cây súng, thấy nặng nhưng khoái lắm. Súng của Đức hai ký mấy lận. Riết rồi thấy quen. Lần lần tập bắn súng máy, tập tháo ráp, trườn bò, đứng bắn, nằm bắn, tập xáp lá cà, đâm lê... Rồi hành quân ban đêm. Có bữa đi vài ba cây số, có khi đi mười mấy cây số cũng có. Đàn ông làm gì mình làm vậy” - má Sáu Mẫn cười khi hồi tưởng chuyện quá khứ.
Sau mấy lần được giao nhiệm vụ đi trinh sát dẫn bộ đội đánh đồn, chỉ sau mấy tháng nhập ngũ, chiến sĩ Trần Quang Mẫn đã được kết nạp Đảng. Khi đó Sáu Mẫn vừa tròn 18 tuổi. Vốn là người gan dạ, thông minh, Sáu Mẫn được cử đi học sĩ quan ở Trường Quân chính Quang Trung. Năm 1947 trở về đơn vị, cô chỉ huy đại đội 70 (đại đội cảnh vệ - sau này là trung đoàn 124 thuộc Quân khu 9). Khi đó “anh” Trần Quang Mẫn 21 tuổi.
Cho đến một ngày, người bộ đội ở tiểu đoàn 401 (bộ đội địa phương huyện Phú Quốc) tên Nguyễn Văn Bé (Mười Bé) đi tìm “cô” Trần Quang Mẫn đòi cưới vì đó là người vợ đã được hứa hôn. Một đám cưới kỳ lạ đã diễn ra. “Mấy bà má cứ theo hỏi hoài. Tui cười biểu chừng đó má hay. Tới chừng vô làm đám tuyên bố, mấy đứa con nít la dữ lắm: Đàn ông mà đi cưới đàn ông”, bà kể. Đám cưới, cô dâu chú rể đều mặc đồ bộ đội của nam. Không áo cưới, không hoa, không cả quà cưới. Đơn vị tuyên bố. Mấy bà má nấu bánh canh, nấu chè mừng cho đôi trẻ.
🇻🇳CUỘC ĐỜI LÀM VỢ CHỈ GẶP CHỒNG ĐƯỢC BỐN LẦN
Ngày 23-4-1952, chồng bà hi sinh khi tham gia trận đánh vào đồn Chàng Chẹt (Rạch Giá). “Đồng đội kể đêm đó trước khi công đồn, ổng nói với anh em: "Tui đi như vầy chắc ở nhà Sáu Mẫn sanh con rồi".
Tui cũng đâu hay ổng hi sinh. Chị Chín Lé đi công tác ghé qua bảo: Mười Bé hi sinh, chôn chung 11 người. Lúc đó tui mới hay. Ổng hi sinh khi tui sanh thằng nhỏ mới được bốn ngày...” - bà khóc khi nhớ lại ký ức đau đớn ấy.
Cả đời bà những lúc còn chồng, còn con thì thời gian gần gũi bên những người yêu thương nhất quá ngắn ngủi. “Cưới nhau được hơn tuần lễ ổng phải trở về đơn vị - bà kể - Tụi tui gặp nhau thêm hai lần, mỗi lần chừng 3-4 ngày. Khi có thai thằng Hưng gần hai tháng, vợ chồng tui mới gặp lại nhau lần nữa”.
Và đó cũng là lần cuối cùng họ nhìn thấy nhau... Chồng hi sinh khi bà sinh con mới được bốn ngày. Và cuộc đời làm vợ của bà cũng chỉ gặp chồng được bốn lần.
Lúc con trai mới được 5-6 tháng tuổi, bà phải dằn lòng gửi con cho ông bà ngoại nuôi giùm, trở về đơn vị chiến đấu cùng đồng đội. Kể từ đó, bà không gặp lại con nữa cho đến 5-6 năm sau khi đang ở trong tù. “Hồi địch nhốt tui ở trại giam Phú Lợi, một bữa tui thấy bà già, nhỏ em gái dẫn theo thằng nhỏ chừng 5-6 tuổi vô thăm. Tui đâu biết nó là con mình, tưởng con của nhỏ em”, bà cười thiệt buồn kể.
🇻🇳"CHẾT" MỘT LẦN NỮA SAU 15 NĂM NGÀY CHỒNG HY SINH
Sau lần gặp ngắn ngủi đó, bà bị đày ra Côn Đảo. Khi được thả về, Quốc Hưng đã 14 tuổi và đã đi theo các anh bộ đội được bốn năm.
Bà không hay khi mình đang trong tù, mới 10 tuổi Quốc Hưng đã trốn ông bà ngoại lên tỉnh đội Rạch Giá xin làm liên lạc. Ai cũng biết đó là giọt máu duy nhất của bà và liệt sĩ Mười Bé nên tìm cách bảo vệ Hưng, chờ ngày hai mẹ con sum họp. Cán bộ tỉnh đội bố trí cho Hưng làm liên lạc ở đội U Minh 10.
“Tới lúc ở Côn Đảo về tui mới gặp lại con. Nó giống cha như đúc. Nó nằng nặc xin sang bộ phận trinh sát. Biết tính con cũng như mình ngày trước, tui không nỡ cản”, bà kể.
Một năm sau, bà đau đớn nhận tin đứa con duy nhất cũng hi sinh. 15 năm sau ngày chồng hi sinh, bà lại chết một lần nữa. “Hồi thằng Hưng hi sinh tui cũng đâu có hay. Tới bữa có người báo: Cô có hay gì không? Thằng Quốc Hưng hi sinh 3-4 bữa rồi cô hổng hay hả?...” - bà kể rồi lặng đi, để cho những dòng nước mắt chảy tràn khi nhắc đến người con trai độc nhất.
🇻🇳KHI ANH HÙNG CŨNG LÀ MỘT NGƯỜI MẸ
Có một giai thoại mà những người lính khi đó truyền nhau mãi. Vào năm 1974, trong một đợt hành quân, bà đã dùng dao rạch bụng cứu sống một đứa bé khi người mẹ bị bom dội chết.
Lúc đó, bà là Tiểu đoàn trưởng. Gặp đợt oanh kích của giặc, cả tiểu đoàn chui hầm tránh bom. Khi chui ra khỏi hầm, bà phát hiện một người phụ nữ mang thai gần đến ngày sinh bị trúng bom đã tắt thở. Thấy thai nhi chòi đạp dữ dội, không chần chừ bà móc con dao găm nhỏ luôn mang sẵn bên mình rạch bụng người mẹ cứu đứa con.
Không đành lòng mang đứa nhỏ đi cho, bà gởi người quen gần đó nuôi vài tháng rồi nhận lại đứa bé gái nuôi dưỡng đến ngày hôm nay.
🇻🇳MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG TRẦN THỊ QUANG MẪN
Mẹ Mẫn được Nhà Nước phong tặng nhiều Huân chương và danh hiệu cao quý: Huân chương chiến công, Huân chương kháng chiến, Huân chương Độc lập… và Bà mẹ Việt Nam anh hùng trong đợt đầu tiên. Năm 1967, cùng với chị Út Tịch, Mẹ được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang.
Tháng 4/1967, Mẹ được ra Hà Nội gặp Bác Hồ, được Bác ưu ái tặng cho bà khẩu súng K54 làm kỷ niệm. Cuộc đời Mẹ đã được nhà văn Bùi Hiển viết thành quyển sách “Cuộc đời tôi”. Mẹ suy nghĩ đơn giản rằng: “Hồi đó đi đánh giặc để giải phóng đất nước, mong cho đồng bào mình được sống trong cảnh thanh bình. Giờ ước nguyện đã thành sự thật, so với nhiều người khác, tôi may mắn còn sống đến ngày hôm nay. Đối với tôi như vậy đã mãn nguyện lắm rồi”.
Với 75 năm tuổi Đảng, giữ nhiều cương vị, chức vụ khác nhau, Mẹ luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, được đồng đội và Nhân dân yêu quý. Mẹ mất ngày 23/3/202, hưởng thọ 95 tuổi. Di hài Mẹ được an nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Giồng Riềng, nơi chồng và con Mẹ an nghỉ.

Phát triển truyền thông đối ngoại, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc

 Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, truyền thông đối ngoại đang được các quốc gia trên thế giới đẩy mạnh, tạo sự lan toả và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Việc đẩy mạnh truyền thông đối ngoại còn góp phần phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động lưu vong từ ngoài biên giới.

Truyền thông đối ngoại, xu thế toàn cầu về thông tin, báo chí

Thông tin đối ngoại là nội dung rất quan trọng trong công tác đối ngoại và công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, là cầu nối và phương tiện để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa Việt Nam và các nước. Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại sẽ giúp bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình về Việt Nam một cách chính xác, qua đó hiểu đúng về đất nước, con người Việt Nam. Điều này giúp thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, thu hút sự quan tâm của các nước trên thế giới, các nhà đầu tư kinh doanh, tổ chức tài chính, tiền tệ… Bên cạnh đó, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại còn góp phần hạn chế những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam và ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử chống đối.

Truyền thông đối ngoại hiện nay có thể được hiểu là đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông tin về tình hình Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực ra thế giới. Thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam là thông tin về đất nước, con người, lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời đưa thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng – an ninh giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Xu thế chung của thế giới vẫn là hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh giữa các nước lớn, trong đó chủ yếu xuất phát từ thiếu lòng tin chiến lược và nhu cầu đối với vấn đề an ninh quốc gia khiến cho quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế gặp nhiều khó khăn, trở ngại, đồng thời tác động mạnh mẽ đến chính sách đối ngoại của các nước. Trong bối cảnh các lực lượng thù địch đang ra sức tuyên truyền cho các giá trị phương Tây, bôi xấu, xuyên tạc các chính sách của Đảng và Nhà nước trong các vấn đề đối nội và đối ngoại, công tác thông tin đối ngoại càng đóng vai trò quan trọng nhằm đem lại cho nhân dân nhận thức đúng đắn nhất về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản bác lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là các vấn đề về dân tộc, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tín ngưỡng, tự do ngôn luận…

Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác truyền thông đối ngoại

Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại sẽ giúp thế giới hiểu hơn về đất nước, con người, về những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần của dân tộc Việt Nam; nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài… Thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại còn góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế – xã hội.

Ngay từ những ngày đầu đấu tranh giành độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác truyền thông đối ngoại. Điều đó đã được thể hiện qua Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 10/5/1962 của Bộ Chính trị, về công tác tuyên truyền đối ngoại đã xác định công tác tuyên truyền đối ngoại là một bộ phận của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của nước ta trên phạm vi toàn thế giới. Tiếp đó, nhiều văn bản quan trọng khác của Đảng và Nhà nước đã được ban hành, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động thông tin truyền thông đối ngoại qua các thời kỳ như: Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại; Chỉ thị số 10/2000/-CT/TTg, ngày 26/4/2000 của Thủ tướng Chính phủ, về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Ngày 10/9/2008, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị 26-CT/TW về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới”, xác định thông tin đối ngoại là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị với phương châm “chính xác, kịp thời, sinh động, phù hợp với từng đối tượng”.

Ngày 14/2/2012, Bộ Chính trị khóa XI ra Kết luận số 16-KL/TW về chiến lược thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020, trong đó nêu rõ: “Thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng ta; là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài”. Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 368/QĐ-TTg, ngày 28/2/2013, phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ, về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013 – 2020. Các văn bản trên là minh chứng cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc khẳng định tầm quan trọng của truyền thông đối ngoại trong giai đoạn mới. Trên cơ sở những chủ trương, chính sách đó, các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã triển khai thực hiện công tác thông tin đối ngoại với nội dung, hình thức phong phú và đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn mới, đề ra định hướng bao trùm của công tác đối ngoại trong giai đoạn phát triển của đất nước là triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Đại hội đã khẳng định “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.

Thành tựu trong hoạt động truyền thông đối ngoại của Việt Nam

Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện cả nước có 6 cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện (Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam – VTV, Đài Tiếng nói Việt Nam – VOV, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân). Có 15 cơ quan báo chí (11 báo, 3 tạp chí và Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC) nằm trong các cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện nói trên. Ngoài ra có 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật). Trong 72 đài phát thanh – truyền hình, có 3 đơn vị là VTV, Vnews và HTV được cấp giấy phép biên tập kênh truyền hình nước ngoài.

Đến nay, hầu hết các cơ quan báo chí Việt Nam đã có trên nền tảng mạng internet. Một số cơ quan báo chí đã tiên phong và khá thành công trong việc ứng dụng các công nghệ số tiêu biểu như: Trí tuệ nhân tạo (AI), IoT, Cloud, Big Data… Trước làn sóng “di dân” từ báo in sang báo điện tử, hàng trăm cơ quan báo chí cũng xây dựng các kênh truyền thông của mình trên các trang mạng xã hội như Facebook, Youtube, Tiktok… Nhân sự làm việc trong lĩnh vực báo chí khoảng 41.000 người (khối phát thanh, truyền hình khoảng 16.500 người). Trong đó, hơn 19.300 trường hợp được cấp thẻ nhà báo.

Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí được tăng cường. Hiện nay, nhiều hãng truyền thông quốc tế lớn trên thế giới đều đã có mặt tại Việt Nam như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc), Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)… Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều đến được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp. Nhiều nhà báo Việt Nam được Nhà nước tạo điều kiện đi học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tác nghiệp báo chí tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Việc trao đổi thông tin với các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua chương trình truyền hình ASEAN, hệ thống các cơ quan đại diện của Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân… ở nước ngoài cũng như phiên bản tiếng nước ngoài của các báo điện tử đã góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ truyền thông đối ngoại; thông tin kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hợp tác, phát triển kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại và hợp tác đầu tư giữa nước ta với các nước trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông tin kịp thời về các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nhất là tình hình ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, và những vấn đề quốc tế khác mới nổi lên như: vấn đề lao động, việc làm, di cư, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố, an ninh tiền tệ, ngân hàng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0…

Trong một thế giới bất ổn, bất an, Việt Nam được bạn bè quốc tế tin cậy khi là điểm đến an ninh, an toàn, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được bảo đảm. Cùng với đó, Việt Nam cũng là một hình mẫu đang trên đà vươn lên mạnh mẽ, là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm, đóng vai trò chủ động và tích cực trong các công việc chung của khu vực và thế giới. Hoạt động đối ngoại của đất nước, trong đó có các hoạt động cấp cao diễn ra sôi động, liên tục đã khẳng định chính sách đối ngoại nhất quán, quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, đóng góp vào việc duy trì môi trường hoà bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, công tác truyền thông đối ngoại được triển khai đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước, với đa dạng hình thức để kịp thời thông tin cho nhân dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam; lan tỏa mạnh mẽ lịch sử, truyền thống, hình ảnh đất nước, văn hóa, con người, thành tựu công cuộc đổi mới của đất nước. Những minh chứng trên một lần nữa khẳng định quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Thực tế đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.

LỜI BÁC KÍNH YÊU DẠY CÓ GIÁ TRỊ ĐẾN MUÔN ĐỜI SAU


Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính

Thiếu một mùa, thì không thành trời

Thiếu một phương, thì không thành đất

Thiếu một đức, thì không thành người./.


GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ THEO TƯ TƯỞNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 

Phát huy truyền thống cách mạng của các thế hệ đi trước, trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế ngày nay, các lớp thế hệ thanh niên tiếp tục là lực lượng xung kích trên tất cả các mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao… của đất nước. Những cống hiến và đóng góp của thanh niên trong sự nghiệp đổi mới đất nước là minh chứng khẳng định thanh niên luôn là rường cột, đội hậu bị xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Đó cũng chính là thực hiện tốt lời răn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục thế hệ trẻ theo tư tưởng của Người.

Người cho rằng, thế hệ trẻ luôn biểu hiện tinh thần tự tôn dân tộc, lực lượng có thể kế thừa và tiếp bước xứng đáng truyền thống vẻ vang của cha anh đi trước. Trên cơ sở khẳng định vị trí, vai trò của thế hệ trẻ đối với cách mạng và đối với tương lai của dân tộc, thể hiện niềm tin trọn vẹn vào thế hệ trẻ, Bác đã đặt ra yêu cầu cho Đảng phải có kế hoạch chăm lo đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cho thế hệ trẻ để họ trở thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên” và thực hành tốt phương châm: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Từ những kinh nghiệm đúc rút ra, Bác nêu ba phương thức giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ:

Một là: Học đi đôi với hành, lý luận kết hợp với thực tiễn, vì học để hành, học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy.

Hai là: Kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội để từ đó, huy động được nguồn lực to lớn cho thanh niên phát triển về chất lượng, số lượng, được quan tâm chăm lo về tinh thần cũng như về cơ sở vật chất.

Ba là: Đề cao và phát huy tinh thần tự giáo dục, tự rèn luyện của thế hệ trẻ. Theo Người, kết hợp việc giáo dục của nhà trường, của xã hội và của gia đình là hết sức quan trọng, song việc tự rèn luyện, tự giáo dục của thế hệ trẻ đóng vai trò quyết định: “Thế hệ trẻ bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy phải tự giác, tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình”.

Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh thiếu niên có vị trí , vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng, củng cố tình cảm, niềm tin, bản lĩnh chính trị. Qua đó xây dựng thế hệ trẻ có hoài bão, lý tưởng, khát vọng và trách nhiệm để xứng đáng làm chủ nước nhà theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu và phát huy được vai trò to lớn của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, của Nhân dân trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

Học và làm theo chữ “cần” của Bác

 Đạo đức cách mạng của người cán bộ đảng viên theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là : Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong đó cần có nghĩa là cần cù, chăm chỉ, siêng năng là phẩm chất đầu tiên, cơ bản của người cán bộ đảng viên. Không chỉ có thế,  “Muốn cho chữ cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc. Nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng”. Song “Cần và chuyên phải đi đôi với nhau. Chuyên nghĩa là dẻo dai, bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu một ngày cần mà mười ngày không cần, thì cũng vô ích"./.

 BẢO ĐẢM Ý NGHĨA CHÍNH SÁCH TĂNG LƯƠNG, BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG


Chỉ còn ít ngày nữa là đến thời điểm tăng mức lương cơ sở. Bên cạnh tâm lý phấn khởi chung của cán bộ, công chức và người dân còn có sự lo ngại về giá hàng hóa, dịch vụ sẽ biến động, nhất là hàng tiêu dùng thiết yếu sẽ tăng mạnh. Trước thực trạng này, TP Hồ Chí Minh và cộng đồng doanh nghiệp đã chủ động triển khai nhiều giải pháp nhằm bình ổn thị trường, kích cầu mua sắm, kiểm soát lạm phát, giữ vững đà tăng trưởng, bảo đảm ý nghĩa thiết thực của đợt tăng lương cơ sở lần này.


Nỗi lo tăng giá trước thềm tăng lương


Nhiều công chức, viên chức, người lao động trên địa bàn TP Hồ Chí Minh có niềm vui chung là mức lương cơ sở tăng và một số điều chỉnh mới trong chính sách tiền lương được áp dụng từ ngày 1-7 tới đây. Tuy nhiên, cùng với niềm vui đó là nỗi lo thường trực: Giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng theo lương. Chị Nguyễn Thị Ngọc Thoa, công chức sinh sống tại quận Bình Thạnh chia sẻ: “Mức lương cơ sở tăng hơn 30%, cao nhất từ trước đến nay, khiến tôi và nhiều đồng nghiệp vui mừng. Mức tăng lần này sẽ bù đắp thêm chi phí cuộc sống hằng ngày cho gia đình tôi, là nguồn động lực để tôi gắn bó, phấn đấu trong công việc. Nhưng điều khiến chúng tôi khá lo lắng và hy vọng không tái diễn là điệp khúc lương tăng, giá cũng tăng như trước đây. Điều này sẽ làm giảm ý nghĩa, sự nỗ lực của Chính phủ trong việc tăng lương cơ sở lần này và đời sống của người hưởng lương, người lao động nghèo sẽ không được cải thiện là bao”.


Ghi nhận tại thị trường bán lẻ TP Hồ Chí Minh trong quý II-2024 cho thấy giá một số mặt hàng thiết yếu trên thị trường biến động nhẹ. Mặt hàng thịt heo, gạo đều điều chỉnh tăng giá theo diễn biến chung của giá thị trường. Các mặt hàng thực phẩm chế biến, thực phẩm đông lạnh, nước giải khát, hóa mỹ phẩm và các loại rau, củ, quả đã tăng giá nhẹ. Sự biến động này phần lớn là do ảnh hưởng của thời tiết cực đoan gây mất mùa khiến nguồn cung giảm, hoặc do tác động của các yếu tố bên ngoài như tỷ giá, chi phí vận hành phía nhà cung ứng, chi phí nguyên liệu đầu vào tăng cao. 


Thực tế nhiều năm nay, phản ứng thông thường của thị trường là lương tăng thì giá cũng tăng theo, thậm chí giá cả thị trường còn tăng trước khi chính sách tăng lương có hiệu lực. Tình trạng giá tăng theo lương thường tập trung vào những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và ở những giai đoạn, thời điểm hệ thống phân phối còn mỏng, nguồn cung hàng hóa của doanh nghiệp hạn chế, dễ đứt gãy, khả năng điều tiết, can thiệp thị trường yếu nên mới có tình trạng đầu cơ, nâng giá… Các chuyên gia kinh tế cho rằng, nếu loại trừ yếu tố tâm lý đầu cơ, tăng lương không phải là nguyên nhân chính, trực tiếp làm gia tăng lạm phát. Tuy nhiên, tăng lương cơ sở lần này ở mức cao nên cũng không loại trừ nhiều đối tượng lợi dụng chính sách này để đẩy giá hàng hóa, dịch vụ tăng cao. TP Hồ Chí Minh là thị trường lớn, là đầu mối cung ứng hàng hóa, dịch vụ, có tác động lớn, dẫn dắt thị trường khu vực và cả nước, cần chủ động thực hiện các giải pháp bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát, nhất là thực hiện đồng bộ các chính sách điều hành, quản lý, kiểm soát thị trường. 


Cân bằng cung – cầu, đẩy mạnh khuyến mại tập trung


Trước đợt tăng lương cơ sở lần này, TP Hồ Chí Minh và cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn đã chủ động triển khai hàng loạt hoạt động bình ổn giá, thúc đẩy bán lẻ, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, góp phần ngăn chặn làn sóng tăng giá khi lương tăng. Theo chương trình bình ổn thị trường do Sở Công Thương TP Hồ Chí Minh công bố, nguồn hàng bình ổn thị trường của thành phố vừa triển khai tăng 4-6% so với năm 2023, chiếm tỷ lệ 21-32% thị phần tháng bình thường, 24-41% nhu cầu thị trường cao điểm Tết Nguyên đán. Theo ông Nguyễn Nguyên Phương, Phó giám đốc Sở Công Thương TP Hồ Chí Minh, thành phố có nhiều kinh nghiệm qua những lần điều chỉnh, tăng lương trước đây nên đã có sự chuẩn bị, sẵn sàng, chủ động có các giải pháp điều tiết, cân đối thị trường. Hiện nay, năng lực sản xuất, dự trữ và cung ứng hàng hóa của doanh nghiệp thành phố rất mạnh, nguồn hàng dồi dào, phong phú, hệ thống phân phối đa dạng, rộng khắp, năng lực logistics mạnh, cộng thêm các phương thức kinh doanh trực tuyến phát triển rất nhanh giúp người tiêu dùng có thể tiếp cận nhanh chóng và trực tiếp tới nhà sản xuất. Mặt khác, thành phố còn có lực lượng doanh nghiệp bình ổn thị trường mạnh, nhiều kinh nghiệm; có mạng lưới cửa hàng bình ổn rộng khắp; các sở, ngành, quận, huyện và TP Thủ Đức thường xuyên nắm chắc diễn biến thị trường, kịp thời can thiệp khi có dấu hiệu biến động.


Một giải pháp được TP Hồ Chí Minh đẩy mạnh trước thời điểm tăng lương cơ sở là chú trọng tổ chức các chương trình khuyến mại tập trung. Đây là chương trình mang tính sáng tạo, đã phát huy hiệu quả trong năm 2023 giúp bình ổn thị trường, góp phần kiểm soát lạm phát. Chương trình thu hút nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn, thương hiệu uy tín, chiếm thị phần cao và là đầu mối của các chuỗi cung ứng như: Saigon Co.op, Satra, Central Retail, MM Mega Market, AEON, Fahasa; Vinamilk, Nutifood, Vissan… Các mặt hàng tham gia bình ổn đa dạng: Lương thực, thực phẩm, đồ dùng học tập, dược phẩm… Các doanh nghiệp tham gia bình ổn cam kết phân phối với giá thấp hơn 5-10% so với các mặt hàng cùng quy cách, chủng loại. Nếu giá thị trường có biến động tăng từ 3% trở lên thì các doanh nghiệp sẽ đề nghị điều chỉnh tăng cho phù hợp, Sở Tài chính TP Hồ Chí Minh sẽ xem xét điều chỉnh giá nhưng vẫn bảo đảm thấp hơn thị trường.


Cùng đồng hành, hưởng ứng Chương trình khuyến mại tập trung năm 2024, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, dịch vụ thương mại hàng đầu ở TP Hồ Chí Minh đã xây dựng các chương trình khuyến mại quy mô, tạo những mũi nhọn phủ khắp thị trường thành phố và nhiều địa phương trong nước. Điển hình như Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại TP Hồ Chí Minh (Saigon Co.op) tổ chức chương trình khuyến mại ở hầu hết ngành hàng hoặc tập trung ưu đãi theo xu hướng tiêu dùng của thị trường, như: Chương trình “Đi chợ đồng giá”, có các mặt hàng tươi sống cho bữa ăn hằng ngày như rau, thủy-hải sản, trái cây…; Chương trình “Mỗi tuần một lễ hội nhà mình vui sắm” có nhiều ưu đãi hấp dẫn cho người tiêu dùng. Sở Công Thương TP Hồ Chí Minh đã yêu cầu ban quản lý các chợ truyền thống, chợ đầu mối trên địa bàn tăng cường quản lý giá cả, chất lượng hàng hóa; cân, đong hàng, niêm yết giá trong phạm vi quản lý. Thực hiện chỉ đạo trên, nhiều chợ truyền thống đã triển khai niêm yết giá bán công khai, cạnh tranh lành mạnh, bình ổn thị trường trước kỳ tăng lương. Việc niêm yết giá cũng sẽ giúp các cơ quan chức năng quản lý giá hiệu quả hơn để kích cầu mua sắm. Các cơ quan chức năng cũng tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm việc tăng giá bất hợp lý để bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng./.


Hương sen Việt

 ĐÓ CHÍNH LÀ BẢN SẮC NGOẠI GIAO CÂY TRE VIỆT NAM


Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc thực thi đường lối đối ngoại, ngoại giao đặc sắc, đậm đà bản sắc dân tộc Việt theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được triển khai linh hoạt, chủ động trên tinh thần “muốn làm gì cũng vì lợi ích của dân tộc mà làm” và Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.


“THỰC LỰC LÀ CÁI CHIÊNG MÀ NGOẠI GIAO LÀ CÁI TIẾNG”


Nhất quán tư tưởng xuyên suốt “nước ta là một bộ phận của thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với nước ta, việc gì trong nước ta cũng quan hệ với thế giới”, trên những chặng đường cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước Việt Nam không chỉ luôn “tin vào sức ta trước hết: Chỉ có nỗ lực mới làm cho ngoại giao toàn thắng”; luôn coi độc lập, tự chủ là nền tảng vững chắc để thực thi đường lối đối ngoại, ngoại giao, mà còn đặt cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của cách mạng thế giới để tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đã được triển khai, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng.


Thực tế, việc thấu triệt quan điểm “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã” và “sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập” đã được triển khai thành công từ sau Hội nghị Trung ương Tám (5/1941); trong thời kỳ chuẩn bị và tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975)…, mà còn được tiếp tục thực hiện linh hoạt, chủ động trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng trên tinh thần nhất quán quan điểm: “Lợi ích của nhân dân tức là lợi ích của Đảng và phải đặt lợi ích của nhân dân và của Đảng lên trên hết, trước hết”. Đó chính là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa vì lợi ích quốc gia - dân tộc trên tinh thần phát huy nguồn sức mạnh nội lực (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…) gắn liền với khai thác, tranh thủ ngoại lực, “thêm bạn bớt thù” nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để kiên quyết, khôn khéo thực hiện mục tiêu của cách mạng và bảo vệ quyền lợi quốc gia - dân tộc. 


Kiên định thực hiện đường lối đổi mới; kiên định thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” và “không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, phát triển đã trở thành hiện thực sinh động khi Việt Nam đã, đang, tiếp tục là một quốc gia chủ động, tích cực hội nhập toàn diện, sâu rộng với thế giới. Thực tế là, nhất quán về nguyên tắc, mục tiêu, song linh hoạt, khôn khéo về sách lược; phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, đến nay “Đảng ta đã có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính... 


THẾ VÀ LỰC CỦA VIỆT NAM NGÀY CÀNG ĐƯỢC CỦNG CỐ VÀ NÂNG CAO


Kiên định con đường cách mạng Việt Nam- con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm Việt Nam kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao độc lập, tự chủ coi đây vừa là mục tiêu cao nhất vừa là nguyên tắc bất biến bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Những thành tựu đạt được từ việc nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, tư tưởng tiến bộ của thời đại, Việt Nam “đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam” không chỉ được các tầng lớp nhân dân tin tưởng; được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; được bạn bè quốc tế ủng hộ, tôn trọng, mà còn góp phần làm nên một Việt Nam “chưa bao giờ có được tiềm lực vị thế, và uy tín quốc tế như ngày nay”, tạo cho đất nước ta có thế và lực không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.


Sự kiện Việt Nam và Hoa Kỳ tuyên bố nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden ngày 10-11/9/2023, không chỉ thể hiện sự coi trọng của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mà còn khẳng định vị thế, uy tín ngày càng cao của Việt Nam. Đó không chỉ là một minh chứng thuyết phục với các nước trên thế giới về “trái ngọt” của một quá trình “gieo trồng”, gây dựng lòng tin, sự hợp tác bền bỉ, chân thành và hiệu quả của công tác đối ngoại, ngoại giao, cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ với tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”, mà còn mở ra không gian cho sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong nhiều thập niên tới…


Sự kiện Việt Nam - Nhật Bản nhất trí nâng cấp quan hệ hai nước lên “Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới” nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản ngày 27-30/11/2023 của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng không chỉ khẳng định sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện, thực chất trên tất cả các lĩnh vực của quan hệ hai nước, với sự tin cậy chính trị cao, sự gắn kết chặt chẽ trên các lĩnh vực kinh tế, nguồn nhân lực, hợp tác địa phương, mà còn góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác hai nước; mở ra một thời kỳ phát triển mới mạnh mẽ, sâu rộng hơn, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chung của cả hai nước  cũng như đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới…


Sự kiện Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc về việc “Tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc” nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình ngày 12 - 13/12/2023; trong đó: “Việt Nam khẳng định luôn coi quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại” và Trung Quốc “cũng khẳng định ủng hộ Việt Nam phát triển phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, xây dựng nền kinh tế lớn mạnh, độc lập, tự chủ, thúc đẩy đồng bộ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế toàn diện, phát triển quan hệ đối ngoại rộng mở, hữu nghị”… không chỉ cho thấy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không ngừng mở rộng, đi vào chiều sâu, hợp tác trong các lĩnh vực đạt tiến triển tích cực, toàn diện, mà còn góp phần vào hòa bình, ổn định, phát triển, phồn vinh ở khu vực và thế giới…


Cùng với những hoạt động đối ngoại Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân khác, 3 sự kiện quan trọng nêu trên chính là những minh chứng sinh động nhất cho bản sắc đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Đó chính là: “Vững ở gốc là nguyên tắc vì lợi ích quốc gia - dân tộc để phục vụ, là đường lối đối ngoại độc lập - tự chủ, lấy thực lực làm gốc, lấy đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để tạo thế, lập thời; lấy phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng soi đường, chỉ lối. Chắc ở thân là những phương thức tạo nên sức mạnh, trong đó sức mạnh đoàn kết là nhân tố sống còn; đại đoàn kết trong nước là căn bản, đoàn kết quốc tế là nhân tố bổ trợ hết sức quan trọng... Sức mạnh của Việt Nam còn ở tính chính danh, chính nghĩa, cách ứng xử nhân văn, thủy chung, thượng tôn pháp luật và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Uyển chuyển ở cành là phong cách, nghệ thuật ứng xử linh hoạt, nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, đặc biệt trong các hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, có sự mâu thuẫn giữa những xu thế khác nhau, giữa đòi hỏi phải hài hòa cái chung và cái riêng, nhằm giữ vững bản sắc, giá trị đất nước và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam phù hợp với những giá trị chung của nhân loại. Đó là cách ứng xử “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, “biết dừng, biết biến” của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định.


Đặc biệt, việc nâng tầm quan hệ với Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản năm 2023 không những cho thấy vai trò, vị thế quốc tế ngày càng cao của Việt Nam, mà còn thể hiện bản lĩnh của những người lãnh đạo đất nước. Đó chính là một Việt Nam luôn “mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân”; đồng thời luôn “đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc” và “biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt” để “để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát huy mạnh mẽ lợi ích quốc gia - dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, để vinh quang đời đời thuộc về dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng”./.


Tạp chí Tuyên giáo

 NGĂN CHẶN ÂM MƯU DÙNG SÁCH, BÁO XẤU ĐỘC ĐỂ CHUYỂN HÓA TƯ TƯỞNG LỆCH LẠC


Với âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, một trong những phương thức mà các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng là phát hành các sách, báo có nội dung độc hại, xuyên tạc, phản động. Đáng phê phán là một số cá nhân do nhận thức chính trị hạn chế, thiếu hiểu biết và hám lợi đã “nối giáo cho giặc” khi công khai tán phát, mua bán sách, báo xấu độc. Vì thế, việc ngăn chặn sự thẩm lậu, đấu tranh trực diện với sách, báo xấu độc cần nhất là chủ động, thường xuyên, kịp thời, đi vào thực chất.


ÂM MƯU ĐẦU ĐỘC NHẬN THỨC


Đằng sau một cuốn sách, một bài báo chứa đựng tư tưởng, lý lẽ, tâm tư, tình cảm có tác động đến nhận thức, hành vi của độc giả. Bên cạnh những “bảo thư” soi đường, chỉ lối để con người hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ; rèn luyện, phấn đấu tu thân, tích đức để khẳng định bản thân, cống hiến cho xã hội; cũng không hiếm những “tà thư” đầu độc độc giả đưa đường đến với sự tối tăm, hận thù, bi quan, những hành vi lệch chuẩn, thiếu văn hóa và đạo đức, vi phạm pháp luật...


Khác với loại hình tuyên truyền trực quan như tranh, ảnh, phim; sách, báo xấu độc xâm nhập âm thầm, dùng lý lẽ bề ngoài tưởng chừng rất khách quan, khoa học nhưng ngầm ẩn những dụng ý vô cùng thâm hiểm. Chỉ cần độc giả là người thiếu hiểu biết về chính trị, không kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng, có ẩn ức, bất mãn trong đời sống rất dễ bị tiêm nhiễm, dần dần “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lúc nào không hay. Chẳng hạn, khá nhiều sách, báo dưới cái mác nghiên cứu khoa học lịch sử đã “bắn vào quá khứ” khi lập luận rằng: Không cần tiếp thu chủ nghĩa cộng sản, không cần sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Bác Hồ, không cần có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam cứ “ngoan ngoãn” ở trong “vòng tay bảo hộ” của mẫu quốc Pháp sau Chiến tranh Thế giới thứ hai thì đất nước sẽ phát triển, dân trí nâng cao; rồi sau đó thông qua phương cách hòa bình để có được nền độc lập thì sẽ tốt hơn là phải cầm súng suốt mấy chục năm, làm “kéo lùi lịch sử”. Luận điệu này với những người trưởng thành có hiểu biết lịch sử, có tư duy biện chứng khoa học thì đích thực là phản động, phi thực tế và phản khoa học. Tuy nhiên, nếu là một người trẻ mới mười tám, đôi mươi, sinh ra trong hòa bình thì chưa chắc đã đủ bản lĩnh, trình độ để nhận diện đây là “tà thuyết”.


Theo số liệu của Bộ Công an, tính từ năm 2009 đến 2022, lực lượng an ninh chính trị nội bộ đã phối hợp thu thập, nghiên cứu hơn 500 đề tài, bản thảo; kiến nghị không cho xuất bản hoặc sửa chữa lại nội dung trước khi xuất bản 350 đề tài, bản thảo; ngừng phát hành, thu hồi, tiêu hủy 150 ấn phẩm có nội dung phức tạp, nhạy cảm, vi phạm; xử phạt vi phạm pháp luật trên lĩnh vực xuất bản hơn 760 trường hợp.


Khi những ý đồ thâm hiểm không phát huy dưới dạng “chính ngạch”, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động thông qua phương thức cũ đó là tán phát sách, báo xấu độc theo con đường “tiểu ngạch”, nhất là trên không gian mạng.


Sách, báo xấu độc chủ yếu được xuất bản dưới chế độ cũ trước năm 1975, sau này in ấn ở hải ngoại. Dù là thể loại hư cấu hay phi hư cấu, sách, báo xấu độc đều có chung một số đặc điểm về nội dung, đó là: Ra sức cổ vũ quan điểm thù địch, chống đối Đảng Cộng sản Việt Nam; kêu gọi người dân không chấp nhận Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội; phủ định lý luận về chủ nghĩa xã hội và sự đúng đắn tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đòi xét lại lịch sử, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín, danh dự của các anh hùng dân tộc, lãnh tụ của Đảng, các bậc tiền bối cách mạng; khoét sâu vào những mặt trái của xã hội nhằm phủ nhận thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân...


Đáng lo ngại là một số cá nhân chuyên kinh doanh sách, báo, dịch vụ in ấn nhận thấy sách, báo xấu độc bị cấm phổ biến, lưu hành là “hàng hiếm” nên đã sưu tập, tái sản xuất, bày bán công khai trên mạng xã hội dưới dạng sách in và sách điện tử. Chỉ cần đặt hàng trên mạng xã hội, bất cứ tác phẩm xấu độc nào trong vài giờ đã có thể chuyển đến tận tay người có nhu cầu.


Vấn đề đáng bàn là vì sao sách, báo xấu độc do các tác giả phản động lại có thể “đội mồ sống dậy” lưu hành dễ dàng mà các cơ quan chức năng chưa kịp thời ngăn chặn?


KẾT HỢP GIỮA PHÒNG VÀ CHỐNG HIỆU QUẢ


Chúng ta cần xác định phương thức tán phát, phổ biến sách, báo xấu độc là thủ đoạn mà các thế lực thù địch sẽ không bao giờ từ bỏ. Cho nên, đấu tranh với sách, báo xấu độc là việc làm lâu dài, thường xuyên để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt cần chú ý kết hợp giữa phòng và chống một cách linh hoạt, tùy từng trường hợp cụ thể để mang lại hiệu quả thực chất.


Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị-xã hội, thuần phong mỹ tục”.


Quán triệt, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, với lĩnh vực xuất bản, ông Nguyễn Nguyên, Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông), Phó chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam cho rằng: Trước hết, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực xuất bản. Phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan xuất bản, cơ quan chủ quản trong công tác xuất bản với yêu cầu giữ vững tôn chỉ, mục đích, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, biên tập viên, thực hiện chặt chẽ quy trình xuất bản, thẩm định kỹ nội dung bản thảo, tránh để xảy ra sai sót nội dung nghiêm trọng về chính trị.


Cùng với đó, công tác hậu kiểm cần tiếp tục được đẩy mạnh nhằm ngăn chặn triệt để các xuất bản phẩm có nội dung vi phạm quy định Luật Xuất bản; các cơ quan bảo vệ pháp luật triển khai đồng bộ các giải pháp đấu tranh, xử lý những ấn phẩm lưu hành bất hợp pháp, nhất là các ấn phẩm có nội dung xấu độc. Riêng với các địa chỉ lưu giữ, tán phát xuất bản phẩm xấu độc trên không gian mạng, cần phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng an ninh chính trị nội bộ, an ninh mạng tập trung sử dụng những biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn hoạt động và sức phổ biến, tiếp cận đến với người đọc.


Theo ông Nguyễn Thái Bình, Phó giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, vấn nạn sách, tài liệu xấu độc được in ấn, mua bán công khai hiện nay là nguy cơ dẫn đến mất kiểm soát vì vô tình tạo thói quen, hành vi vi phạm pháp luật cho bạn đọc, người sử dụng thiếu hiểu biết. Các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chức năng cần sớm vào cuộc, xử lý bảo đảm đủ răn đe với những hành vi vi phạm pháp luật. Với những nhóm người có chủ ý thu lợi cá nhân hoặc có kế hoạch, chủ động tán phát sách, báo xấu độc cần phải bị xử lý hình sự để răn đe những đối tượng khác. Với những cá nhân nhỏ lẻ, nếu chỉ hám lợi đơn thuần thì sớm tiếp cận, nhắc nhở.


Ông Nguyễn Thái Bình cũng nhấn mạnh đến vai trò của các cấp ủy Đảng cần chủ động định hướng, cung cấp thông tin thường xuyên để cán bộ, đảng viên không tìm hiểu, không tiếp cận với sách, báo xấu độc; xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ, đảng viên phổ biến, giới thiệu sách, báo xấu độc dưới bất cứ hình thức nào. Đặc biệt, đối với các cơ quan quản lý nhà nước cần phải chủ động trong truyền thông chính sách, giúp cho người dân hiểu và làm việc theo pháp luật. Phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong hoạt động tuyên truyền miệng để cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân không mua bán, tàng trữ, sử dụng, phổ biến sách, báo xấu độc; đồng thời, nâng cao khả năng nhận diện nội dung xấu độc, tham gia đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.


Một giải pháp mà các chuyên gia trong lĩnh vực xuất bản, phát triển văn hóa đọc nhiều lần nhắc đến, đó là: Ngành xuất bản cần tiếp tục nỗ lực xuất bản, giới thiệu nhiều sách, báo có nội dung lành mạnh, nhân văn, có giá trị học thuật dưới nhiều hình thức đa dạng, hấp dẫn, gắn với phát triển văn hóa đọc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua đó, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, tác động tích cực để xây dựng nhận thức đúng đắn, bồi đắp tâm hồn, nâng cao dân trí cho nhân dân, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.


Tạp chí Tuyên giáo

Ngoại giao cây tre Việt Nam

 ĐÓ CHÍNH LÀ BẢN SẮC NGOẠI GIAO CÂY TRE VIỆT NAM


Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc thực thi đường lối đối ngoại, ngoại giao đặc sắc, đậm đà bản sắc dân tộc Việt theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được triển khai linh hoạt, chủ động trên tinh thần “muốn làm gì cũng vì lợi ích của dân tộc mà làm” và Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.


“THỰC LỰC LÀ CÁI CHIÊNG MÀ NGOẠI GIAO LÀ CÁI TIẾNG”


Nhất quán tư tưởng xuyên suốt “nước ta là một bộ phận của thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với nước ta, việc gì trong nước ta cũng quan hệ với thế giới”, trên những chặng đường cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước Việt Nam không chỉ luôn “tin vào sức ta trước hết: Chỉ có nỗ lực mới làm cho ngoại giao toàn thắng”; luôn coi độc lập, tự chủ là nền tảng vững chắc để thực thi đường lối đối ngoại, ngoại giao, mà còn đặt cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của cách mạng thế giới để tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đã được triển khai, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng.


Thực tế, việc thấu triệt quan điểm “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã” và “sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập” đã được triển khai thành công từ sau Hội nghị Trung ương Tám (5/1941); trong thời kỳ chuẩn bị và tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975)…, mà còn được tiếp tục thực hiện linh hoạt, chủ động trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng trên tinh thần nhất quán quan điểm: “Lợi ích của nhân dân tức là lợi ích của Đảng và phải đặt lợi ích của nhân dân và của Đảng lên trên hết, trước hết”. Đó chính là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa vì lợi ích quốc gia - dân tộc trên tinh thần phát huy nguồn sức mạnh nội lực (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…) gắn liền với khai thác, tranh thủ ngoại lực, “thêm bạn bớt thù” nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để kiên quyết, khôn khéo thực hiện mục tiêu của cách mạng và bảo vệ quyền lợi quốc gia - dân tộc. 


Kiên định thực hiện đường lối đổi mới; kiên định thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” và “không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, phát triển đã trở thành hiện thực sinh động khi Việt Nam đã, đang, tiếp tục là một quốc gia chủ động, tích cực hội nhập toàn diện, sâu rộng với thế giới. Thực tế là, nhất quán về nguyên tắc, mục tiêu, song linh hoạt, khôn khéo về sách lược; phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, đến nay “Đảng ta đã có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính... 


THẾ VÀ LỰC CỦA VIỆT NAM NGÀY CÀNG ĐƯỢC CỦNG CỐ VÀ NÂNG CAO


Kiên định con đường cách mạng Việt Nam- con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm Việt Nam kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao độc lập, tự chủ coi đây vừa là mục tiêu cao nhất vừa là nguyên tắc bất biến bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Những thành tựu đạt được từ việc nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, tư tưởng tiến bộ của thời đại, Việt Nam “đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam” không chỉ được các tầng lớp nhân dân tin tưởng; được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; được bạn bè quốc tế ủng hộ, tôn trọng, mà còn góp phần làm nên một Việt Nam “chưa bao giờ có được tiềm lực vị thế, và uy tín quốc tế như ngày nay”, tạo cho đất nước ta có thế và lực không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.


Sự kiện Việt Nam và Hoa Kỳ tuyên bố nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden ngày 10-11/9/2023, không chỉ thể hiện sự coi trọng của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mà còn khẳng định vị thế, uy tín ngày càng cao của Việt Nam. Đó không chỉ là một minh chứng thuyết phục với các nước trên thế giới về “trái ngọt” của một quá trình “gieo trồng”, gây dựng lòng tin, sự hợp tác bền bỉ, chân thành và hiệu quả của công tác đối ngoại, ngoại giao, cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ với tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”, mà còn mở ra không gian cho sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong nhiều thập niên tới…


Sự kiện Việt Nam - Nhật Bản nhất trí nâng cấp quan hệ hai nước lên “Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới” nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản ngày 27-30/11/2023 của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng không chỉ khẳng định sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện, thực chất trên tất cả các lĩnh vực của quan hệ hai nước, với sự tin cậy chính trị cao, sự gắn kết chặt chẽ trên các lĩnh vực kinh tế, nguồn nhân lực, hợp tác địa phương, mà còn góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác hai nước; mở ra một thời kỳ phát triển mới mạnh mẽ, sâu rộng hơn, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chung của cả hai nước  cũng như đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới…


Sự kiện Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc về việc “Tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc” nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình ngày 12 - 13/12/2023; trong đó: “Việt Nam khẳng định luôn coi quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại” và Trung Quốc “cũng khẳng định ủng hộ Việt Nam phát triển phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, xây dựng nền kinh tế lớn mạnh, độc lập, tự chủ, thúc đẩy đồng bộ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế toàn diện, phát triển quan hệ đối ngoại rộng mở, hữu nghị”… không chỉ cho thấy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không ngừng mở rộng, đi vào chiều sâu, hợp tác trong các lĩnh vực đạt tiến triển tích cực, toàn diện, mà còn góp phần vào hòa bình, ổn định, phát triển, phồn vinh ở khu vực và thế giới…


Cùng với những hoạt động đối ngoại Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân khác, 3 sự kiện quan trọng nêu trên chính là những minh chứng sinh động nhất cho bản sắc đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Đó chính là: “Vững ở gốc là nguyên tắc vì lợi ích quốc gia - dân tộc để phục vụ, là đường lối đối ngoại độc lập - tự chủ, lấy thực lực làm gốc, lấy đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để tạo thế, lập thời; lấy phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng soi đường, chỉ lối. Chắc ở thân là những phương thức tạo nên sức mạnh, trong đó sức mạnh đoàn kết là nhân tố sống còn; đại đoàn kết trong nước là căn bản, đoàn kết quốc tế là nhân tố bổ trợ hết sức quan trọng... Sức mạnh của Việt Nam còn ở tính chính danh, chính nghĩa, cách ứng xử nhân văn, thủy chung, thượng tôn pháp luật và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Uyển chuyển ở cành là phong cách, nghệ thuật ứng xử linh hoạt, nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, đặc biệt trong các hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, có sự mâu thuẫn giữa những xu thế khác nhau, giữa đòi hỏi phải hài hòa cái chung và cái riêng, nhằm giữ vững bản sắc, giá trị đất nước và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam phù hợp với những giá trị chung của nhân loại. Đó là cách ứng xử “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, “biết dừng, biết biến” của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định.


Đặc biệt, việc nâng tầm quan hệ với Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản năm 2023 không những cho thấy vai trò, vị thế quốc tế ngày càng cao của Việt Nam, mà còn thể hiện bản lĩnh của những người lãnh đạo đất nước. Đó chính là một Việt Nam luôn “mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân”; đồng thời luôn “đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc” và “biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt” để “để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát huy mạnh mẽ lợi ích quốc gia - dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, để vinh quang đời đời thuộc về dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng”./

Sự nguy hại từ “tin giả”

 TIN GIẢ - SỰ NGUY HẠI VÀ PHƯƠNG CÁCH NGĂN CHẶN


Ở Việt Nam, tin giả gây thiệt hại lớn trên nhiều lĩnh vực, phương diện, nhất là các thế lực thù địch sử dụng tin giả để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta. Do vậy, ngăn chặn, triệt phá tin giả, thông tin xấu độc là nhiệm vụ cấp thiết trong kỷ nguyên số.


TIN GIẢ - HẬU QUẢ THẬT


Tin giả còn được gọi là tin rác hoặc tin tức giả mạo, là thông tin cố ý bịa đặt hoặc dùng thủ thuật lừa bịp bằng cách lan truyền qua phương tiện truyền thông hay mạng xã hội (MXH). Tin giả thường được tạo ra để tác động đến tư tưởng, quan điểm, tình cảm, cảm xúc, thái độ, hành vi của người dân, gây ảnh hưởng tiêu cực đến diễn biến thực tiễn, nhằm thực hiện các mục đích chính trị, lợi ích kinh tế hay ý đồ xấu xa của chủ thể tiến hành.


Trong điều kiện mới với xu thế phát triển nhanh của MXH và các nền tảng MXH xuyên biên giới, kéo theo việc các thế lực thù địch tăng cường lợi dụng, tung tin giả ngày càng phổ biến với nhiều chiêu trò, cách thức, thậm chí rất khó nhận diện, đấu tranh, đẩy lùi.


Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng internet rất cao. Bởi vậy, khi tin giả xuất hiện thì cường độ, tốc độ lan truyền nhanh, tác động rất lớn đến đời sống trên không gian mạng và cộng đồng xã hội. Ví như, khoảng cuối tháng 3, đầu tháng 4/2022, loạt tin đồn thất thiệt trên MXH về việc một số doanh nghiệp ngoài nhà nước niêm yết trên sàn chứng khoán bị thanh tra chuyên đề (hoạt động phát hành trái phiếu và việc thực hiện pháp luật về kế toán, thuế, chứng khoán) gây hoang mang cho nhà đầu tư và gây thiệt hại nghiêm trọng cho các doanh nghiệp. Ngay sau đó, dù có thông tin chính thống để đính chính, trấn an cổ đông, nhà đầu tư nhưng cổ phiếu của các doanh nghiệp này vẫn liên tục giảm mạnh. Điều đó cho thấy, chỉ vì tin giả mà kinh tế đất nước bị ảnh hưởng, chi phối rất nghiêm trọng.


Tương tự, tin giả xuất hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề, lĩnh vực "nóng", "nhạy cảm" liên quan đến công tác nhân sự, bầu cử, bỏ phiếu tín nhiệm, xử lý kỷ luật cán bộ cấp cao... Tin giả cũng thường xuất hiện trước những sự kiện chính trị trọng đại của Đảng, đất nước với tần suất ngày càng nhiều và mức độ nguy hiểm, phức tạp khó lường. Đặc biệt, thời gian gần đây xuất hiện nhiều tin giả về tình hình sức khỏe của một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước gây xáo trộn đến tư tưởng, tình cảm và niềm tin của quần chúng; thậm chí còn tạo ra sự hoang mang, tâm lý tiêu cực trong đời sống xã hội.


Rõ ràng, tin giả là một loại thông tin không có thật, nhưng hệ quả và tác hại của nó thì có thật; ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh. Chẳng hạn, vào những năm 80, 90 của thế kỷ 20, trên địa bàn Tây Nguyên, các thế lực phản động ở nước ngoài cấu kết với FULRO tung tin giả về việc người Kinh đang chiếm đất của người Thượng, rồi kích động, lôi kéo một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập biểu tình, gây rối chính trị ở nhiều địa bàn Tây Nguyên vào các năm 2001, 2004. Tương tự, những sự vụ, sự việc diễn ra ở Thái Bình (năm 1997), Mường Nhé, Điện Biên (năm 2011) và các "điểm nóng" ở Tây Bắc, Tây Nghệ An, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ... đều bắt đầu từ những tin tức giả mạo, bịa đặt một cách trắng trợn. Hay sự kiện diễn ra ở Bình Thuận và hàng chục địa phương trong nước năm 2018 là bài học đau lòng, khi kẻ thù bịa ra tin giả về việc cán bộ Trung ương “tự quyết” cho nước ngoài thuê đất đặc khu trong 99 năm là nhằm hiện thực lợi ích nhóm của một bộ phận cán bộ... Tin giả ấy đã tạo ra sự bức xúc trên MXH, rồi lan ra đời sống, gây nhiều tổn thất cả về vật chất lẫn tinh thần.


LÀM GÌ ĐỂ KHỐNG CHẾ, ĐẨY LÙI TIN GIẢ?


Là quốc gia có nhiều nỗ lực và đạt kết quả quan trọng trong phòng, chống, xử lý tin giả, đến nay, Việt Nam đã hoàn thiện các quy định pháp luật, tăng cường biện pháp quản lý thông tin trên MXH; ban hành các quy định, quy trình xử lý tin sai sự thật; tăng cường hợp tác để yêu cầu các nền tảng xuyên biên giới loại bỏ thông tin sai lệch, vi phạm pháp luật; thiết lập Trung tâm an ninh mạng quốc gia... Thế nhưng, những nỗ lực nêu trên vẫn chưa đủ sức hạn chế, khống chế một cách hiệu quả tình trạng tin giả đang có xu hướng gia tăng trên MXH.


MXH với đặc tính dễ ẩn danh, lan truyền nhanh, khó xác minh, truy vết... đã và đang trở thành môi trường thuận lợi cho việc tán phát tin giả. Hơn thế, trong điều kiện mới, các lực lượng thù địch đang ra sức chống phá cách mạng Việt Nam, trong đó, việc tung tin giả được sử dụng như một mũi công kích chủ yếu.


Để khắc chế, đẩy lùi vấn nạn tin giả, với trách nhiệm rất cao, Việt Nam đã đề xuất thành lập đội phản ứng của ASEAN về tin giả và được các quan chức cao cấp ASEAN đồng thuận, ủng hộ. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, cách thức vận hành đội phản ứng nhanh để đi vào hoạt động hiệu quả vẫn còn là bài toán nan giải. Cùng với đó, việc phát huy vai trò của Trung tâm an ninh mạng quốc gia và Trung tâm phòng, chống tin giả tuy đạt kết quả bước đầu khả quan nhưng vẫn thụ động; chủ yếu là ứng phó, xử lý sự cố, sự việc khi có tình huống mà chưa đề cao đúng mức tính chủ động trong dự báo, ngăn chặn, đẩy lùi tin giả từ sớm, từ xa...


Cùng với đó, để khống chế, đẩy lùi tin giả thì công tác cung cấp, định hướng thông tin chính thống phải được xem là giải pháp trọng yếu, ưu tiên hàng đầu. Theo đó, cơ quan chức năng phải thực sự “đi trước, đón đầu” trong việc cung cấp thông tin chính xác, đồng bộ, rộng khắp; biến thông tin chính thống thành dòng chủ lưu trong đời sống thông tin xã hội để ngăn chặn, phòng ngừa, đẩy lùi tin giả. Khi xuất hiện tình huống tin giả, cơ quan chức năng cần có ngay các giải pháp quản lý, khống chế cả về số lượng, phạm vi, mức độ, cường độ lây lan của tin giả trên không gian mạng. Phải nỗ lực khắc chế, đẩy lùi tin giả từ khi chúng vừa manh nha hình thành, hay chí ít là khi chúng xuất hiện nhỏ lẻ, chứ không thể để tin giả lây lan rộng khắp, trở thành "điểm nóng" trên MXH rồi mới “theo đuôi”, đi tìm cách khắc phục, xử lý...


Vấn đề đáng bàn ở đây là vì sao những tin tức giả mạo, bịa đặt trắng trợn vẫn có thể xuất hiện kéo dài trên MXH, gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng chưa có cơ quan chức năng kịp thời đứng ra nhận trách nhiệm hoặc chủ động đấu tranh, cung cấp thông tin chính thống nhằm điều chỉnh, uốn nắn, định hướng dư luận ở những thời điểm nhạy cảm? Phải chăng vẫn còn vướng mắc nào đó về mặt cơ chế, hay là do chi phối bởi căn bệnh sợ trách nhiệm? Đây là vấn đề cần nhìn nhận thấu đáo để nghiêm khắc rút kinh nghiệm và có giải pháp khắc phục.


Trên tinh thần đó, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống, đẩy lùi vấn nạn tin giả, Việt Nam cần có những quy định chặt chẽ hơn trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông; hoàn thiện quy định, quy chế phát ngôn định hướng dư luận; quy rõ trách nhiệm đối với người đứng đầu và cơ quan chức năng trong việc quản lý, đấu tranh với vấn nạn tin giả. Đó là những vấn đề cần lưu tâm, ưu tiên thực hiện.


Một giải pháp quan trọng nữa là cần đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ quan quản lý truyền thông Việt Nam và các quốc gia trên thế giới trong việc phát hiện, khống chế, đẩy lùi tin giả; tăng cường phối hợp giữa các tổ chức nghiên cứu độc lập, tổ chức xác minh và nhà cung cấp MXH để đối phó với vấn nạn tin giả trong khu vực và trên thế giới; tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cấp, ngành, cơ quan, địa phương trong cả nước nhằm chủ động ngăn chặn, phát hiện, đấu tranh và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi tán phát, ủng hộ, cổ xúy tin giả nhằm những mục đích tiêu cực, phản động, vi phạm pháp luật./

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

 80 NĂM VỮNG BƯỚC DƯỚI QUÂN KỲ QUYẾT THẮNG - ĐƯỜNG LỐI “NGƯỜI TRƯỚC SÚNG SAU” - NGUỒN SỨC MẠNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 

Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục, rèn luyện; được nhân dân tin yêu, đùm bọc, giúp đỡ, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đã lớn mạnh không ngừng, lập nên nhiều chiến công hiển hách, hoàn thành trọng trách của đội quân cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. 

Lịch sử 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, những chiến công vĩ đại của QĐND Việt Nam không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối với nước nhà mà còn được nhân loại tiến bộ trên thế giới ngợi ca. Một trong những nguồn gốc tạo nên sức mạnh vô địch của Quân đội chính là tư tưởng Hồ Chí Minh “người trước súng sau”, đặt chính trị lên trước quân sự, trọng con người hơn vũ khí.

Năm 1941, tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa I), Đảng ta quyết định sẽ giành chính quyền bằng con đường khởi nghĩa vũ trang. Khi ấy, một số cán bộ băn khoăn, lo lắng không biết sẽ lấy ở đâu vũ khí để khởi nghĩa, lãnh tụ Hồ Chí Minh cho rằng: “Không sợ thiếu vũ khí. Chỉ sợ khi thời cơ đến lại thiếu người cầm vũ khí. Việc khẩn cấp bây giờ là phải xây dựng lực lượng vũ trang, đào luyện con người, mở rộng căn cứ địa”. Trong Chỉ thị thành lập “Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân”-tiền thân của QĐND Việt Nam (ngày 22-12-1944), lãnh tụ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, nghĩa là chính trị quan trọng hơn quân sự”.

Về sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn, trong xây dựng Quân đội phải “người trước súng sau”. Người phân tích: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”. Đồng thời, trên cơ sở tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phủ nhận vai trò của vũ khí, trang bị hiện đại đối với sức mạnh của Quân đội bởi lịch sử các cuộc chiến tranh chứng tỏ chỉ khi ý chí chiến đấu kết hợp với sức mạnh của vũ khí mới giành được thắng lợi. Mặt khác, nếu không có vũ khí, trang bị thì ý chí chiến đấu dù mạnh mẽ đến đâu cũng sẽ suy giảm và tiêu tan. Với quan điểm “người trước súng sau”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị phải đào tạo, huấn luyện thế hệ cầm súng có lý tưởng cách mạng, dám “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Người yêu cầu người chiến sĩ phải luôn chấp hành kỷ luật nghiêm minh; tinh thần vững chắc; ý chí quyết chiến quyết thắng; trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung; dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, biết sử dụng thành thạo, linh hoạt các loại vũ khí có trong tay; chăm chỉ học tập và rèn luyện kỹ năng tác chiến.

Những chỉ thị có ý nghĩa vô cùng quan trọng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ngay từ đầu bản chất chính trị và bản chất cách mạng của Quân đội ta. Bản chất đó được thể chế hóa bằng nguyên tắc lãnh đạo và tổ chức của QĐND Việt Nam, thể hiện trong lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. 

Thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là minh chứng hùng hồn về sức mạnh vô địch của tư tưởng Hồ Chí Minh “người trước súng sau”. Sau khi Việt Nam giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám và tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945, thực dân Pháp được Mỹ hậu thuẫn và chi viện, đã quay trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa. Với niềm tin vô bờ bến vào sức mạnh vô song của chiến tranh nhân dân, trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiệu triệu: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước". "Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp đã dẫn đến cuộc đối đầu lịch sử tại Điện Biên Phủ được coi là “điểm hẹn lịch sử” với nhiều hàm ý, trong đó có hàm ý cuộc đối đầu giữa tư duy vũ khí luận của chủ nghĩa thực dân và đế quốc, cậy thế vào sức mạnh vũ khí với tư duy dựa vào sức mạnh và ý chí của con người, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong chuyến thăm các vùng đất của ta tạm thời bị thực dân Pháp chiếm đóng, một nghị sĩ Pháp đưa ra nhận định rằng cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam giống như “cuộc chiến giữa muỗi với voi”. Bình luận về nhận định này của nghị sĩ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của mình bằng câu ca “Nay tuy châu chấu đấu voi/ Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”. Rút cuộc, thực dân Pháp và ở mức độ nào đó là cả lực lượng can thiệp Mỹ, đã đại bại ở Điện Biên Phủ vào ngày 7-5-1954.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Ðiện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Sau chiến thắng của ta ở Điện Biên Phủ, cụm từ “Việt Nam-Hồ Chí Minh-Điện Biên Phủ” trở thành biểu tượng của ý chí đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự do.

Với nhãn quan chiến lược “xuyên thế kỷ”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định, chiến thắng lịch sử của ta ở Điện Biên Phủ tuy “chấn động địa cầu” nhưng chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Tiếp theo, Việt Nam còn phải đương đầu với kẻ thù xâm lược hung bạo gấp nhiều lần là đế quốc Mỹ. Sau khi phá hoại Hiệp định Geneva năm 1954 chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp, chế độ thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương, đế quốc Mỹ phát động "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam Việt Nam. Bị thất bại trong "chiến tranh đặc biệt", Mỹ quyết định phát động "chiến tranh cục bộ" trên cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương. Khi phát động "chiến tranh cục bộ", các tướng tá Mỹ tuyên bố thách thức đầy ngạo mạn rằng liệu những người lính chân đất của Hồ Chí Minh có thể đối chọi được tên lửa hạt nhân xuyên lục địa của Mỹ? Thậm chí, chúng còn đe đọa, bằng các đòn tấn công hủy diệt của vũ khí siêu hiện đại, Mỹ sẽ đưa Việt Nam về “thời kỳ đồ đá”!

Dưới sự lãnh đạo, tài thao lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, ý chí chiến đấu ngoan cường của lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là QĐND Việt Nam, chúng ta đã khai thác, sử dụng hiệu quả tất cả vũ khí trang bị để đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới. Có thể thấy, trong cuộc chiến tranh này, đế quốc Mỹ đã sử dụng tất cả vũ khí hiện đại nhất và các loại hình chiến tranh khốc liệt nhất. Tuy nhiên, rốt cuộc Mỹ đã thất bại thảm hại mà đỉnh cao là trong chiến dịch ném bom chiến lược “Linebacker” tháng 12-2972, được ví như “Điện Biên Phủ trên không”. Trong chiến dịch này, hàng chục “pháo đài bay” B-52 của Mỹ đã bị “những người lính chân đất” bắn hạ. Thất bại của "chiến tranh cục bộ" buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973.

Có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định rằng thất bại của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam là thất bại của tư duy vũ khí luận của đội quân xâm lược mạnh nhất thế giới tư bản trước tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh dựa vào sức mạnh và ý chí của con người sẵn sàng chiến đấu vì độc lâp, tự do của Tổ quốc, không bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ sức mạnh xâm lược tàn bạo nào, của đường lối chiến tranh nhân dân, của nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc.

Chính vì thế, âm mưu và thủ đoạn của các thế lực phản động và thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu “phi chính trị hóa Quân đội”, nghĩa là xóa bỏ sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội; làm thay đổi bản chất cách mạng của Quân đội; làm cho Quân đội từng bước xa rời phương hướng chính trị của Đảng, xa rời mục tiêu chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, không còn là lực lượng chính trị tin cậy và là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước. Do đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần đề cao cảnh giác, chủ động nhận diện và đấu tranh với các thủ đoạn mới của các thế lực thù địch bằng hệ thống giải pháp đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự hiệu quả. 

Đại tá LÊ THẾ MẪU, Nguyên cán bộ Viện Chiến lược Quốc phòng

 BÀI NÓI CHUYỆN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TẠI HỘI NGHỊ CUNG CẤP TOÀN QUÂN LẦN THỨ NHẤT (25/6/1952)

1. Trách nhiệm của cán bộ cung cấp thế nào?

Mỗi người cán bộ cung cấp nói riêng và Tổng cục cung cấp nói chung, phải phụ trách trước bộ đội, trước nhân dân, trước Đảng, trước Chính phủ. Nhân dân thi đua đóng góp cho Chính phủ, Chính phủ lo ngày lo đêm giao cho các chú cung cấp cho bộ đội. Bộ đội mong chờ các chú. Các chú làm tròn trách nhiệm là tốt. Các chú làm không tròn là có lỗi với Đảng, với Chính phủ, với bộ đội, với nhân dân. Muốn làm tròn nhiệm vụ, cán bộ cung cấp trước hết phải có tinh thần trách nhiệm, cố gắng vượt mọi khó khǎn làm cho bộ đội no ấm, đủ súng đạn, đủ sức khoẻ để đánh giặc.

2. Tǎng gia sản xuất và tiết kiệm.

Đó là chính sách chung của Đảng, của Chính phủ, của nhân dân, của bộ đội.

Trước hết nói về tǎng gia sản xuất. Các cơ quan trong quân đội phải cố sức trồng trọt chǎn nuôi để tự túc phần nào, để giảm bớt gánh nặng của nhân dân. Tuy công việc chuyên môn vẫn là chính, nhưng phải cố sức tǎng gia. Bộ đội đánh thắng giặc thu được nhiều chiến lợi phẩm, đấy cũng là tǎng gia.

Các chú đã hiểu rõ kháng chiến nhất định thắng lợi, muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh. Tǎng gia là một bộ phận trong chính sách tự lực cánh sinh.

Nói chung tiết kiệm cái gì? Tiết kiệm sức người như dân công, tiết kiệm tiền, tiết kiệm của. Mọi thứ đều phải tiết kiệm, tǎng gia mà không tiết kiệm thì vô ích. Tiết kiệm mà không tǎng gia thì lấy gì mà tiết kiệm? Mục đích tiết kiệm không phải là bớt ǎn, mà là thêm ǎn, làm cho bộ đội no. Nói chung, các cơ quan đều phải tiết kiệm. Riêng cơ quan cung cấp tổ chức còn kềnh càng, thừa người, phải sắp xếp cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc thiết thực, những người thừa phải đưa đi chỗ thiếu, những người ở lại phải thi đua nâng cao nǎng suất của mình. Thế là tinh giản, tinh là nǎng suất lên cao, làm cho mau cho tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức.

Để giúp cho việc tǎng gia và tiết kiệm thành công, việc chi thu phải đúng mức, đi đến thu nhiều chi ít, nhưng chúng ta phải đi dần dần, bây giờ phải chi thu đúng mức. Làm việc gì phải làm cho kết quả, trong phạm vi số tiền đã định, nếu làm tròn việc ấy mà không hết số tiền đã định là các chú có công. Khoản nào phải để vào khoản ấy, không được đem khoản nọ tiêu nhằng sang khoản kia.

Chiến lợi phẩm nếu thu đúng, nếu kỷ luật nghiêm thì từ chiến dịch Biên giới đến nay, chúng ta cũng đã thu được khá để trang bị cho bộ đội.

Chính sách của chúng ta từ trước đến giờ là giành của địch để đánh địch. Hồng quân Liên Xô, Giải phóng quân Trung Quốc cũng giành của địch để đánh địch. Ta cũng làm như vậy. Nhưng từ trước tới nay chưa làm đúng, từ nay trở đi phải làm cho đúng. Việc này ảnh hưởng nói chung đến kháng chiến, nói riêng đến Tổng cục cung cấp. Mỗi lần ta đánh thắng mà tất cả chiến lợi phẩm đều tập trung lại, đưa về làm của công, có ngǎn nắp, thì ảnh hưởng đến các ngành trong Tổng cục. Quân y có thêm thuốc, quân nhu có thêm quần áo chǎn màn, quân giới có thêm máy móc, quân khí có thêm súng đạn, vận tải có thêm xe cộ, thì ảnh hưởng tốt cho công quỹ của Chính phủ. Một mặt tǎng cường được trang bị cho bộ đội, một mặt giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân. Muốn thế phải có chính sách, kế hoạch rõ ràng, có kỷ luật nghiêm. Kỷ luật phải nghiêm nhưng cấp phát phải có kế hoạch, thứ gì thưởng cho bộ đội không tính vào cấp phát, thứ gì thu về hậu phương để cấp phát sau. Thế là thực hiện được kỷ luật nghiêm và cấp phát đúng, chứ không được để cho bộ đội tự do làm hao phí và lấy dùng bừa bãi.

3. Bổn phận của cán bộ cung cấp

Là phục vụ chiến sĩ đi đánh giặc và những người dân công đi giúp chiến dịch. Đối với chiến sĩ, phải sǎn sóc họ, làm sao cho họ đủ ǎn, đủ mặc, đủ súng, đủ thuốc. Đối với dân công cũng phải như vậy, nếu họ đói, họ ốm, ảnh hưởng đến công tác của các chú trước, rồi ảnh hưởng đến cả chiến dịch. CÁC CHÚ PHẢI LÀM THẾ NÀO MỘT BÁT GẠO, MỘT ĐỒNG TIỀN, MỘT VIÊN ĐẠN, MỘT VIÊN THUỐC, MỘT TẤC VẢI, PHẢI ĐI THẲNG ĐẾN CHIẾN SĨ. ĐÓ LÀ BỔN PHẬN CỦA CÁC CHÚ.Muốn làm được như thế, cố nhiên phải có tổ chức, có chương trình, nhưng nếu cán bộ không cố gắng, thì không thành công được. Mọi người gây thành một phong trào tự phê bình và phê bình để chống tham ô lãng phí. Các ngành trong Tổng cục cung cấp tuy có cố gắng nhưng cũng còn cần phải chống tham ô lãng phí hơn nữa.

Bác nhận được nhiều thư trong bộ đội gửi lại, hoặc trong chỉnh huấn gửi tới, tự phê bình là có tham ô lãng phí và xin hứa sửa chữa. Chắc rằng trong bộ đội, cơ quan còn có người tham ô lãng phí mà chưa tự phê bình. Vậy mỗi người phải tự mình chống tham ô lãng phí, gây thành một phong trào làm cho mọi người thấy đó là tội ác xấu xa, ai cũng gớm cũng ghét. Cần phải đấu tranh trừ bỏ tội ác đó.

Tham ô lãng phí một phần lớn là do bệnh quan liêu mà ra. Quan liêu là gì? Quan liêu là những người phụ trách bất kỳ cấp nào không gần gũi cán bộ, không theo dõi công việc thiết thực, không theo dõi cán bộ để biết tính nết, khả nǎng, để thấy điều tốt thì khuyến khích, thấy điều xấu thì can ngǎn, giáo dục, giúp đỡ sửa chữa. Thế là cán bộ xa thực tế, xa bộ đội, xa nhân dân, không dân chủ.

Muốn chống tham ô lãng phí, chống quan liêu thì phải dân chủ, gây tự phê bình và phê bình, làm cho mọi người biết tự phê bình mình và dám phê bình người. Tất nhiên không phải nói lu bù nhưng phải để cho người phụ trách thấy, để quần chúng thấy, thì tham ô lãng phí không thể nảy nở được.

Bác cũng có nhận được nhiều thư của các cán bộ gửi đến cho Bác, nói trước thì thắc mắc, không yên tâm nhưng nay đã sửa chữa. Cố nhiên phải tin lời nói của cán bộ, nhưng trong các chú ở đây và các chú ở nhà, cũng còn có những chú chưa yên tâm làm việc. Đó là bệnh cá nhân, là còn tham địa vị, nói chung là không hiểu sâu sắc cách mạng phải có phân công.

Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ǎn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân.

Đó là vinh dự cao nhất. Nếu có thành tích gì thì Chủ tịch và người nấu cơm phải chia nhau cái vinh dự ấy. Tóm lại không có việc sang, hèn. Công việc gì làm tròn, bổ ích cho kháng chiến, cho nhân dân đều là công việc sang, công việc gì bên ngoài có vẻ loè loẹt mà không làm tròn là công việc xấu.

Trong Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc vừa rồi, 150 người trong Đại hội xứng đáng là anh hùng, có người đánh giặc, có người công nhân, có nông dân, có y tá, có bác sĩ, có dân công, có người nấu ǎn. Người nào vượt khó khǎn làm tròn nhiệm vụ, đó là anh hùng.

Các anh hùng, chiến sĩ vừa qua trong khi làm nhiệm vụ đều không nghĩ tới trở nên anh hùng. Nã Phá Luân dọc ngang trời đất, Từ Hải trong truyện Kiều “vai nǎm tấc rộng, thân mười thước cao” cũng gọi là người anh hùng, nhưng người anh hùng của ta không phải thế, người anh hùng của ta như cô dân công khu V, cô cán bộ vùng địch hậu, bé chút xíu nhưng làm tròn nhiệm vụ.

Các chú cũng có thể trở nên anh hùng. Với sự giúp đỡ của Bộ Tổng tư lệnh, của Tổng cục cung cấp, với sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, với lòng tự tin của các chú, với sự giúp đỡ của anh em chung quanh, các chú sẽ thành công. Trước khi ra về, Bác dặn thêm các chú gắng gây thành một phong trào chống quan liêu, tham ô, lãng phí, các chú phụ trách phải xung phong gương mẫu. Sau khi làm, các chú báo cáo kết quả cho Bác biết.

Ngày 25/6/1952

(Sách Hồ Chí Minh: Những bài viết và nói về quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987, t.2, tr.143-148)

Phát triển truyền thông đối ngoại, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc

 Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, truyền thông đối ngoại đang được các quốc gia trên thế giới đẩy mạnh, tạo sự lan toả và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Việc đẩy mạnh truyền thông đối ngoại còn góp phần phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động lưu vong từ ngoài biên giới.

Thực trạng mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội thời gian qua

 


Trong hơn 93 năm qua, dù phải đối diện nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng chân chính, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi trọng và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một tổ chức chặt chẽ, thống nhất, vừa phát huy dân chủ, tôn trọng đóng góp của mỗi cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của tập thể, duy trì sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng, nỗ lực thực hiện sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị được nhân dân tin tưởng giao phó. Kế thừa và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ, Đảng ta tập trung nâng cao nhận thức, mở rộng thực hành dân chủ và đã đạt được những kết quả tích cực. Sự ra đời của Quy chế chất vấn trong Đảng và việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng đã làm gia tăng tính dân chủ trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, công tác cán bộ cũng đã được chú trọng hơn, với yêu cầu phải tiến hành theo những quy trình, quy định, các bước chặt chẽ, công khai, dân chủ, minh bạch; đặc biệt, công tác bầu cử với những quy định mới bước đầu tạo ra sự công bằng về cơ hội, tạo niềm tin, động lực phấn đấu cho chính đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Những nội dung, phương diện cơ bản của mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Thứ nhất, thực hành dân chủ trong Đảng là “hạt nhân”, tạo động lực, điều kiện và nêu gương để thực hiện, phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội; đồng thời, thực hành dân chủ trong xã hội là điều kiện cần thiết để củng cố, tạo môi trường, xung lực cho thực hành dân chủ trong Đảng.

Thực hành dân chủ trong Đảng và phát huy dân chủ trong xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua, luôn bổ sung và hoàn thiện lẫn nhau. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Tuy nhiên, chỉ có tăng cường thực hành dân chủ trong Đảng rộng rãi, thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương thì mới có thể tiến hành mở rộng và phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội, vì Đảng ta giữ vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và toàn xã hội. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi đảng viên ở bất cứ địa vị nào cũng phải làm gương thực hành dân chủ trong công tác, để tạo điều kiện cho mỗi người và quần chúng nhân dân nhiệt thành phát huy sáng kiến, nâng cao hiệu quả công việc. 

Thực hành dân chủ trong xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 


Thực hành dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính là để dân thực sự là chủ và làm chủ xã hội, để dân chủ được phát huy đến cao độ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện trên thực tế và đi vào thực chất; qua đó, xây dựng chế độ ta thực sự là một chế độ dân chủ và tạo ra “cái chìa khóa vạn năng” để Đảng ta cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thành công. Thực hành dân chủ chính là quá trình huy động, thu hút sự tham gia và phát huy được tối đa quyền hạn, lực lượng của toàn dân để thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng vì lợi ích của nhân dân, phát triển đất nước. Do đó, “phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”.

Nhận thức đúng về quyền tự do ngôn luận để không phát ngôn tùy tiện

 


 

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong nhiều văn bản luật quốc tế. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc nêu rõ: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến”.